KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 29)
Pháp
Sư Tịnh Không
“Ma”
Trong
kinh Bát Đại Nhân Giác, Phật nói bốn loại ma. Thứ nhất là “ngũ ấm ma”.
Ngũ ấm là thân thể. Bạn có thân thể này thì bạn phải chịu rất nhiều sự dày vò.
Có thân thể đương nhiên có tâm lý. Thân có khổ vui, tâm cũng vậy. Mọi người đều
biết thân khổ hay tâm khổ là sự dày vò nhưng không biết được cái ưa thích trong
tâm hay cái vui của thân cũng là sự dày vò, vì sao? Hưởng thụ tâm lý bình
thường là thanh tịnh, bình lặng. Còn hỉ, nộ, ai, lạc đều làm cho bạn không bình
lặng. Một khi trong lòng khởi lên sóng động chính là sự dày vò.
Ngũ
ấm ma gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bất cứ chúng sanh nào đều không thể
tránh khỏi. Chúng ta phàm phu nên nhận thân ngũ ấm, như Phu Tử từng nói: “Ta
có đại hoạn vì ta có thân”. Người thông minh nhất đẳng không bao giờ muốn
mình có thân. Vậy có thể làm được không? Có thể. Trong Phật pháp, người tu học
có công phu tương đối. Kinh Phật nói “ba cõi sáu đường” có dục giới, sắc
giới, vô sắc giới. Dục giới, sắc giới đều có thân thể, hay nói cách khác, không
thể nào tránh khỏi khổ. Thiên nhân của vô sắc giới không có thân. Họ biết thân
là gốc khổ, thân là tích chứa, thân là đại hoạn, cho nên họ không cần thân.
Thiên nhân tầng trời thứ tư vô sắc giới không có thân tướng, chúng ta gọi là “linh
giới”, cao cấp nhất trong phàm phu. Họ có được xem là giác ngộ không? Được.
Không thể nói họ không giác ngộ, thế nhưng họ không phải chánh giác.
Trong
Phật pháp, chúng ta giác ngộ là chánh giác. Chữ “chánh” chỉ riêng nhà
Phật mới có. Người thế gian tuy giác nhưng không chánh. Người trời tứ không có
thể nhìn thấy rõ ràng, không cần cái thân này thì không thể giải quyết được vấn
đề. Cho dù sanh đến phi tưởng phi phi tưởng thiên, tuổi thọ tám vạn đại kiếp
vẫn là có hạn. Sau tám vạn đại kiếp, họ liền phải đọa lạc. Ngạn ngữ nói “Leo
càng cao té càng đau”. Họ vừa đọa thì liền vào địa ngục. Tuyệt đại đa số
đọa lạc trong vô gián địa ngục. Nguyên nhân ở đó không phải vô cớ. Những người
này đều là người tu hành, vì không tu hành đã không đến được cảnh giới cao đến
vậy. Tu đến được cảnh giới này, cho rằng mình đã thành Phật, chứng được đại
Niết Bàn, không sanh không diệt. Đó không phải là giả. Nhưng họ đem trời tứ
thiền, trời vô tưởng, tứ không thiên tương đương Niết Bàn. Đó là sai lầm, ngộ
nhận. Lỗi lầm chính ở họ, quyết không phải Phật Bồ Tát.
Phật
Bồ Tát trong kinh điển nói rõ ràng tường tận. Chúng ta không thể hiểu lầm ý
này. Dày vò của ngũ ấm không thể nào tránh khỏi, cho dù Phật Bồ Tát ứng hoá ở
sáu cõi. Chư Phật Bồ Tát ứng hoá đến, hiện ra thân tướng cũng là thân ngũ ấm.
Loại thị hiện này kinh Hoa Nghiêm nói “thay chúng sanh chịu khổ”. Vậy
những vị Phật Bồ Tát thị hiện có phải chịu khổ hay không? Trên hình tướng mà
nói, họ cũng phải chịu khổ. Nhưng trên thực tế các ngài không hề khổ. Đó là chư
Phật Bồ Tát ứng hoá ở thế gian, hoàn toàn khác khi chúng ta đến. Trên hình
tướng, ăn mặc đi đứng đời sống của các ngài không hề khác chúng ta. Phàm phu
chúng ta có khổ vui, các ngài cũng có khổ vui biểu diễn bên ngoài, nhưng tâm
các ngài vĩnh viễn thanh tịnh, quyết không khổ. Sở dĩ phải làm ra dáng vẻ khổ
để phàm phu chúng ta xem và có được sự giác ngộ. Mục đích của ngài là hoá độ
chúng sanh, là đến thị hiện, chứ không phải chân thật đang chịu khổ.
Ngoài
ngũ ấm ma, Phật nói “phiền não là ma”. Phiền não vô lượng vô biên dày vò
chúng ta. Trong phiền não bao gồm cả thất tình ngũ dục. Phạm vi rất rộng.
Loại
thứ ba là “tử ma”, ý nói sanh tử dày vò. Chúng sanh chưa ra khỏi sáu cõi
thì không cách gì tránh khỏi. Có sanh nhất định có tử. Sau khi chết họ lại đi
đầu thai. Tuyệt đối không thể nói chết rồi là hết. Nếu chết rồi là hết thì
chúng ta không cần phải học bất cứ thứ gì, không phải khổ cực tu hành vì cũng
dùng không được. Xin nói với các vị, nhất định chết không phải là hết. Các vị
tỉ mỉ đọc kinh Địa Tạng sẽ biết cái chết thật đáng sợ. Sự việc chết tuyệt nhiên
không đáng sợ, nhưng sau khi chết thì phiền phức rất lớn. Sau khi chết sẽ tùy
nghiệp thọ báo.
Thử
nghĩ xem từ quá khứ đời đời kiếp kiếp đến đời này, chúng ta đã tạo nghiệp gì?
Nghiệp thiện có quả báo của ba đường thiện, nghiệp ác nhất định có quả báo của
ba đường ác. Ba đường ác dễ dàng đọa lạc, thoát ra là việc vô cùng khó khăn. Từ
đó Phật dạy chúng ta phương pháp tu học “năm giới mười thiện”, đó là
pháp cơ bản.
