ĐẠI HỎA, THỦY, PHONG TAI,
PHỤC SINH CỦA QỦA ĐẤT
Toàn Không
(Trường A-Hàm, quyển 2, từ trang 429 đến 456)
Trước khi đề cập tới ba đại tai họa,
chúng ta nên biết rằng có những sự kiện xảy ra rất lâu dài, có thể nói là rất
lâu dài hằng nhiều tỷ năm, đó là:
– Từ khi Thái-Dương hệ
(hệ thống mặt trời) được thành lập rồi, trong thời gian Thái-Dương hệ tồn tại
cho tới khi bị tiêu diệt, thời gian ấy rất lâu dài. (Một nhà khoa học nói: “Thái-Dương hệ của chúng ta có đời sống
mười tỷ năm, và hiện tại nó đã sống được
một nửa rồi”.
– Từ khi Thái-Dương hệ
bị tiêu diệt tới khi được thành lập trở lại rất lâu dài.
– Trong khi Thái-Dương
hệ vẫn tồn tại, nhưng quả đất mà chúng ta đang ở phải trải qua những đại tai
họa là Hỏa tai, Thủy tai, và Phong tai (Về các điểm này chưa thấy nhà khoa học
nào nói tới?). Thời gian xảy ra mỗi đại tai họa ấy cũng không phải là ngắn, sẽ
được trình bày dưới đây:
1)- Đại Hỏa tai:
Tới một lúc nào đó, không còn mưa nữa,
các loại cỏ cây khô héo dần; sau một thời gian, tự nhiên có mặt trời thứ hai
xuất hiện, khiến cho cây cối đều chết dần; các kinh, rạch, ao, hồ nhỏ, sông nhỏ
đều khô cạn. Tiếp theo, mặt trời thứ ba xuất hiện, đến lúc này cây cối đều chết
khô hết cả, các hồ, sông lớn đều khô cạn, nước biển cạn mất 1/4.
Sau đó, mặt trời thứ tư xuất hiện, các
hồ sâu lớn cạn sạch, nước biển vơi đi khoảng phân nửa; rồi mặt trời thứ năm
hiện ra, nước bốn biển lớn cạn dần tới gần hết; lúc mặt trời thứ sáu xuất hiện,
năm châu bốn biển không còn một giọt nước, khô hết!
Sau chót, mặt trời thứ bảy xuất hiện,
thì ôi thôi! cả cõi trần gian cỏ cây, nhà cửa, kiến trúc v.v.. cho đến tám vạn
chư Thiên, núi lớn núi nhỏ, núi chúa Tu-Di, ao vườn, cây trái, lâu đài cung
điện, thành quách chư Thiên v.v…, tất cả đều bốc khói rồi cháy tiêu tan. Lửa
cháy từ đại địa lên tới A-Tu-La, Tứ Thiên Vương, cung Trời Đạo-Lợi, cung Trời
Diệm-Ma, cung Trời Đâu-Xuất, cung Trời Hóa Tự-Tại, cung Trời Tha-Hóa Tự-Tại,
cung Trời Phạm, tức là cháy hết Sơ thiền. Hết thảy đều bừng bừng như một khối
lửa hồng khổng lồ, chẳng có cách gì dập tắt được nữa!
Trong khi đó lại có gíó thổi hừng hực
ngọn lửa đỏ lên đến tận giáp cung Trời Quang-Âm (Nhị thiền), các vị Thiên-Tử
mới sinh ra ở cõi ấy trông thấy lửa cháy bừng bừng như thế lấy làm lo sợ và
nói: “Ôi vật gì thế ? vật gì thế kia mà
lớn qúa?”. Các vị Thiên-Tử sinh trước nói: “Đừng sợ, đó là lửa, lửa ấy chỉ đến ngang đây là ngừn lại, chớ sợ”.
Khi lửa đã đốt tiêu tan tất cả, thì từ
núi Chúa Tu-Di, núi lớn, núi nhỏ, của chư Thiên đều tiêu tan. Thành quách, lâu
đài, cung điện, vườn ao, cây Trú-Độ, các tảng đá v.v…của các cung Trời, cho
đến nhà cửa, kiến trúc cây cối, của cải, vật dụng v.v… ở thế gian đều thiêu rụi hết sạch chẳng còn
gì cả!
Đại tai họai này đã xảy ra trong một
thời gian lâu dài (Giai đoạn Hoại = 336 triệu năm). Hỏi rằng, có cái gì có thể
chống đỡ nổi đại Hỏa tai khủng khiếp như thế? Có ai đang tâm gây ra như vậy,
chẳng ai gây ra cả, đó chỉ là thành trụ hoại không của qủa đất hay sự tuần hoàn
của vũ-trụ mà thôi; có cách gì chống đỡ nổi chăng, ai tin cảnh đại Hỏa tai này?
Qua thời gian lâu dài: lửa tắt, các mặt trời dần dần biến mất, đại địa nguội
đi, nhưng còn gì đâu; không một giọt nước, đại địa như chết, ai mà tin được
việc này? Chỉ ai riêng thấy tự mình biết việc xảy ra, chỉ có Phật thấy cảnh đại
Hỏa tai này mà thôi.
