CON ĐƯỜNG BỒ TÁT
Chương 2
SÁM HỐI NGHIỆP TỘI
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc (dịch theo bản Phạn- Anh)
Bản Anh: Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life.
Translated from the Sanskrit and Tibetan
by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace.
Snow Lion, 1997
Kính Lễ Đức Phật
1. Để giữ gìn viên ngọc của tâm, tôi xin cúng dường tới chư Như Lai, tới viên ngọc không nhơ nhuốm của Pháp tối thắng, và tới chư Bồ tát con của chư Phật, những đại hải của các tính đức tuyệt hảo.
2. Có bao nhiêu hoa, quả, và cỏ thuốc, và có bao nhiêu viên ngọc trên thế giới, và nước trong mát,
3. Những núi ngọc, những miền đất rừng, những nơi chốn vui vẻ và tĩnh lặng, những cành leo tươi sáng trang điểm bằng các đoá hoa trang nhã, và các cây có các cành nặng chĩu quả ngọt,
4. Những hương thơm và những hương đốt, những cây thoả điều ước, những cây có ngọc, những hồ nước tô điểm với các hoa sen, những tiếng hót vui thích của các con ngỗng hoang trong thế giới của chư thiên và các cõi trời khác.
5. Những mùa màng do mọc hoang, những mùa màng do trồng trọt, và các thứ khác chúng trang điểm chư tôn đức, tất cả những thứ này đều là vô chủ và trải khắp hư không,
6. Tôi đem tới tâm và dâng tới đấng Tối Tôn của chư Thánh giả cùng với các Bồ tát con của đấng Tối Tôn. Nguyện những lễ vật đáng qúy này, chư vị đại từ bi, thương xót tôi, nhận các cúng phẩm này.
7. Tôi không có phúc đức, nên hoàn toàn nghèo khó. Tôi không có gì khác để dâng cúng các ngài. Thế nên, nguyện chư Thủ Hộ (Protectors), quan tâm tới an sinh của mọi người khác, chấp nhận cúng phẩm này, bởi năng lực của chính các ngài cho lợi lạc của tôi.
8. Tôi dâng toàn thể thân tâm tôi tới Chư Tối Thắng và chư Bồ tát con của chư Tối Thắng. Thưa chư Hữu Thể Vô Thượng, hãy chấp nhận tôi! Tôi cung kính tận tụy đem hết thân tâm phục vụ các hành hoá của chư vị.
9. Sống cách tuyệt sợ hãi về hiện hữu thế gian nhờ sự thủ hộ (=gìn giữ che chở) của chư vị, tôi sẽ phục vụ các hữu tình. Tôi sẽ hoàn toàn thắng vượt trên các nết xấu vô đạo đức trước đây của tôi, và từ nay cho tới tương lai tôi sẽ không tạo nghiệp tội nữa.
(Being free from fear of mundane existence due to your protection, I shall serve sentients beings; I shall completely transcend my earlier vices, and henceforth I shall no sin more)
10. Trong những phòng tắm hương thơm dịu dàng, có những cột trụ mĩ lệ sáng chói với các viên ngọc, những dù lọng lấp lánh với các viên ngọc trai, và nền bằng pha lê trong suốt và lóng lánh,
11. Tôi tắm chư Như Lai và chư Bồ tát con của chư Như Lai với nhiều bình nạm các viên ngọc kì diệu và chứa hoa hương thơm trang nhã và nước, theo các bài hát và âm nhạc từ nhạc cụ.
12. Tôi lau khô các thân của chư vị với các tấm vải ướp hương thơm, tinh khiết, êm ái; tiếp đến tôi dâng chư vị các y phục màu sắc mĩ lệ và hương thơm dịu dàng.
13. Tôi trang điểm Phổ Hiền, Di Lặc, Văn Thù, Quan Thế Âm và chư vị khác với các y phục cõi trời, mềm mại, mỏng nhẹ, và màu sắc và với các viên ngọc quý nhất.
14. Với hương thơm toả một ngàn triệu thế giới, tôi thoa thân thể của chư Đại Thánh Chủ đang bừng sáng với sự rực rỡ của vàng ròng tinh khiết.
15. Tôi cúng dường chư Đại Thánh Chủ quang vinh nhất với các cụm hoa hương thơm kì diệu và trang nhã — các hoa mạn đà la (mandarava) , các hoa sen màu lam, và các hoa khác — và với các tràng hoa kết hợp tuyệt đẹp.