Tam
phước trong Quán kinh xếp ở hai điều phía trước. Mười thiện gồm thân ba, khẩu
bốn, ý ba. Thân không sát sanh, không trộm cắp, tại gia không tà dâm. Khẩu
không nói dối, không hai chiều, không ác khẩu, không thêu dệt. Ý không tham,
không sân, không si. Trong một đời, mười điều này chúng ta đã làm được bao
nhiêu? Làm được mười điều thì năm giới đương nhiên bao gồm trong đó, bạn mới có
thể có lại thân người. Con người sau khi chết muốn được lại thân người thật
khó. Nếu lấy điểm số để nói, nhất định phải thực hiện mười điều đến tám mươi
điểm, mới có thể nắm chắc đời sau được thân người. Nếu làm được 100%, thì quả
báo của bạn không ở nhân gian mà ở trên trời hưởng phước. Phước báu lớn hơn
nhiều so với nhân gian. Đó là Phật dạy pháp tắc căn bản cho chúng ta.
Tạo
mười ác nghiệp, nhẹ thì ngạ quỷ, súc sanh; nặng thì đọa vào địa ngục. Chúng ta
phải cố gắng phản tỉnh, kiểm điểm chính mình. Mỗi ngày từ sớm đến tối, từ đầu
tháng đến cuối tháng rốt cuộc đã làm mười thiện hay mười ác? Rốt cuộc là sức
nghiệp thiện mạnh hay sức nghiệp ác mạnh? Người tu hành phải phản tỉnh từng
giờ, kiểm điểm từng giờ. Thân người khó được mà dễ mất, sau khi mất đi, chúng
ta phải làm sao? Việc này không thể không suy nghĩ đến.
Cho
nên Phật trong kinh điển một mực khuyên bảo phải trân trọng sức khỏe thân thể
hiện tại. Tất cả điều kiện đều đầy đủ, phải chăm chỉ nỗ lực mà tu học. Cả đời
tu hành, công phu tốt thì sau khi chết, đời sau sẽ không tệ. Có công phu thì
đời sau được thân người. Khi phải nhập thai được thân người, công phu đời trước
thảy đều tiêu hết, chúng ta phải bắt đầu lại. Đó gọi là dày vò, không thể đời đời
kiếp kiếp tiếp nối. Việc gián đoạn chí ít cũng hết hai mươi năm, đó là bị mê
khi cách ấm, bạn bị quên hết sạch. Cho nên thế gian tu hành khó. Phật nói ba a
tăng kỳ kiếp, vô lượng kiếp, đạo lý chính ngay chỗ này. Nếu việc tu học của
chúng ta quả như giữ được không để gián đoạn, không thoái chuyển, phàm phu
thành Phật, thì làm gì mất thời gian dài đến vậy.
Trong
sáu cõi, thời gian thoái chuyển rất dài. Vừa đọa vào ác đạo, tuổi thọ trong địa
ngục đều vô số kiếp, một thời gian dài không nghe được Phật pháp. Trời cõi dục
giới đỡ hơn một chút, còn từ sắc giới trở lên cũng không dễ, vì phước báu quá
lớn. Họ lo hưởng phước nên xem nhẹ việc tu hành. Thế mới có câu “giàu sang
khó học đạo”. Trong sanh tử đại sự, tử ma rất phiền phức. Nếu chúng ta
không muốn chết thì đã có kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta vô lượng thọ. Bạn y
theo pháp môn này mà tu học, ngay trong một đời bạn nhất định không chết. Khi
giảng giải, tôi đã nói rất nhiều lần về pháp môn này. Lời tôi nói đều thật,
không phải giả. Mỗi giờ mỗi phút đều khuyên bảo mọi người. Pháp môn này không
già không bệnh, không chết, nhưng đáng tiếc rất ít người tin. Đúng như chư Phật
nói “pháp khó tin”.
Có
người muốn hỏi: “Bạn nói không chết, nhưng chúng tôi thấy người niệm Phật
chết cũng không ít, thế thì sao lại không chết chứ?”. Kỳ thật người niệm
Phật không chết, họ vứt bỏ thân thể này để đi đến thế giới Cực Lạc. Khi ra đi,
họ thấy rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo đức Phật đến rước. Họ không có
đau khổ, ngược lại hoan hỉ vui vẻ đi theo Phật. Sau khi xả bỏ thân này, đến thế
giới Tây Phương Cực Lạc, cái thân đó giống như thân của Phật A Di Đà, sắc thân
tử ma vàng thật. Trên kinh Phật nói “đầy đủ ba mươi hai tướng”, đó là
tùy thuận phàm phu chúng ta mà nói. Trên thực tế không phải như vậy. Trên thực
tế thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Đến thế giới Tây Phương
Cực Lạc, mãi mãi không còn già nữa, vĩnh viễn sẽ không bị bệnh. Tất cả sự mong
cầu là tùy tâm sở nguyện, chân thật là tâm tưởng sự thành. Bạn thử nghĩ xem nơi
đó tốt đến dường nào.
Người
đại phú đại quý ở thế gian chúng ta so với thế giới Tây Phương Cực Lạc, cõi
phàm thánh đồng cư hạ hạ phẩm vãng sanh cũng không thể so được. Thậm chí kinh
còn nói, dù trên trời, người Trung Quốc gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế cũng không thể
sánh, vì họ mới là dục giới, tầng trời thứ hai. Trời Đao Lợi là chủ, nhưng Đại
Phạm Thiên Vương cũng không thể sánh được với thế giới Tây Phương Cực Lạc, với
phước báu của người hạ hạ phẩm vãng sanh. Cho nên các vị muốn chân thật hưởng
phước báu lớn thì ở thời đại hiện tại này, tai nạn triền miên, người trung niên
trở lên phải thường hay nghĩ đến nơi quay về. Phải tự hỏi, sau khi già thì làm
sao? Đi đến nơi nào?