2)- Đại Thủy tai:
Tới một lúc nào đó, những vầng mây đen
hiện khắp nơi cho đến khắp cõi Quang-Âm Thiên, tức là hết Nhị thiền, giáp tới
cõi Biến-Tịnh Thiên; rồi mưa tuôn xối xả, những hạt mưa nóng như nước sôi rơi
trong cuồng phong bão táp làm thành những mũi tên phá đốt thiêu rụi tan tác các
lâu đài, cung điện cõi Quang-Âm Thiên, cõi Phạm-Thiên.
Mây đen vẫn vần vũ, nước vẫn sôi bỏng,
gió bão vẫn quay cuồng, mưa vẫn nối tiếp đốt phá các lâu đài cung điện cõi
Tha-Hóa Tự-Tại, cõi Hóa Tự-Tại, rồi cõi Trời Đâu-Xuất, cõi Trời Diệm-Ma, tất cả
đều tan nát chẳng còn gì.
Mây đen vô tận vẫn bao phủ, mưa tuôn
nước nóng bỏng không ngớt bắn phá các
thành quách, lâu đài, cung điên, vườn ao, cây cối v.v.. của cõi Trời Đạo-Lợi,
Tứ Thiên-Vương, A-Tu-La, núi lớn núi nhỏ, núi Chúa Tu-Di. Tất cả đều tan nát
tiêu tan chẳng còn gì nữa.
Bầu trời đen tối, sấm chớp vang trời,
cùng khắp quanh đại địa này, chẳng còn nhìn thấy mặt trời đâu nữa; rồi mưa tuôn
nước sôi bỏng, gió cuốn vũ bão khắp cả năm châu bốn biển, mưa triền miên, nước
ngập lai láng, sóng trào gió dữ. Mưa đến độ nước đã bao phủ cả đại địa này rồi
mà còn vẫn mưa tuôn không ngớt, nhà cửa, cây cối, cầu cống, dinh thự, kiến trúc
v.v…, tất cả đều đổ nát, cuốn đi bởi sóng nước, chìm nghỉm trong nước mênh
mông. Mưa vẫn rơi, nước vẫn dâng lên dần dần khiến cho núi thấp, rồi núi cao
ngập trong biển nước; nước càng tăng lên, gió càng mạnh, sóng càng dồn dập vũ
bão, khiến tất cả đều tan rã, quay cuồng, chôn vùi trong lòng hành tinh bao phủ
bởi nước.
Khi đại địa này đã bao phủ bởi nước rồi,
dù ngọn núi cao nhất như ngọn núi Hy-Mã-Lạp-Sơn (cao gần chín cây số, cao nhất
của trái đất) ngày nay chẳng hạn, cũng chìm nghỉm chẳng thấy đâu nữa; nhưng mưa
xối xả vẫn tiếp tục, nước ngập núi Chúa Tu-Di, rồi dần dần ngập cõi Trời
Đạo-Lợi, tới cõi Trời Diệm-Ma cũng chung một số phận. Mưa vẫn chẳng chịu ngừng,
làm cho từ cõi Trời Đâu-Xuất, lên cõi Hóa Tự-Tại, tới cõi Tha-Hóa Tự-Tại, cũng
chung số phận nước ngập mênh mông. Đến lúc này, trái đất đã ngập nước sâu không
biết bao nhiêu nghìn cây số rồi! Như thế mà đã chịu ngưng mưa đâu, rồi dần dần
nước ngập luôn cõi Phạm-Thiên, cho tới cõi Quang-Âm Thiên cũng thế! Như từ
nguồn nước vô tận, nước ngập từ cõi trần gian lên đến hết cõi Quang-Âm Thiên
tới giáp cõi Biến-Tịnh Thiên mới thôi!
Khi nước đã ngập cõi Quang-Âm Thiên tới
giáp cõi Biến-Tịnh Thiên, thì mưa đã cả nghìn vạn năm rồi, các vị Thiên-Tử mới
sinh ở cõi Biến-Tịnh Thiên trông thấy mây đen kịt vần vũ, sấm chớp giăng đầy,
rúng động phiá dưới thì hoảng hốt nói: “Ôi!
Đó là cái gì mà đen kịt vần vũ, chớp lo ngoằn ngoèo, sấm động vang rền như
thế?” Các vị Thiên-Tử sinh trước nói: “Đừng
sợ, mây đen mù mịt, sấm chớp vũ bão, mưa tuôn tràn ngập, chỉ đến ngang đây mà
thôi, đừng lo”.
Gió vẫn thổi, nước vẫn động, sóng luôn
luôn vỗ dồn dập bập bềnh, tất cả đều nằm dưới sóng nước mênh mông, ầm ầm, cuốn
đi, xô lại, xoáy đi mất hút; lúc này trái đất chìm sâu không biết là bao nhiều
nghìn cây số, làm sao mà còn có sinh vật sống sót nổi trôi trên mặt nước? Có
chăng là những mảnh vụn tan tác bập bềnh trên mặt nước, cuốn đi xô lại ầm ầm!!