16. Tôi dâng hương chư vị với những vầng mây hân hoan của hương đốt có hương thơm toả khắp và cay. Tôi cúng dường chư vị các bữa tiệc gồm có nhiều loại thức ăn và thức uống.
17. Tôi dâng lên chư vị các đèn ngọc, đặt trên các đoá sen vàng, và tôi rải các cụm hoa đẹp trên nền nhà thoa hương thơm.
18. Tôi dâng lên chư vị có tâm từ bi các cung điện rực rỡ, hân hoan với các bài hát ca ngợi, toả sáng với các các vòng hoa ngọc trai và các bảo châu và được trang hoàng tại các lối vào trong bốn hướng.
19. Tôi mang tới tâm các lọng che của chư Đại Thánh Chủ, kết hợp tinh vi bằng châu ngọc mĩ lệ được nâng lên cao tuyệt vời với các cán bằng vàng, hình dáng trang nhã và có châu ngọc viền quanh.
20. Sau đó, nguyện các đám mây hân hoan của các cúng phẩm dâng lên cao, và các đám mây âm nhạc do nhạc cụ hợp tấu làm thích thú tất cả các hữu tình.
21. Nguyện các mưa hoa, các mưa châu ngọc, v.v… tiếp tục rơi trên tất cả các hình ảnh, các bảo tháp (reliquaries), và tất cả các châu ngọc của Pháp tối thắng.
22. Cũng như Văn Thù và chư Bồ tát cúng dường chư Tối Thắng, tôi cúng dường chư Như Lai, chư Thủ Hộ, cùng với chư Bồ tát con Phật cũng như thế.
23. Với các tán ca là các cung điệu của hải triều, tôi xưng tán chư Đại hải của Công Đức (= chư Phật). Nguyện các đám mây của các hoà điệu của các tán ca lên tới chư vị theo cùng một cách.
24. Với những đỉnh lể số lượng nhiều như các vi trần trong tất cả các Quốc độ Phật, tôi kính lễ chư Phật hiện diện trong tất cả ba thời, kính lễ Pháp, và kính lễ chư Thánh Tăng.
25. Cũng như thế, tôi kính lễ tất cả các tháp thờ Phật và các xứ an trú của Bồ tát. Tôi cũng đỉnh lễ các vị thầy và các thành tựu giả đáng ca ngợi.
26. Tôi về nương tựa nơi Phật cho tới ngày tôi giác ngộ, tôi về nương tựa Pháp và toàn thể chư Bồ tát.
27. Tôi chắp hai tay thỉnh cầu Chư Toàn Giác hiện diện khắp mười phưong và chư Bồ tát đại bi.
28. Bất kì tội nào tôi, một kẻ ích kỉ xấu tính (a brute), đã phạm hoặc đã làm cho các người khác phạm trong đời này và các đời khác suốt từ luân hồi vô thủy,
29. Và bất kì sự vật gì mà tôi vui vẻ hân hoan một cách ngu si vô trí, do làm như thế nên tôi hại tôi — tội lỗi đó tôi thành thật nói ra, thắng nó bằng sám hối.
30. Bất kì xúc phạm gì do bất kính, tôi đã phạm, với thân, ngữ, và tâm chống với Tam Bảo, chống với các người mẹ và các người cha, và chống lại các thầy tâm linh và các người khác,
31. Và bất kì các nết xấu dễ sợ nào tôi, một tội phạm, bị nhơ nhuốm với nhiều lỗi lầm, đã làm, thưa chư Đạo Sư, tôi thành thật nói ra tất cả chúng.
32. Làm cách nào tôi trốn thoát nó? Hãy cứu tôi gấp! Nguyện cái chết không lặng lẽ đến sớm với tôi trước khi các nết xấu của tôi đã biến mất [xuyên qua sám hối].
33. Tử thần không phân biệt giữa các sám hối đã được làm và đã không được làm. Kẻ khoẻ mạnh hoặc kẻ đau yếu đều không tín nhiệm tên phản bội này, vì nó giống như một cú sấm sét lớn, bất ngờ.
34. Tôi đã phạm nhiều nết xấu vì chuyện bạn bè và kẻ thù. Điều này tôi đã không nhớ ra: “Tôi phải ra đi, bỏ mọi người lại đằng sau”.