Đó
cũng là lý do Lý cư sĩ phát khởi muốn xây dựng thôn Di Đà. Hôm nay ông cho tôi
xem biên bản hội nghị. Đại hội Cư Sĩ Lâm đã thông qua. Đó là chỗ quay về hiện
tại của chúng ta. Một người thông minh, một người giác ngộ thì đến nơi nào là
tốt nhất? Đó là thôn Di Đà. Thôn Di Đà tương lai nhất định thấy được Phật A Di
Đà, nhất định vãng sanh tịnh độ. Cả đời này chúng ta không hề luống qua. Vô
lượng kiếp đến nay là cơ duyên hy hữu khó gặp. Chúng ta ở ngay đời này xem là
đã đợi được, không chỉ đại sự một đời, mà đời đời kiếp kiếp vô lượng đến nay.
Loại
sau cùng là “thiên ma”. Kinh Phật nói, thiên ma là ma vương Ba Tuần. Ba
loại ma trước đều là tự thân chúng ta đầy đủ. Ngũ ấm là tự thân ta; phiền não
cũng là tự thân, sanh tử vẫn là tự thân. Chỉ có một loại bên ngoài. Loại ma bên
ngoài này rốt cuộc là gì?
Hiện
tại thế giới muôn màu bên ngoài, tất cả người sự vật bạn thấy được, nghe được,
hay tiếp xúc được đều đang mê hoặc bạn. Đó chính là ma, khiến thân tâm bạn vĩnh
viễn không an bình. Do đây mà biết loại ma này trong thì phiền não, ngoài thì
mê hoặc.
“Oán”
Oan
gia có hai loại. Thứ nhất là hoan hỉ oan gia. Đó cũng là những việc phiền phức.
Oan gia không chỉ ngày ngày chọc bạn sanh phiền não, mà oan gia cũng làm bạn
ngày ngày hoan hỉ. Nói chung, oan gia luôn làm tâm bạn không thể buông bỏ.
Trong tâm luôn có vướng bận. Hai năm trước, tôi ở Đài Loan khoảng thời gian
tết. Có một vị lão cư sĩ đến chúc tết tôi. Ông nói: “Pháp sư à! Những năm
qua tôi niệm Phật cũng không tệ. Bất cứ thứ gì đều có thể buông bỏ. Chỉ có đứa
cháu là tôi không thể buông bỏ. Vậy phải làm sao?”. Đứa cháu đó chính là
oan gia của ông nên ông không quên nó. Chỉ cần một việc không thể buông bỏ thì
không thể vãng sanh. Khi Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, bạn nói còn việc này việc
nọ chưa buông bỏ, thì Phật A Di Đà sẽ không đợi bạn. Ngài liền đi mất.
Do
đó đối với oan gia, Phật dạy chúng ta phải dùng định, dùng huệ. Định huệ có lực
thì có thể “hàng phục ma oán”. Bạn liền có năng lực đối phó với chúng.
Người có định huệ cũng có thể hàng phục ngũ ấm ma.
Thứ
nhất là thân thể khoẻ mạnh không bị bệnh. Bị bệnh là do bốn đại không điều hòa.
Thành thật mà nói, nếu bạn có bệnh, tức bạn không có công phu. Người thật có
công phu mà bị bệnh, đó là thị hiện. Cư sĩ Duy Ma thị hiện giả bệnh. Ngài giả
bệnh để phương tiện hoá độ chúng sanh, chứ không phải ngài bệnh. Còn bạn bị
bệnh rốt cuộc là giả bệnh hay thật bệnh? Việc này chính bạn phải rõ ràng. Cho nên
thân thể phải khoẻ mạnh, đó là cách hàng phục ngũ ấm ma.
Thứ
hai là dung mạo không dễ suy già. Đây cũng thuộc về ngũ ấm ma. Có định có huệ,
tâm địa tất sẽ thanh tịnh. Hiện tại, rất nhiều người đang chú trọng dưỡng sinh.
Phải ăn thực phẩm gì để khoẻ mạnh, phải trị liệu thế nào về sinh lý, vận động
thế nào để bảo dưỡng thân thể? Tôi thấy đều không hiệu quả. Phật pháp nói cái
đạo dưỡng sinh là nói đến tu định. Tu định có phải mỗi ngày chéo gối xếp bằng
quay mặt vào vách không? Một số người nói đến tu định thì cho rằng mỗi ngày
phải ngồi xếp bằng mấy giờ đồng hồ. Những người tu định đó, tôi cũng thấy qua,
tướng mạo năm sau không bằng năm trước, thân thể cũng vậy. Do mỗi ngày tuy ngồi
mấy giờ đồng hồ, nhưng trong lòng vẫn nghĩ tưởng lung tung thì làm sao gọi là
định được?
Các
vị phải biết, trong tâm không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mới gọi là
định. Không nhất thiết chéo gối ngồi xếp bằng. Trong Đàn kinh, Đại sư Huệ Năng
tổ thứ sáu thiền tông là một người cừ khôi. Mặc dù Đàn kinh không ghi chép,
nhưng mỗi ngày ngài ngồi mấy giờ đồng hồ. Đàn kinh chỉ ghi chép số lượng công
việc mỗi ngày của ngài. Ngài ở Hoàng Mai, làm việc trong nhà bếp, bửa củi, giã
gạo, hầu như toàn công việc thô nặng. Nếu ngài xếp bằng quay vào vách thì đạo
tràng chẳng có cơm ăn. Đạo tràng nhiều người đến vậy. Họ cần ăn cơm do ngài giã
gạo. Vì thế công việc của ngài rất nhiều, làm gì có thời gian để ngồi thiền.
Nhưng rốt cuộc ngài có thật tọa thiền hay không? Có! Làm việc chính là tọa
thiền. Ngài nói ý nghĩa của tọa thiền.
“Tọa”
ý nói bất động, không có nghĩa bảo bạn ngồi một ngày từ sớm đến tối. Bạn ngồi
đó thì ai hầu, phước báu của bạn bao lớn? Trong khi Phật dạy phước huệ song tu,
làm sao bạn có thể ngồi đó hưởng phước được? “Tọa” là bất động. Không
phải thân bất động mà tâm bất động.