Vẫn như thế, hết ngày này qua năm khác
cho tới vài vạn năm, thử hỏi cái gì còn có thể chống đỡ sống sót nổi đại Thủy
tai này, có cách gì để chống đỡ đây? Lâu lắm mãi về sau (giai đoạn Hoại: 336
triệu năm), nước giảm đi, rồi dần dần cạn hết, nhưng có còn gì đâu nữa? Tất cả
tan nát, mất hết dấu tích, chôn vùi trong lòng đất, không một sinh vật, không
cỏ cây, khô cằn, đại địa như chết vậy. Đúng, lúc ấy đại địa đã chết rồi!
Ai đang tâm gây ra cảnh đại họa này,
chẳng ai gây ra cả, đó chỉ là thành trụ hoại không của trái đất, hay sự tuần
hoàn của vũ trụ; có cách nào chống đỡ nổi đây, ai tin được cảnh đại Thủy tai
này? Chỉ ai riêng thấy tự biết mà thôi, phải chăng chỉ có Phật thấy thôi, còn
có ai thấy cảnh đại Thủy tai này nữa không?
3)- Đại Phong tai:
Tới một lúc nào đó, có những trận gió
bão nổi lên khắp nơi, từ cõi Biến-Tịnh Thiên (Tam thiền) cho giáp tới cõi Quả-Thật
Thiên, gió bão nổi lên như điên cuồng (ít ra cũng phải trên một nghìn cây số
hay sáu bảy trăm miles (dặm) một giờ) (Trong quyển Thiên văn học và Không gian
(Astronomy & Space), nhà khoa học cho biết ở vùng đỏ của hành tinh Mộc
(Jupiter) đang có bão với tốc độ 500 cây số/giờ, và tại vùng đen tối của hành
tinh Hải-Vương (Neptune) có bão 2000 cây số/giờ), làm cho các lâu đài, cung
điện tan nát tiêu tùng; rồi xuống đến cõi Quang-Âm Thiên, cõi Phạm-Thiên cũng
cùng một số phận, hết thảy đều nát tan, không còn dấu vết gì nữa.
Bão tố cuồng phong hoành hành tiếp nối
tới cõi Tha-Hóa Tự-Tại, cõi Hóa Tự-Tại, rồi đến cõi Trời Đâu-Suất, cõi Trời
Diệm-Ma. Số phận các lâu đài, cung điện v.v… của các cõi này cũng vậy thôi, tất
cả đều tan nát tiêu tùng, chẳng còn gì nữa.
Khi loạn cuồng phong bão táp xuống tới
cõi Trời Đạo-Lợi, Tứ Thiên-Vương, A-Tu-La, núi Chúa Tu-Di, các núi Tu-Di, khiến tất cả thành quách, lâu đài, cung điện, vườn ao,
cây cối v.v.. cùng đều tan nát như cám. Cũng giống như có người lực sĩ khổng lồ
mạnh vô song, dùng hai tay nắm hai trùy đồng mà đập vào nhau, những gì ở giữa
hai trùy đồng đều bị nát ra như cám.
Sau cùng, các cuồng phong thổi đến khắp
cả xung quanh đại địa này, tất cả nhà cửa, dinh thự, cầu cống, công trình kiến
trúc, cây cối, núi to lớn, núi nhỏ bé, bờ đập, đê điều v.v… đều đổ nát tan
tành, vùi lấp. Các ao hồ, suối rạch, sông biển đều dần cạn sạch; các mảnh to,
mảnh nhỏ, sỏi đá, cây cối, gạch ngói, đất cát, v.v… bay cao tới cả vài do tuần
(3 x 18 = 48 cây số), các mảnh ấy quay cuồng chém phá khắp đại địa chẳng sót
một chỗ nào, khiến tất cả đều vỡ tung, tan tác, nát tan.
Cứ thế, hết lớp cuồng phong này tiếp nối
tới luồng cuồng lốc khác, tất cả mọi lúc ở khắp mọi nơi cho giáp tới cõi
Quả-Thật Thiên, thì cuồng phong bão táp mới ngừng. Nên biết, đại tai họa cuồng
phong chỉ ngừng trong thời gian rất lâu dài, đừng nói là một nghìn năm, không
phải là vạn năm, (Giai đoạn Hoại = 336 triệu năm) thử hỏi còn cái gì có thể
vững bền nổi, có chăng chỉ là những gì được chôn vùi dưới lòng đất mà thôi. Về
sau, gió giảm dần, nhưng trái đất tan nát, khô cằn, trống rỗng, chẳng còn gì,
không một sinh vật, không một cỏ cây, tàn tạ, im lặng như đại địa chết.