35. Các kẻ thù của tôi sẽ không ở lại, các bạn của tôi cũng sẽ không ở lại. Tôi sẽ không ở lại. Không sự vật gì sẽ ở lại.
36. Bất kì cái gì được trải nghiệm sẽ phai mờ đối với kí ức. Giống như một trải nghiệm trong một chiêm bao, mỗi sự vật đã đi qua sẽ không được thấy lại.
37. Ngay cả trong đời này, khi tôi đã đứng bên cạnh, nhiều bạn bè và kẻ thù đã ra đi, nhưng tội ghê gớm bị dẫn dụ bởi chúng vẫn còn ở lại trước mặt tôi.
38. Như vậy, tôi đã không quan tâm rằng tôi thì phù du. Do ngu si vô trí, tham và sân, tôi đã tạo tội trong nhiều cách.
39. Ngày và đêm, thời gian còn lại của đời người giảm đi không ngừng, và không tăng thêm. Vậy tôi sẽ không chết?
40. Mặc dù nằm đây trên giường và nhờ cậy vào các thân nhân, tôi một mình phải chịu đựng cảm thọ trạng thái bị cắt mất sức sống.
41. Đối với một cá nhân bị các sứ giả của Tử Thần túm bắt, thân nhân giúp được gì, và bạn bè giúp được gì? Vào thời điểm đó, chỉ một mình phúc đức là một sự thủ hộ, và tôi chưa tu tập phúc đức.
42. Thưa chư Thủ Hộ, tôi, coi thường và không ý thức về nguy hiểm này, khi đã thực hiện nhiều nết xấu do tham ái đối với đời sống thoáng qua này.
43. Bạn hoàn toàn tiều tuỵ trong khi bị dẫn ra pháp trường ngày hôm nay để bị cắt các chi. Bị phơi nắng khô héo với khát nước và với hai mắt tội nghiệp đáng thương, bạn nhìn thế giới một cách khác hẳn.
44. Có phải khi thấy các sắc tướng kinh khiếp của các sứ giả của Tử Thần bạn bị trấn áp nhiều hơn là khi bạn bị tiêu hủy bởi cơn sốt của khủng bố và vãi các chất bài tiết làm bẩn cả thân ?
45. Thấy lâm nguy tôi liếc nhìn nhiều lần tìm kiếm sự thủ hộ trong bốn phương. Kẻ tốt nào sẽ thủ hộ tôi thoát khỏi sợ hãi lớn lao này?
46. Thấy bốn phương đều không có sự thủ hộ, tôi lại mê mờ. Tôi sẽ làm gì trong trạng thái sợ hãi lớn lao này?
47. Ngay bây giờ tôi về nương tựa chư Thủ Hộ của thế giới có năng lực vĩ đại, tới chư Tối Thắng, nỗ lực thủ hộ thế giới và xoá đi mọi nỗi sợ hãi.
48. Cũng thế, tôi dốc lòng về nương tựa Pháp do chư Phật chứng ngộ, là pháp tận diệt được nỗi sợ hãi luân hồi, và về nương tựa nơi chư Bồ tát thánh chúng.
49. Trong cơn sợ hãi run rẩy, tôi dâng thân tâm tôi lên Phổ Hiền, và do ý chí của tôi, tôi cũng dâng thân tâm lên Văn Thù.
50. Hoảng hốt, tôi bi ai cầu cứu đấng Thủ Hộ Quán Thế Âm, hành hoá của ngài lưu xuất đại bi, ngài có thể thủ hộ tôi, một kẻ tội phạm.
51. Tìm kiếm thủ hộ, tôi dốc lòng cầu khẩn Hư Không Tạng cao quý, Địa Tạng, và tất cả chư Bồ tát Đại Bi.
52. Tôi kính lễ Kim Cương Thủ (Vajri/Vajrapani), chỉ thấy hình ảnh ngài các sứ giả của Tử Thần và các hữu thể thâm độc khác hoảng hốt đào tẩu bốn phương.
53. Sau khi tôi làm ngơ lời khuyến cáo của chư Phật, trong kinh hoàng, tôi về nương tựa nơi ngài giờ đây khi tôi đối diện nỗi sợ hãi này. Xin chư Phật hãy làm biến mất nhanh chóng nỗi sợ hãi của tôi.