“Thiền”
là không dính mắc. Không động tâm là tọa, do đó thân có thể động. Một ngày từ
sớm đến tối thân làm việc, bận rộn đến quên hết tất cả. Trong lòng không hề
khởi tâm động niệm. Cái bản lĩnh này cao, tâm địa vĩnh viễn thanh tịnh, thì
không luận làm bất cứ việc gì, dù công việc có khổ hơn, nặng nề hơn, họ cũng
làm một cách nhẹ nhàng, thư thái, vì họ không dính mắc.
Phàm
phu chúng ta làm công việc nặng nề thường cảm thấy mệt, do dính mắc, do phân
biệt chấp trước. Nhưng nếu không dính mắc thì bạn sẽ không có cảm xúc. Không
chỉ không dính mắc tướng của công việc, mà tướng của cái thân cũng không dính
mắc. Kinh Kim Cang nói “vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô
thọ giả tướng”. Công việc là ở tướng chúng sanh, thọ giả tướng là thời
gian. Thời gian làm việc có dài hơn, ngài cũng sẽ không cảm thấy mệt mỏi. Ngày
nay chúng ta chỉ hơi cực một chút thì mệt đừ ra, dính lấy bốn tướng. Cho nên
phải có định, có huệ, hiểu rõ các pháp không tướng. Tất cả pháp, tướng đều là
huyễn có, diệu hữu, thể là chân không, đó là trí tuệ. Ngài Huệ Năng sau khi
hiểu rõ chân tướng sự thật, đương nhiên ngài liền không chấp trước. Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước mới có thể chân thật đoạn dứt.
Cho
nên huệ giúp định, định giúp huệ. Định và huệ là thành tựu lẫn nhau, tạo năng
lực hàng phục ma oán. Trong ma oán, phiền não nhất là nhân sự. Từ xưa đến nay
cách ngôn đã nói “làm việc khó, làm người càng khó”, đặc biệt người hiện
đại. Lòng người khó lường, ý niệm thiên biến vạn hoá. Kinh Địa Tạng cũng nói “tánh
thức bất định”. Lòng người thế gian bất định, không thể dò tìm. Người ứng
phó không có trí tuệ không làm được. Phàm hễ ai tiếp xúc với chúng ta, kinh
Phật nói, đều không ngoài bốn loại duyên “báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ”.
Đời này chúng ta quen biết tất cả mọi người đều là bốn loại quan hệ này. Khi
chúng ta đi bộ trên đường, gặp được người, nếu hòa nhã chào hỏi bạn, dù cả đời
chỉ gặp một lần, sau khi đi qua sẽ không gặp lại cũng là thiện duyên đời quá
khứ. Đó là cái duyên nhiều nhất, ngay một đời chỉ có một lần. Hoặc một số người
kéo đến không quen biết, vừa nhìn thấy bạn liền tỏ ra không vừa lòng, trợn mắt
với bạn. Đó cũng là duyên, nhưng duyên bất thiện, có thể ngay trong một đời chỉ
gặp một lần. Duyên này tương đối mỏng. Nếu duyên kết sâu thì phiền phức liền
lớn.
Chúng
ta phải làm thế nào để cùng sống với họ? Thực tế thật khó. Người học Phật có
nguyên tắc, tuân thủ lời giáo huấn của Phật. “Tam phước, lục hòa, lục độ”,
là tổng nguyên tắc đối nhân xử thế tiếp vật. Những nguyên tắc này đều không rời
khỏi định huệ. Không phải cửa định sở nhiếp thì là cửa huệ bao hàm. Học định
huệ ở đâu? Học ngay cuộc sống thường ngày, trong đối nhân xử thế tiếp vật. Công
phu của Bồ tát từ trước chưa từng gián đoạn, chỗ này gọi là “không hoài
nghi, không xen tạp, không gián đoạn”. Công phu chân thật dùng được đắc lực
ngay nơi khởi tâm động niệm.
Như
Lai định huệ viên mãn nên tất cả oan gia trái chủ đều được Phật giúp đỡ phá mê
khai ngộ, đều được giúp đỡ tu hành chứng quả. Phật là tấm gương tốt cho chúng
ta. Không luận đối với người thân cận, đối với chính mình trước oan gia trái
chủ cũng phải giống như Phật. Dùng sức định huệ để độ họ, giúp họ giác ngộ,
thoát khỏi luân hồi sanh tử, ngay một đời vãng sanh bất thoái thành Phật. Việc
này phải nhờ vào định huệ của chính mình.
Một
số đồng tu nói, chính mình học Phật nhưng lại rất khó độ người trong nhà. Vì
sao khó độ? vì bạn chưa có định, chưa có huệ. Độ người trong nhà chân thật
không dễ dàng. Bạn phải tu hành chân thật mới có thể độ được người nhà, trở
thành một tấm gương tốt nhất để người nhà nhìn thấy tường tận sự thay đổi từ
khi bạn bắt đầu học Phật cho đến sau khi học Phật. Trước khi học Phật, bạn tạo
nhiều lỗi lầm tập khí khiến người chán ghét. Sau khi học Phật, những lỗi lầm
tập khí thảy không còn, đều thay đổi. Ngôn hạnh cử chỉ của bạn khiến người hoan
hỉ, tôn kính, thì người nhà của bạn mới có thể được độ. Mỗi ngày sống cùng
nhau, lỗi lầm dù nhỏ, họ ngày ngày nhìn thấy. Công phu tu hành của bạn kém, họ
liền khinh thường. Còn thân thích bạn bè bên ngoài dễ độ hơn vì lỗi lầm nhỏ của
bạn, người bên ngoài không nhìn thấy. Họ chỉ thấy bạn tiếp xúc với họ rất qui
củ, nhưng không thấy được mặt sau.
Độ
chúng sanh, Phật nói trong kinh điển, trước tiên chúng ta phải độ người ngoài.
Ý nói chúng ta cần chân thật làm được trong ngoài như nhau. Phật dạy chúng ta
công phu thận trọng, chỉ riêng một mình cũng phải cẩn thận, cung kính, không
phóng túng, không tùy tiện. Làm được như vậy thì người trong nhà làm sao không
độ được.