Ai gây ra đại họa này?, chẳng ai gây ra
cả, đó chỉ là thành trụ hoại không của địa cầu hay sự tuần hoàn của vũ trụ mà
sinh ra như thế. Có cách gì chống đỡ nổi đây, ai tin được cảnh đại họa Phong
tai này? Ai riêng thấy thì tự mình biết sự việc xẩy ra, chỉ có Phật thấy cảnh
đại Phong tai này mà thôi.
Tóm lại, chúng ta thấy những cảnh đại
tai khủng khiếp như thế, mọi người nên biết tất cả đều là vô thường, thay đổi,
hư hoại, không có cái gì chắc chắn, không thể nương tựa, chẳng còn gì, không ai
cứu nổi. Ngay cả địa cầu to lớn như thế, vững chắc như thế, con người dựa trên
đất để tạo dựng, để sinh sống, và tưởng chừng như nó sẽ vĩnh cửu trường tồn bất
biến; nhưng sự thực chẳng phải thế, tất cả những gì gọi là hữu vi, vật chất,
đều như thế đấy. Tất cả đều chịu sự chi phối của thành-trụ-hoại-không, thật là
đáng chán nản, vô phương cứu chữa, không đáng nương tựa, tuyệt vọng hoàn toàn;
dù có được sinh lên các cõi Trời cũng vậy thôi, không thoát khỏi những cảnh đại
tai họa, vậy phải làm sao? Ngồi đấy mà khóc than buồn rầu hay van xin mất thời
giờ vô ích, câu trả lời là: “Phải tin mà tìm đạo giải thoát, phải tự cứu
mình hầu ra ngoài vòng sinh tử luân hồi, có như vậy mới thoát ra khỏi những tai
ách của sáu cõi “.
Thời gian thế giới (trái đất) thành hoại.
Được
tính theo Tiểu-Kiếp, Trung-Kiếp, và Đại-Kiếp như sau:
– Một Tiểu Kiếp: Theo
Quyển Đường Về Bến Giác của Hòa-Thượng Thích-Thanh-Cát, trang 80, lấy tuổi thọ
tối đa là 84,000 năm để tính. Tiểu Kiếp = (84,000-10) x 100 x 2 = 16,798,000 (mười sáu triệu, bảy trăm
chín mươi tám nghìn) năm, trong đó con người trải qua từ tuổi tối đa (84,000
tuổi) đến tuổi tối thiểu (10 tuổi) rồi lại tiến lên tuổi tối đa, (thời kỳ giảm
cứ một trăm năm giảm một tuổi và thời kỳ tăng lên cũng thế), tức một chu kỳ của
tuổi thọ tối đa gọi là một Kiếp.
– Một Trung Kiếp bằng 20 Tiểu Kiếp = 16,798,000
x 20 = 335,960,000 (ba trăm ba mươi
lăm triệu, chín trăm sáu mươi nghìn) năm. Một Trung Kiếp cũng gọi là giai đoạn
Thành (tái thành lập), hay giai đoạn Trụ (phát triển), hay giai đoạn Hoại (đại
tai), hay giai đoạn Không (tạm chết).
– Một Đại Kiếp bằng bốn Trung-Kiếp =
335,960,000 x 4 = 1,343,840,000 (một
tỷ, ba trăm bốn mươi ba triệu, tám trăm bốn mươi nghìn) năm. Một Đại Kiếp gồm
bốn Trung Kiếp hay bốn thời kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không như trên đã nêu.
Cứ khoảng
một đại Kiếp lại xảy ra một đại tai, hoặc Hỏa tai, hoặc
Thủy tai, hoặc Phong tai. Sau nhiều lần đại Hỏa tai mới có một lần đại Thủy
tai, sau nhiều lần đại Thủy tai mới có một lần đại Phong tai. Như vậy có rất
nhiều lần đại Hỏa tai mới có một lần đại Phong tai. (Theo Quyển Đường Về Bến
Giác, trang 80 ghi: “Cứ 7 lần hỏa tai lại một lần thủy tai; trong 64 đại kiếp,
thế giới hoại vì hỏa tai 56 lần, thủy tai 7 lần, phong tai 1 lần”).
LỜI BÀN VỀ
CÁC ĐẠI TAI
Chúng ta được biết cứ khoảng một đại kiếp lại xảy ra đại tai, nghĩa là
khoảng 1,344,000,000 (một tỷ ba trăm bốn mươi bốn triệu) năm lại xảy ra đại tai
một lần. Đức Phật cho biết lúc đại Hỏa tai xảy ra có tới 7 mặt trời xuất hiện.
Chúng ta không biết tại sao có tới 7 mặt trời, mặt trời ở đâu ra mà nhiều như
thế, có lẽ có người cho là vô lý, không thể nào như vậy được, có phải không? Có
thể có người lại bảo: Những đại tai xảy ra là do con người không tuân theo ý
muốn của một vị Tối cao nên mới như thế”; lý luận này tỏ ra thiếu trí tuệ, tại
sao?