54. Ngay cả bạn sợ hãi một bệnh tật chóng qua, bạn sẽ không thờ ơ lời khuyên của thầy thuốc; vậy có sợ nhiều hơn khi bạn bị phiền não bởi bốn trăm lẻ bốn bệnh tật,
55. Trong các bệnh tật chỉ có một bệnh có thể hủy diệt tất cả những người sống trong châu Thiệm bộ phương Nam (Jambudvipa) và một dược phẩm đối trị nó thì không được tìm thấy trong bất kì miền nào.
56. Nếu tôi làm ngơ lời khuyến cáo của vị Thầy Thuốc Nhất Thiết Trí ngài nhổ hết mọi đau đớn, tôi thật xấu hổ tôi là một kẻ cực kì ngu si vô trí biết bao!
57. Nếu tôi đứng rất cẩn thận ngay cả trên một bờ đá dốc nhỏ, vậy làm cách nào cẩn thận nhiều hơn khi trên một vực sâu muôn thuở cả ngàn do tuần (= địa ngục A tì).
58. Thật là phi lí khi tôi sống thoải mái, không lo âu, nghĩ “Đúng thế ngày hôm nay cái chết sẽ không tới”. Thời điểm khi tôi sẽ không hiện hữu là không thể tránh được.
59. Ai có thể cho tôi sự không sợ hãi? Tôi sẽ trốn thoát cách nào? Tôi chắc chắn sẽ không hiện hữu. Tại sao tâm tôi thoải mái không lo âu?
60. Giá trị gì còn ở lại với tôi từ những trải nghiệm trước kia, chúng đã bị biến mất, và tôi vẫn miệt mài trong trải nghiệm trước kia, làm ngơ các lời giáo huấn của các vị thầy tâm linh?
61. Khi buông bỏ các thân nhân và các bạn bè của tôi và thế giới này của sự sống, tôi sẽ đi riêng một mình tới một nơi khác. Tất cả các bạn bè và kẻ thù của tôi có lợi ích gì không?
62. Trong trường hợp đó, chỉ có quan tâm này là có nghĩa lí cho tôi ngày và đêm: Cách nào sẽ bảo đảm tôi trốn thoát được đau khổ do các quy kết của bất thiện hạnh đó.
63. Bất kì nết xấu gì, bất kì hành động gì sai trái với tính tự nhiên [trong có mười bất thiện] (prakrtyavadya; natural misdeeds), và bất kì hành động gì sai trái bởi sự cấm chỉ [sai trái vì đã thọ giới cấm chỉ] (prajnapty-avadya; misdeeds by prohibihition) tôi, một kẻ ngu si vô trí, đã tích tập,
64. Bị kinh sợ đau khổ, tất cả các sai trái này tôi thành thật nói ra, đứng với hai tay chắp lại trong sự hiện diện của chư Thủ Hộ và kính lễ một lần nữa.
65. Nguyện chư Đạo sư biết về các tội lỗi của tôi cùng với trạng thái bất chính hư xấu của tôi (my iniquity). Thưa chư Thủ Hộ, tôi nguyện không phạm ác hạnh này nữa.
________________________________
Chú thích của bản dịch Anh
1. Thiện Thệ: Trong 10 hiệu của Phật thì thứ nhất là Như Lai, thứ 5 là Thiện Thệ. Như lai nghĩa nương theo đạo như thực, khéo đến thế giới Sa bà này; Thiện thệ nghĩa là thực sự đến bờ bến kia, không còn lui lại biển sinh tử nữa. Hai từ Như lai và Thiện thệ được sử dụng để nêu tỏ cái đức đi, đến tự tại của chư Phật. (Phật Quang Đại Từ Điển . p.5840)
2. Thiện thệ (Sugata): Prajnakaramati trong Panjika, p.1 , định nghĩa chư Thiện thệ trong bốn cách:
(1) là các vị đã xoá bỏ các sự che lấp của các phiền não tinh thần (klesyadyavaraprahanam gatah)
(2) là các vị đã thực chứng tính vô ngã của tất cả các hiện tượng (prasatam sarva -dharma-nihsvabhavata-tattvam gata adhigatah)
(3) là các vị đã đi, không trở lại một lần nào (apunaavrttya gatah) bởi vì các vị hoàn toàn xóa sạchvô minh (avidya; spiritual ignorance) là hạt giống chấp thủ “tôi” (ahamkara), và bởi sự xoá bỏ vô minh chư Thiện Thệ khác biệt hẳn với các vị Nhập Lưu/ Dự Lưu ( srotapanna; Stream-enterers; tu đà hoàn), các vị Nhất lai (sakrdagamin; Once-returners; tư đà hàm), và các Bồ tát;
(4) và các vị đã đạt đến sự xoá bỏ hoàn toàn các tập khí nghiệp (vasana; karmic imprint) không còn bất kì dư báo nào (without any remainder), và do nhờ trạng thái viễn li trọn vẹn này, chư Thiện Thệ khác biệt hẳn các vị Bất Hoàn (anagamin; Non-returners; a na hàm), các Thanh Văn (sravakas), và các vị Độc Giác (Pratyekabuddhas).