Oan
gia trái chủ rất khó ở với nhau. Kinh Phật cũng nói, những oan gia trái chủ này
đã kết oán nhiều đời nhiều kiếp. Chỉ có thể đem oán kết hoá giải, không nên kết
nữa, “oan gia nên giải không nên kết”. Phải có tánh nhẫn nại rất lớn,
trí tuệ cao độ, nơi nơi đều nhường nhịn thì mới có thể hóa giải. Nhất quyết
không mang tâm oán hận, báo thù. Nếu còn, thì oan gia kết chặt không thể hóa
giải. Đời này họ báo thù ta, đời sau ta báo thù họ, càng diễn càng tàn khốc,
mỗi lần báo thù lại vượt hơn lần trước.
Xem
An Sĩ Toàn Thư, Văn Xương Đế Quân Âm Trắc Văn, thấy Văn Xương Đế Quân nói rõ,
đời trước mười bảy đời của ông làm thầy thuốc. Ông đã tạo oan nghiệp đời đời
kiếp kiếp báo thưởng không thôi, rất thống khổ tàn khốc. Sau đó may gặp Phật
pháp, hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ chân tướng sự thật, ông mới nhẫn chịu hãm hại của
oan gia, không khởi tâm báo thù, không khởi tâm oán hận. Oán này liền giải, sổ
nợ liền tính xong. Chúng ta cũng nên học tập, nhất định phải tường tận. Chúng
ta có ân với người khác, không nên cầu người ta báo đáp. Nếu chúng ta có oán
với người, phải mau hoá giải ngay trong đời này. Quyết không kết oán thù với
bất cứ người nào, đó là nguyên tắc căn bản.
“ĐẮC
VI DIỆU PHÁP, THÀNH TỐI CHÁNH GIÁC”
Tướng
thứ sáu của thành đạo. “Đắc vi diệu pháp, thành tối chánh giác”, đây
chính là dáng vẻ Bồ tát thị hiện thành Phật. Cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật Thế
Tôn trải qua như vậy. Từ trời Đâu Xuất giáng sanh ở hoàng cung, sau đó xả bỏ
phú quý xuất gia tu hành, đến khắp nơi tham học, tầm sư học đạo, sáu năm khổ
hạnh. Dưới cội Bồ Đề thị hiện hàng ma, sau cùng ma không còn quấy nhiễu, áp bức
dẫn dụ đều không động tâm. Đó là chân thật trải qua khảo nghiệm, “ngoài
không dính mắc, trong không động tâm”. Ngài xem thấy thế xuất thế gian tất
cả pháp như huyễn như họa, như mộng như ảnh, cho nên có thể như như bất động. “Đắc
vi diệu pháp”, ngài ở dưới cội Bồ Đề thị hiện thành Phật, vậy ngài được vi
diệu pháp gì mà thành Phật? Tôi nghĩ mọi người chúng ta đều rất muốn biết.
Đại
sư Ngẫu Ích trong Yếu Giải nói, Thích Ca Mâu Ni Phật niệm Phật A Di Đà mà thành
Phật. Vi diệu pháp chính là niệm Phật A Di Đà. Pháp môn niệm Phật từ xưa đến
nay chưa từng được tổ sư đại đức nói qua, nay được đại sư Ngẫu Ích nói. Kỳ thật
tổ sư đại đức xưa nay cũng đã từng nói qua về Phật trên kinh điển nhưng không
hàm xúc rõ ràng như vậy. Chỉ có đại sư Ngẫu Ích nói được rất rõ ràng. Có một số
đồng tu xem Yếu Giải rồi đem câu nói của đại sư Ngẫu Ích đến hỏi tôi: “Đại
sư Ngẫu Ích nói Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm Phật A Di Đà mà thành Phật. Ngài
căn cứ vào đâu?” Căn cứ của ngài chính là ở trong Phật Thuyết A Di Đà kinh.
Chúng
ta ngày ngày đọc kinh Di Đà không biết bao nhiêu lần nhưng không phát hiện ra,
không biết được câu nói nào. Đại sư điềm chỉ như vậy. Chúng ta quay đầu xem
lại, quả nhiên không sai, niệm Phật thành Phật. Ngày trước tôi đã giới thiệu
qua với các đồng tu, điều sau cùng trong tịnh nghiệp tam phước, “phát tâm Bồ
Đề, thâm tín nhân quả”. Câu nói đó, tôi tìm tòi nhiều năm không ra, tôi
không hiểu “thâm tín nhân quả”. Đến sau này mới bỗng nhiên hiểu ra, “niệm
Phật là nhân, thành Phật là quả”. Niệm Phật thành Phật là đạo lý nhất định.
Vi
diệu pháp này chúng ta đặc biệt phải lưu ý và xem trọng. Trên kinh Địa Tạng,
đọc đến Đại Trưởng Giả, Bà La Môn nữ, Quang Mục nữ. Mỗi người đều chọn pháp môn
niệm Phật. Đặc biệt Bà La Môn nữ, Quang Mục nữ đều biết mẫu thân của mình đời
trước tạo tác tội nghiệp cực trọng. Tội nghiệp này nhất định ở địa ngục. Hai
người đều là hiếu nữ, làm thế nào để siêu độ thân mẫu của mình. Họ cầu Phật gia
trì. Phật liền dạy họ phương pháp niệm Phật. Cho nên chúng ta thấy trong kinh
Địa Tạng, Phật không lừa dối người. Phật có năng lực vào địa ngục cứu cha mẹ
bạn hay không? Không có. Phật không có năng lực, nhưng Phật biết dùng phương
pháp gì có thể giúp họ. Bạn cứ y theo phương pháp Phật dạy mà làm, quả nhiên
liền có hiệu quả.