Vì
ngày nay với Khoa học tiến bộ, các nhà Khoa học đã chụp được cả giải Ngân Hà
(Milky Way) mà hệ thống mặt trời (Thái dương hệ) của chúng ta nằm ở bên ngoài của
một cánh xoáy của giải Ngân Hà. Tất cả các Tinh tú (Stars) thuộc giải Ngân Hà
đều quay theo chiều xoắn ốc trong hệ thống của giải Ngân Hà (Xin coi hình).
Vị trí Thái Dương Hệ trong Giải Ngân Hà (Milkyway)
Như vậy, chúng ta có thể hiểu tại sao khi bị đại Hỏa tai có tới 7 mặt
trời, vì lúc đó hệ thống mặt Trời của chúng ta sẽ quay tới điểm mà ở đó có
nhiều mặt Trời (Tinh tú) quần tụ gần nhau, nên các mặt Trời này đã thiêu đốt
trái Đất. Do đó, Đức Phật nói khi có đại Hỏa tai có 7 mặt Trời xuất hiện, không
còn gì nghi ngờ thắc mắc nữa, và khi hệ thống mặt Trời của chúng ta quay tới
chỗ vùng nước hay vùng bão tố, thì trái Đất của chúng ta cũng phải chịu cảnh
đại Thủy tai hay đại Phong tai vậy.
Đến đây: chúng ta thấy Khoa học đã chứng minh lời Đức Phật nói, đó là
những điều có thể hiểu được, không còn gì là huyền bí nữa.
LỜI BÀN về Kiếp, A-Tăng Kỳ Kiếp:
Theo Trường-A-Hàm,
quyển 3, trang 95 ghi: “Kiếp vô chừng , rất lâu dài, cũng ví như núi đá lớn mỗi
chiều một do tuần (18km), giả sử có người mang áo trời (áo lớn lắm) trăm năm
lau một lần, cho tới khi mòn hết, đó là một Kiếp số”.
Theo quyển Tự Điển Phật Học của
Chân-Nguyên và Nguyễn-Tường-Bách trang 214 lại ghi: “Kiếp: Một khái niệm Phật giáo
nhằm chỉ một thời gian rất lâu dài. Một thời kiếp được biểu diễn như sau: Cứ
trăm năm có người dùng tấm khăn lụa chùi một khối đá lập phương mỗi bề một dặm
(1km6=1 dặm) tới lúc khối đá mòn hết, đó là một kiếp”. Chúng ta thấy có sự khác
biệt về đơn vị.
Theo quyển Nhị Khóa Hiệp Giải lại, trang
319-323 ghi: “Kiếp: tiếng Phạn là Kalpa là thời phần, nghĩa là rất lâu dài.
A-Tăng-Kỳ: tiếng Phạn là Asamkhya nghĩa là vô số, Bồ-Tát muốn thành Phật phải
trải qua 3 A-Tăng-Kỳ. Tiểu Kiếp=16,000,000 năm. Trung Kiếp=20 tiểu Kiếp =
320,000,000 năm. Đại Kiếp = 4 Trung Kiếp = 1,280,000,000 năm”. Như vậy ở đây
dùng tuổi thọ tối đa của con người là 80,000 năm để tính ra Tiểu Kiếp nên ngắn
hơn.
Ngoài ra, xem về các con số về kiếp các
đức Phật xuất hiện, chúng ta thấy và xét rằng:
1)- Trái đất này đã
từng trải qua nhiều lần đại tai.
2)- Ở đây không tính
các kiếp của thời gian Thành, Hoại, Không, mà chỉ tính các kiếp Trụ mà thôi.
Nếu tính các kiếp của các giai đoạn ấy, chúng ta không thể tính 31 kiếp hay 91
kiếp về quá khứ mà có loài người đang sống được, vì
31 kiếp về trước là thời kỳ Không, và 91
kiếp về trước là thời kỳ tái Thành.
3)- Nếu chấp nhận sự
nhận xét ở điểm hai, ta có:
– Đức Phật Tỳ-Bá-Thi
xuất hiện cách đây 91 kiếp (Trường A-Hàm, quyển 1, trang 18) phải là cách nay 5
đại kiếp, tức là đã có 5 lần đại tai rồi ( tức là trên 6.5 tỷ năm).
– Đức Phật Thi-Khí và
đức Phật Tỳ-Xá-Bà xuất hiện cách đây 31 kiếp phải là cách nay 2 đại kiếp (tức
là cách nay 2.7 tỉ năm).
Có một điểm chúng ta không biết là: từ
ngày qủa đất được thành lập tức là hệ thống mặt trời được thanh lập đến nay là
bao lâu rồi? Về điểm này: không thấy Phật đề cập tới, có lẽ Phật muốn để dành
cho các nhà khoa học?
4)-Sự phục sinh của Qủa Đất:
Sự phục sinh của trái đất sau mỗi đại tai
họa đều tương tự như nhau. Sự tái lập địa sau đại Hỏa tai bắt đầu từ cõi
Phạm-Thiên, sự tái lập địa sau đại Thủy tai bắt đầu từ cõi Quang-Âm Thiên, và sự tái lập địa sau đại
Phong tai bắt đầu từ cõi Biến-Tịnh Thiên trở xuống cõi trần gian.