Ngày
nay chúng ta hiểu rõ đạo lý. Kinh Hoa Nghiêm Phật nói, “mười pháp giới y
chánh trang nghiêm”, đó là nói tận hư không khắp pháp giới, không phải chỉ
cái thế giới này. Tận hư không khắp pháp giới do đâu mà có? “Duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến”. Kinh đại thừa lại thường nói “tất cả pháp từ
tâm tưởng sanh”, lòng chúng ta nghĩ cái gì liền sẽ hiện ra cảnh giới như
thế. Do đó, nếu trong lòng chúng ta nghĩ đến Phật, Phật liền hiện tiền. Kinh
Lăng Nghiêm cũng nói “nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy
Phật”. Đây chính là nguyên lý niệm Phật thành Phật, niệm Bồ Tát thì chứng
được quả vị Bồ Tát, niệm A La Hán tương lai liền chứng quả A La Hán. Phương
pháp này mau chóng hơn so với bất cứ phương pháp nào trong đại thừa. Phương
pháp trên kinh tiểu thừa nói khá nhiều, khi tu thì quá phức tạp, trong khi
phương pháp này lại mau chóng thẳng tắt.
Kinh
nói sáu cõi luân hồi, sau khi chết có sáu nơi để đi. Vì sao mọi người thường
nói “người chết đều làm quỷ”? Tỉ mỉ nghĩ lại, “người chết làm quỷ”
cũng không phải không có đạo lý, vì họ ngày ngày nghĩ đến quỷ. Đương nhiên khi
chết sẽ không đi nơi nào khác ngoài cõi quỷ. Chưa chết nhưng ngày ngày nghĩ đến
quỷ, nghĩ thứ gì thì liền biến thành thứ đó. Ngoài nghĩ quỷ, còn làm việc quỷ,
tạo nghiệp quỷ, kết cái duyên với quỷ quá sâu. Việc của quỷ là tham. Phật nói
nhân hạnh nghiệp nhân của mười pháp giới, đường ngạ quỷ là lòng tham, đường địa
ngục là sân hận, đường súc sanh là ngu si. Một ngày từ sớm đến tối tham tài,
tham danh, tham sắc, mọi thứ đều tham, ngay đến học Phật rồi vẫn tham Phật
pháp, như thế có đáng lo không?. Lòng tham liền tạo ra nghiệp quỷ, tạo nghiệp
quỷ lại thường hay nghĩ tưởng chết rồi làm quỷ. Cho nên đại đa số người khi
chết đều đi đến cõi quỷ, cũng rất có đạo lý.
Hiểu
rõ nguyên tắc này thì vì sao ta không tạo ra nghiệp của Phật? Vì sao không niệm
Phật? Mười pháp giới thực tế do chính mình chọn lấy. Không ai làm chủ tể cho
chúng ta. Việc này kinh Phật nói quá nhiều. Cho dù đọa ngạ quỷ, súc sanh, địa
ngục đều là chính chúng ta chọn lấy. Quyết không phải do thiên thần, quỷ thần
chi phối. Hoàn toàn ta tự làm tự chịu, lỗi lầm đều ở chính mình. Hiểu rõ chân
tướng sự thật thì vì sao không ở trong mười pháp giới tranh thủ hướng lên trên?
Tâm
của Phật là gì? Tâm Phật là tâm bình đẳng. Chúng ta đối với mọi người, tất cả
việc, tất cả vật cũng dùng tâm bình đẳng đối đãi. Nói thì dễ nhưng làm rất khó.
Người chính là không bình đẳng, tướng chính là không giống nhau. Phật một
phương pháp, chúng ta xem cái tánh của chúng, không nên dính vào cái tướng của
chúng. Chúng sanh hữu tình có Phật tánh, chúng sanh vô tình có pháp tánh. Tánh
là bình đẳng. Cho nên chúng ta trên tánh mà hạ công phu, không nên dính vào
tướng. Phàm hễ thấy sắc nghe tiếng đều có thể quay về tự tánh, tâm bình đẳng
của bạn liền sẽ hiện tiền.
Tất
cả Bồ tát không luận tu học pháp môn gì. Pháp môn chỉ là phương pháp tu hành
không giống nhau, phương tiện không như nhau, nhưng nguyên lý nguyên tắc quyết
không hề khác nhau, đều dạy khéo quan sát. Khéo là từ tướng mà thấy tánh, tánh
không tịch, tướng là hư vọng. Tướng có ngàn vạn sự khác biệt, tánh chỉ có một
không hề khác nhau, đều không tịch. Cái không này là chân không, không phải
trống không. Tịch là linh tịch, không phải tối tăm trống rỗng không linh.
Nếu
chúng ta không biết dụng tâm thì dùng phương pháp của kinh Kim Cang cũng tốt.
Hiện tượng muôn ngàn khác biệt, không luận là chúng sanh hữu tình hay vô tình,
trong lòng bạn phân biệt chấp trước, phiền não tập khí hiện hành thì phải làm
sao? Kinh Phật nói “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, hư vọng như
nhau. Phàm sở hữu tướng, tướng tốt cũng vậy mà tướng không tốt cũng vậy, khác
biệt thế nào đi nữa thảy đều là quy về hư vọng. Kinh lại nói: “nhất thiết
hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Chỗ này Phật khuyên chúng ta “như
lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Phải nên có cái nhìn, cách nhìn
như vậy mới là phương pháp tu hành của pháp thân đại sĩ, không chấp tướng vì
cái tướng này là bình đẳng.
Chúng
ta tu nghiệp bình đẳng. Nghiệp bình đẳng là nghiệp tu Phật, sau đó niệm Phật
thì làm sao không vãng sanh, làm sao không thành Phật? Cho nên nhất định không
nên dính mắc. Yêu thích cái tướng này, chán ghét cái tướng kia, đó là bạn đang
tạo nghiệp luân hồi, phải chịu khổ báo ba đường, phiền não thật lớn. Phải biết
hảo tướng do tâm thiện biến hiện ra, tướng không tốt là do tâm ác biến hiện ra.
Năng biến là tánh thức bất định, biến hiện là huyễn tướng ngàn vạn lần sai
biệt. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm, chúng ta hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ sự
thật này, sau đó vận dụng ngay trong cuộc sống, công phu đắc lực, pháp hỉ sung mãn.