Như đã nói ở trên, thời gian sau khi bị
một trong ba đại tai họa, lúc đó thế giới này trống rỗng trong một thời gian
lâu dài (Hoại+Không=672 triệu năm) sau mới bằt đầu phục sinh trở lại, giai đoạn
Thành cũng phải một thời gian là 336 triệu năm.
Tới một lúc nào đó qúa xa xôi cái ngày bị đại
họa, tự nhiên mây đen nổi lên khắp nơi, cùng khắp cả thế giới, rồi mưa tuôn
khắp cả, hạt mưa to như bánh xe (mưa nước đá); mưa liên miên như thế không
ngưng nghỉ, kéo dài cho đến vài nghìn năm; mực nước từ lúc ngập đại địa cho đến
khi dâng cao lên không biết là bao nhiêu nghìn cây số nữa.
Mưa đến nỗi mực nước cao ngập luôn cõi
Phạm Thiên giáp cõi Quang-Âm Thiên sau đại họa Hỏa tai trước kia, mưa mới dừng lại. Mực nước dâng cao ngập cõi Quang-Âm Thiên
đến giáp cõi Biến-Tịnh Thiên sau đại Thủy tai xưa kia mưa mới dừng lại. Mực nước mưa dâng cao ngập cõi
Biến-Tịnh Thiên đến giáp cõi Quả-Thật Thiên sau đại Phong tai xa xưa kia mưa mới dừng lại.
Khi nước đã ngập đến mức vừa kể trên
rồi, không còn mưa nữa, nước bắt đầu giảm dần; lúc đó tất cả thế giới chỉ là
một trái banh nước khổng lồ bên trong có cái nhân ở giữa là trái đất, nếu nhìn
từ một hành-tinh khác ở xa trông giống một hành-tinh nước. Những cơn gió thổi
tới, làm nước chao động, sóng vỗ nổi lên khắp chốn, gió càng mạnh sóng càng
lớn, sóng càng lớn bọt nước càng nhiều, bọt kết tụ lại. Gió lại thổi bọt rời
nước tung lên hư không lâu dần kết thành lâu đài, cung điện, có nhiều màu sắc
đẹp đẽ do bảy báu tạo thành. Do nhân duyên này, mà có cung Biến-Tịnh Thiên,
cung Quang-Âm Thiên, và cung Phạm-Di-Ca Thiên (Mắt trần không thể thấy được các
cung điện cõi Trời).
Mực nước tiếp tục giảm xuống vô số do
tuần, gió vẫn thổi, nước vẫn động, sóng vẫn nổi ầm ầm, bọt vẫn tụ. Do đó gió
đưa bọt lên kết thành Thiên cung Tha-Hóa Tự-Tại, Thiên cung Hóa Tự-Tại, rồi dần
dần xuống tới Thiên cung Đâu-Suất, Thiên cung Diệm-Ma.
Rồi mực nước tiếp tục giảm vô số do tuần
trong thời gian rất lâu dài, gió thổi sóng vỗ, bọt nổi tụ lại bay lên hư không,
tự nhiên rắn chắc lại mà thành các lớp thành quách, Long cung, lâu đài, cung
điện, vườn ao, v.v… của cung Trời Đạo-Lợi. Bấy giờ gió cuồng lốc lớn nổi lên,
làm cho bọt nước dụm lại mà thành núi Chúa Tu-Di cao một trăm sáu mươi tám
nghìn do tuần (168,000 x 18 = 3,024,000 cây số), và rộng tám mươi tư nghìn do
tuần (84,000 x 18 = 1,512,000 cây số) ngay phiá dưới cõi Đạo-Lợi; núi Tu-Di tạo
bằng bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly, và thủy tinh.
Các cơn gió lốc khác cũng thổi xoáy làm
bọt nước tụ thành nhiều núi Tu-Di khác nữa. Trong khi đó lại có những cơn gió
khác thổi bọt nước đồng thời bay lên lưng chừng núi chúa Tu-Di tạo thành cung
Tứ Thiên Vương. Sau nữa có những cơn gió thổi làm bọt nước kết tụ lại mà tạo
thành các cung điện A-Tu-La v.v…tại bốn bên núi chúa Tu-Di (Nên nhớ tất cả những gì tạo ra
trên đây, mắt phàm phu con người không thể nhìn thấy được).
Sau chót, nước giảm vô số do tuần nữa,
gió vẫn thổi, lốc vẫn xoáy, nước vẫn xô động, sóng vẫn dồn dập; sóng nước nhào
nặn đại địa này thành lồi lõm, núi đồi lởm chởm, biển hồ sâu thẳm bởi nước
xoáy, sông suối ngoằn ngoèo do thế đất cứng mềm và bởi nước chảy xuống chỗ thấp
hơn.