Học
Phật phải từ chỗ này mà học tập, từ chỗ này mà dụng công. Niệm Phật là pháp môn
đệ nhất trong tất cả pháp môn. Tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh, đoạn
phiền não, chứng bồ đề, thành Phật đạo đều do niệm Phật A Di Đà mà thành tựu.
Thế Tôn trong bổn kinh tán thán Phật A Di Đà “quang trung cực tôn, Phật
trung chi vương”. Phật Thích Ca Mâu Ni đại diện cho tất cả chư Phật Như Lai
tán thán Phật A Di Đà. Duyên của chúng ta cũng thù thắng không gì bằng, vừa học
Phật thì liền gặp được vua trong các Phật, liền gặp được đệ nhất kinh thù thắng
nhất trong nhà Phật. Bạn nói xem duyên này thù thắng dường nào. Đó là do mọi
người có phước, như kinh Di Đà đã nói, vô lượng kiếp đến nay thiện căn, phước
đức, nhân duyên của chúng ta ngay lúc này thảy đều chín muồi. Ngày nay gặp được
thì nhất định phải nắm lấy cơ duyên, nhất quyết không để lỡ.
“Đắc
vi diệu pháp, thành tối chánh giác”, chúng ta được vi diệu pháp, vấn đề
chính là chúng ta có thể thành tựu tối chánh giác hay không? Nếu muốn thành tối
chánh giác thì không gì khác hơn là y giáo phụng hành. Phật trong kinh dạy,
chúng ta nhất định chăm chỉ nỗ lực mà làm. Phật dạy không nên làm, chúng ta
nhất định không phạm quy củ. Có thế thì vãng sanh Tây Phương tịnh độ, người
người đều có phần.
Pháp
môn “ba căn đều nhiếp, lợi độn đều thâu”, đặc biệt ở đạo tràng này, bốn
chúng đồng tu đều là đệ tử Di Đà. Như câu nói của Kito giáo “vinh quang vô
thượng”. Thượng đế của họ là vinh quang, đệ tử Di Đà vinh quang đệ nhất.
Thượng đế nhìn thấy bạn đều cúi đầu tán thán, vì sao? Vì đệ tử Di Đà nơi đây
làm sự nghiệp của Di Đà, rộng độ tất cả chúng sanh, tiếp dẫn tất cả chúng sanh,
vãng sanh bất thoái thành Phật. Đạo tràng này của Singapore là đạo tràng đệ
nhất thế giới. Nói đệ nhất để hy vọng còn có đệ nhị, đệ tam, còn rất nhiều. Thế
nhưng hiện tại, thế giới chỉ có một đạo tràng này, mỗi ngày giảng kinh, ba trăm
sáu mươi ngày không gián đoạn. Lầu bốn niệm Phật đường ngày ngày niệm Phật.
Thôn Di Đà xây dựng xong, số người tham gia tăng. Chúng ta có thể phân ban niệm
Phật, nhất định hai mươi bốn giờ không gián đoạn.
Ngày
trước lão pháp sư Đế Nhàn dạy đồ đệ vá nồi. Người ta niệm Phật được ba năm,
đứng mà vãng sanh. Sau khi chết vẫn còn đứng ba ngày đợi sư phụ đến làm hậu sự.
Đế lão dạy ông ấy phương pháp rất đơn giản, đó là không nên hoài nghi, không
nên xen tạp, không nên gián đoạn, thành thật niệm, niệm mệt rồi nghỉ, nghỉ xong
niệm tiếp. Ông liền y giáo phụng hành, ba năm thành công.
Tương
lai niệm Phật đường, thôn Di Đà chúng ta tuân thủ theo khai thị này của lão
pháp sư Đế Nhàn. Bên cạnh niệm Phật đường có nơi nghỉ ngơi. Tôi thấy phía dưới
đã làm xong một dãy phòng nghỉ ngơi. Tuy nhiên, dãy phòng đó dường như vẫn
không đủ dùng, nên kéo dài ra thành một hàng. Người mệt thì đi nghỉ. Khi nghỉ
ngơi không nên cởi áo tràng, vì đã cởi ra sẽ dễ ngủ luôn, không dậy được. Mang
áo tràng nằm nghỉ một lát, tinh thần tốt hơn thì phải mau ngồi dậy đến niệm
Phật đường mà niệm.
Phương
pháp niệm Phật, chúng ta tuân thủ theo pháp sư Hành Sách. Đó là tổ sư của tịnh
tông. Phương pháp của ngài “nhiễu Phật, chỉ tịnh, lễ bái”. Tương lai nếu
có nhiều người niệm Phật, chúng ta phân thành khu. Tượng Phật đặt ngay giữa để
nhiễu Phật. Tượng Phật không nên để trên đài, vì không thể nhiễu qua được.
Quanh tượng Phật phải có đường đi. Phía sau tượng có thể nhiễu Phật. Cho nên
niệm Phật đường không giống như giảng đài. Niệm Phật là lấy nhiễu Phật làm chủ.
Bởi vì tinh thần thể lực chúng ta không đủ thì không cách gì duy trì quá lâu,
cho nên nếu nhiễu mệt, chúng ta có thể ngồi xuống nghỉ ngơi. Việc này chúng ta
xem trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng tử đi tham học, tham phỏng vị thứ
nhất là tỳ kheo Đức Vân, Hoa Nghiêm 40 gọi là tỳ kheo Kiết Tường Vân. Ông đi
tham phỏng nhưng không tìm thấy ngài. Kết quả sau cùng “biệt phong kiến đạo”,
trên đỉnh núi có một đỉnh núi khác. “Biệt phong” đại biểu cho ý gì? pháp môn
đặc biệt chính là pháp môn tịnh độ. Cho nên ngài tu pháp môn đặc biệt này ở nơi
biệt phong.
Ngài
tu như thế nào? Bát Chu Tam Muội, Phật Lập Tam Muội. Ngài chỉ đứng và kinh hành
nhiễu Phật, không ngồi, không nằm ngủ. Thông thường chúng ta nói Bát Chu Tam
Muội, một kỳ là ba tháng. Vậy phải có thể lực rất tốt, người thông thường không
làm được. Một ngày một đêm không ngủ, bạn còn không chịu nổi thì chín mươi ngày
không ngủ làm sao được? Không chỉ không ngủ mà ngay đến ngồi cũng không được
ngồi. Cho nên niệm Phật đường phải lấy nhiễu Phật làm chủ đạo. Nhiễu Phật phải
ra tiếng. Sau khi nhiễu mệt thì bên cạnh có bồ đoàn để bạn ngồi xuống niệm. Khi
ngồi có thể không niệm ra tiếng mà cùng niệm theo đại chúng. Nếu ngồi mà hôn
trầm ngủ gật thì liền đứng dậy đến trước tượng Phật lạy. Lạy Phật cũng là
phương pháp vận động điều tiết thân thể. Còn nếu quá mệt thì sang khu bên cạnh
nghỉ ngơi cho khoẻ rồi phải mau trở lại niệm Phật một cách thật dụng công, chân
thật nỗ lực.
Ngày
trước thiền đường thiền tông gọi là “trường tuyển Phật”. Ngày nay nơi
đây chúng ta cũng là trường tuyển Phật. Tất cả chúng sanh tuyển cử đến để làm
Phật, còn có việc gì quan trọng hơn việc này? Đại sự nhân duyên chính là như
vậy. Hy vọng đồng tu chúng ta trân trọng, dùng toàn bộ lực lượng thành tựu đạo
tràng. Đạo tràng này là đạo tràng của mười phương tất cả chư Phật Như Lai.
Chính chúng ta rất rõ ràng tường tận. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như
Lai bao gồm chính chúng ta trong đó. Nếu chúng ta đã muốn làm Phật, tất cả Phật
đều tán thán Phật A Di Đà thì chúng ta cũng phải tán thán Phật A Di Đà; cũng
phải toàn tâm toàn lực vì Phật A Di Đà mà làm việc. Phải thay Phật A Di Đà
trong đại thời đại này mà xây dựng một nơi tiếp dẫn chúng sanh đến niệm Phật
thành Phật, không luận sức cống hiến của chúng ta lớn hay nhỏ. Kinh Hoa Nghiêm
nói, đó đều là bình đẳng. Một niệm thiện, một chút công đức nhỏ đều là tận hư
không khắp pháp giới. Phước báu vô lượng vô biên. Chúng ta có thể khẳng định,
không nên hoài nghi, đó là đắc đạo thành đạo.
Phật
sau khi thành đạo không thể nói là không còn việc gì. Sau khi thành đạo, một
việc to lớn duy nhất chính là ở ngay trong nhân địa phải thực hiện viên mãn cái
nguyện đã phát ra. Không thể nói mà không làm. Trong nhân địa đã phát ra nguyện
gì? “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. “Độ chúng sanh” là thương
yêu, quan tâm, thương xót chúng sanh; toàn tâm toàn lực giúp đỡ chúng sanh.
Trên kinh nói “ngàn nơi mong cầu ngàn nơi đến”. Nơi nào chúng sanh có
cảm, Phật liền hiện thân. Cảm này chính là mong cầu Phật Bồ tát bảo hộ, gia
trì. Chỉ cần có cầu, Phật liền có ứng.
“Cảm”
có hai loại: cảm rõ ràng, còn gọi hiển cầu; và cảm âm thầm, chính mình thậm chí
không phát hiện ra chính mình có ý niệm mong cầu. Ý niệm này dường như rất vi
tế, không phát hiện ra. Một ý niệm vi tế như vậy, chính mình còn không biết,
thế nhưng cảm ứng của Phật rất linh mẫn. Các ngài có thể cảm ứng đến. Khi quan
sát đến, Phật nhất định có ứng.
Ứng
của Phật cũng có hai loại: hiển ứng và minh ứng. Minh ứng thì bạn không thể cảm
giác được. Phật đích thực đang ở xung quanh bạn, đang giúp đỡ bạn, nhưng bạn
không hề cảm giác được. Hiển ứng là cho bạn cảm nhận, hoặc giả bạn nhìn thấy
hình tượng của Phật Bồ Tát, nghe được âm thanh của Phật Bồ Tát. Như kinh Địa
Tạng, Bà La Môn nữ cúng dường đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Cô nghe
được âm thanh của Phật, nói chuyện với Phật, đó là hiển ứng rõ ràng. Tuy Phật
không hiện thân, không nhìn thấy thân tướng, nhưng nghe được âm thanh. Cho nên
cảm và ứng đều có minh hiển khác nhau. Có minh cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng,
có hiển cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng. Cảm ứng đạo giao có bốn loại khác
nhau. Chúng sanh thế gian căn tánh chín muồi, đó là minh cảm không phải hiển
cảm.
Vào
ba ngàn năm trước, thế gian này của chúng ta căn tánh chín muồi, cảm động Thích
Ca Mâu Ni Phật ứng hoá đến. Phật là hiển ứng, ứng hoá rõ ràng. Phật xuất hiện ở
thế gian, không có người quen biết, không có người thỉnh pháp. Không người
thỉnh pháp thì Phật phải nhập diệt, phải vào Bát Niết Bàn, vì ngài ở thế gian
này không có việc gì làm. Phàm phu chúng ta ngu si không biết Thế Tôn thành
Phật, không hề biết có Phật xuất thế. May mà người trời Tịnh Cư xem thấy, vội
vàng đi xuống, thay chúng ta khải thỉnh. Người trời Tịnh Cư chính là ngũ bất
hoàn thiên trong đệ tứ thiền. Tầng trời thứ năm này đều là người tu hành, không
phải phàm phu. Kinh điển nói “thánh nhân tam quả trở lên”, nơi đó đạo
tràng lớn, họ mới nhìn thấy Phật xuất hiện ở thế gian.
Thế
là Thế Tôn tiếp nhận lễ thỉnh của chúng sanh, bắt đầu vì mọi người giảng kinh
nói pháp, triển khai sự nghiệp giáo hoá chúng sanh. Sự nghiệp này dùng lời hiện
đại mà nói là “công tác giáo dục xã hội”.
(Còn
tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp
sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post