Có những nơi ngấn nước sóng làm mòn còn
để lại dấu tích ở những điểm thật cao từ từ các ngấn xuống dần, mà chúng ta cứ tự
hỏi: “Mức nước ở đâu mà cao đến thế, thời
nào có nhiều nước đã làm cho đá ngấn nước sói mòn như thế? Câu trả lời là
các mức ngấn nước ấy đã được tạo ra từ khi lập địa hay tái lập địa rồi vậy, mực
nước không chỉ đến chỗ ngấn trên đá đó, mà mực nước còn cao hơn rất nhiều, rất
là nhiều; cả một trái đất này nằm gọn, bao phủ trong nước.
Các di
tích về ngấn nước sóng làm mòn trên núi đá, chúng ta có thể đến thăm để thấy như
trên đỉnh núi đá ở Navarra Tây Ban Nha (Spain); hòn đá khổng lồ Brimham Roch ở
Anh Quốc (England); vô số cột đá to lớn trông như ống khói trong vùng đồi thung
lũng ở Thổ Nhĩ Kỳ (Goreme Valley Fairy Chimneys, Turkey); vô số lớp ngấn mòn
trên đá vùng Torcal de Antequera ở Andalusia; vùng đá đỏ Wadi Rum ở Jordania.
Đặc biệt tại Hoa Kỳ những ngấn nước hàng hàng lớp lớp khắp vùng thung lũng
Bryce Canyon National Park và Delicate Arch ở Tiểu Bang Utah; cột đá hình nấm
khổng lồ chân rất cao có ngấn nước rõ rệt trên đầu nấm ở Tiểu Bang Kansas; đá
đỏ hình tháp to lớn thuộc
vùng đồi
núi Palo Duro Canyon Tiểu Bang Texas; vùng núi thung lũng đá đỏ ở Tiểu Bang
Colorado; và nhất là vô số ngấn nước do sóng soi mòn trên đá đỏ ở vùng Chelly
Canyon, vùng the Waves Canyon, và vùng Grand Canyon thuộc Tiểu Bang Arizona,
Hoa Kỳ (Xem hình).
Ngấn nước trên Idol Rock
nặng khoảng 200 tấn, tại Brimham, (Anh)
Ngày nay với đà văn minh của con người
càng ngày càng phát triển, hẳn rằng các nhà khoa học khi khám phá ra các mỏ nọ
mỏ kia như mỏ than, mỏ dầu, mỏ khí, v.v… phải nhận ra rằng: “Các mỏ ngày nay
có được là do thành trụ hoại không của trái đất này đã tạo ra trải qua những
thời gian rất lâu dài vậy”. Lại có Hành-tinh hiện tại đang bao phủ toàn là
nước, biết đâu rằng Hành-tinh ấy chẳng đang trải qua thời kỳ đại Thủy tai hoặc
đang ở trong thời kỳ lập địa hay tái lập địa? Và nếu ta nhìn trong kính thiên
văn thật xa xôi trong vũ trụ, biết đâu rằng ta chẳng thấy có những Hành-tinh
đang ở thời kỳ đại Hỏa tai v.v…; nhắc lại thời gian giai đoạn tái Thành lập
cho tới khi ổn cố là 336 triệu năm.
LỜI BÀN VỀ NÚI TU DI VÀ CÁC TẦNG TRỜI:
Khi đọc Kinh sách nói đến núi Tu-Di và
các tầng Trời, hầu hết chúng ta đều không thể tưởng tượng được vị trí của chúng
ở chỗ nào, người viết sau khi thấy các con số lớn lao qúa, đâm ra lo ngại, vì
sao? Vì sau khi đọc và viết xong, người viết khám phá ra rằng nếu Núi Tu-Di và
các tầng Trời cao xa trái đất qúa như vậy sẽ có hiện tượng đụng mặt trăng, mặt
trời, một điều vô lý; tỉ dụ như núi Tu-Di cao 168,000 do tuần x 18 = 3,024,000
cây số, trong khi các nhà khoa-học cho biết mặt trăng cách trái đất chỉ có
384,400 cây số trong quyển Thiên văn học và Không-gian (Astronomy &
Space) của Lisa Miles và Alastair Smith
xuất bản năm 1998, trang 24; các nhà khoa học cũng cho biết mặt trời cách trái
đất là 150,000,000 cây số, trang 22. Trong khi tính theo quyển Nhị Khóa Hiệp
Giải nơi trang 202, cõi Trời sắc giới thấp nhất là Phạm-chúng-Thiên cũng đã cao
tới 194,400,000 cây số rồi, còn các cõi Trời Vô Sắc giới rất cao, vì sao? Vì lấy con số 168,000 nhân với 2,
rồi lại nhân với 2 cho tới 28 thành số do tuần của cõi Trời Phi Phi Tưởng là
cõi Trời xa chúng ta nhất; tuy nhiên, người viết đã hiểu ra được khi nhìn bức
hình của hệ thống mặt trời mà các nhà khoa học đã vẽ trong quyển sách nêu trên.
Tất cả các hành tinh quay quanh mặt trời đều tự quay quanh nó, không có một sự
lộn xộn nào; mỗi hành tinh quay một quỹ đạo riêng rất xa nhau, gần như trên một
mặt phẳng mà mặt trời ở giữa, và đều có cực nam, cực bắc. Ngoài ra, mặt trăng
cũng quay quanh trái đất theo trên dưới đường xích đạo của trái đất, như thế,
chỗ có núi Tu-Di và các cõi Trời phải là ở bắc cực đi lên, dù cho các cõi trời
có cao tới đâu cũng không đụng chạm vào đâu cả (xem h ình).
Từ
trái: Mặt trời và 8 hành tinh: Các sao Thủy (Mercury), Kim (Venus), trái Đất (Earth),
Hỏa (Mars), Mộc (Jupiter), Thổ (Saturn), Uranus, Neptune
Khoa học đối với trái đất:
Các nhà Khoa học nghiên
cứu được
những gì đối với qủa đất?
Trong quyển Lịch Sử Khoa Học Hoa-Kỳ (The
Story of Science in America)
của L Sprague De camp và Catherine C De Camo, trang 121, 122 ghi:
– Sự cố gắng đo lường
tuổi của trái đất do Buffon giả định là trái đất đã từng nóng sáng như mặt
trời, và nó nguội đi thành một qủa cầu bằng đá phải mất 74,832 năm, nhưng các
nhà khoa học khác không đồng ý và cho rằng sự dự đoán này qúa ngắn, vì sự nguội
của trái đất to lớn nó nguội rất chậm.
– Còn các nhà địa chất
học thì đoán rằng để có đủ thời gian cho các khoáng chất (chất muối) rời khỏi
đá chảy hết xuống biển và các dòng sông có nước ngọt, phải mất thời gian từ 24
triệu đến 100 triệu năm (đây là thành lập địa, không phải tái thành lập).
– Cuối thế kỷ thứ 19
nhà khoa học Becquerel và Curie dùng kiến thức về phóng xạ để phân tích về
nguyên tử Uranium phân hóa dần dần đến khi nó trở thành Chì. Bất cứ một phân
lượng nào của Uranium, một nửa của nó sẽ đổi thành Chì phải mất 4.5 tỉ năm, và
trong 4.5 tỉ năm kế tiếp, phân nửa còn lại sẽ biến thành Chì. Do đó, các nhà
khoa học đoán rằng trái đất đã có từ 4.5 tỉ năm.
Trong quyển Những Nguồn Gốc (Origins),
của Neil De grass Tyson và Donald Goldsmith xuất bản năm 2004, trang 236-239
ghi:
– Việc thành lập trái
đất cách đây khoảng 4.6 tỉ năm, sau 600 triệu năm thì ổn cố và đời sống bắt đầu xuất hiện trên trái
đất này.
– Chúng ta không còn
bằng chứng về địa chất trong các thời đại từ hơn 4 tỉ năm đã qua vì sự chuyển
động, vỏ trái đất do các lớp đất trườn, trượt lên nhau đã dần dần chôn vùi tất
cả những gì đã từng ở trên mặt đất.
– Sự va chạm từ một vật
lớn với trái đất vào khoảng gần 10 triệu năm đã tiêu diệt phần lớn những động
vật, thực vật trên hành tinh chúng ta. Một sự kiện là sự tiêu diệt loài
Dinosaurs (Khủng-Long) cách nay 65 triệu năm, cũng tiêu diệt 90% đời sống dưới
biển, và 70% đời sống động vật trên mặt đất.
– Hiện tại, chúng ta có
được một ít đá có niên kỷ hơn 2 tỉ năm do các nhà Địa chất học khám phá ra, oxy
xuất hiện trên trái đất đã làm rỉ chất sắt trong đá đỏ ở vùng Grand Canyon,
Arizona, Hoa-Kỳ.
– Cách đây 10 năm một
nhà khoa học đoán rằng trái đất chỉ còn tồn tại 100 triệu năm nữa, nhưng cách
đây vài năm, nhà khoa học James Kasting và Caldeira lại cho rằng trái đất sẽ
tồn tại khoảng 1 tỉ năm nữa; lúc đó mặt trời sẽ bành trướng lớn ra và vỏ ngoài
của mặt trời sẽ thiêu hủy trái đất, nhưng có nhà khoa học khác lại cho rằng mặt
trời còn đủ nhiên liệu cho 5 tỉ năm nữa.
LỜI BÀN VỀ KHOA HỌC:
Xem vậy, chúng ta thấy các nhà Khoa hoc,
đã cố gắng phân tích tìm tòi để biết nguồn gốc của trái đất, nhưng kết qủa chưa
có là bao, và những ý kiến nhiều khi tương phản hay không ăn khớp nhau, khiến
cho chúng ta càng thêm thắc mắc. Có một điều mà người viết tự hỏi là không biết
các nhà khoa học nghiên cứu có biết rằng trái đất đã xẩy ra nhiều lần đại tai
như Hỏa tai, Thủy tai không? Vì chính những đại tai này đã xóa đi các dấu vết
của đời sống trên trái đất mà đức Phật đã cho biết vậy..,.
Discussion about this post