3. phúc đức (Skt. punya; Tibetan: bsod nams; merit) được quý mến sâu rộng trong Phật giáo là một sự vật được tích tập trong giòng tâm (mind-stream) của bạn trong trạng thái là kết quả của các hành hoạt công đức, và nó thì bị giảm bớt bởi các hành động phi công đức tỉ dụ các hành tác ác ý, tà tâm. Nó là suối nguồn của an lạc trong luân hồi, và sự tích tập của nó là một yếu tố cần thiết trong mục đích đạt niết bàn. Như vậy, nó có ý nghĩa của “năng lực tâm linh”, cộng thêm vào “phúc đức” (merit) và “công đức” (virtue).
4. Chương 1, tụng 25: theo Panjika , p.15 thì “viên ngọc chưa từng có và cao quý này” là quy chỉ một hữu tình.
5. Chương 1, tụng 34: theo Panjika, p.18, một nguồn của trích dẫn này là: Gunaratnasamuccaya; Công đức bảo tích tinh yếu)
6. Chương 2, tụng 1: theo Panjika, p. 12, viên ngọc của Pháp tối thượng là tướng trạng của kinh điển và các thực chứng tâm linh (agamadhigama-laksana).
7. Chú thích của bản Anh. Trong toàn tác phẩm này, ngài Tịch Thiên nói về “Skt. papa” (Tibetan: sdig pa), (nghiệp tội/tội nghiệp); Các độc giả Tây Phương hiện đại thường bác bỏ sự giới thiệu từ ngữ SIN (tội) vào các bản dịch Phật giáo trên các căn cứ là nó chất chứa nặng nề thêm các sai biệt hình bóng thần học và tâm lí học từ lịch sử các tôn giáo và xã hội Tây Phương. Họ tranh biện, từ ngữ này thì liên kết sít sao với sự thưởng phạt/ sự phán xét thần thánh, sự có tội, và sự sợ hãi, nó nên cùng được tránh sử dụng trong các bài viết Phật giáo.
Trong bản dịch này chúng tôi [dịch giả bản Anh] dịch thuật ngữ Skt. papa thành cả hai: sin (nghiệp tội/tội nghiệp) và vice ( nết xấu/ tính xấu…). Mặc dầu cũng có thể dịch là misdeed, fault, offence, transgression, hoặc wrongdoing (hành tác sai trái, lỗi lầm, vi phạm…) nhưng không từ ngữ nào theo sát ý niệm Phật giáo mà Tịch Thiên phân biệt giữa các thuật ngữ papa (nghiệp tội), apatti (tội đọa), và dosa (fault, tội lỗi; bane, tai họa) trong hai tác phẩm của ngài, Con đường Bồ tát và Đại thừa tập Bồ tát học luận. Trong khi Skt. papa quy chỉ về mọi hành nghiệp phi công đức (akusala-karma; non-virtuous deed), Skt. apatti (tội đọa) chỉ quy chỉ vào các tội đọa (downfalls) do sai trái vượt khỏi các giới điều (transgression of precepts); và Skt. dosa quy chỉ các nhóm lỗi lầm rộng hơn, gồm cả các tính nết làm thiệt hại và không chỉ là các hành tác phi công đức. Như vậy các thuật ngữ vi phạm (offence), sai trái với các giới điều (transgression), và lỗi lầm (fault) không có cùng nghĩa như Skt. papa. Từ Anh ngữ misdeed và wrong doing (hành tác sai trái) có nghĩa tương đối hợp lí với nghĩa của papa, nhưng hãy quan tâm ngài Tịch Thiên nhấn mạnh vào tiến trình sám hối (confessing) và tịnh hoá (purifying) papa để tránh các hệ quả thảm hại/thảm khốc của nó (its dire consequences), tỉ dụ tái sinh trong địa ngục, từ ngữ Anh ngữ thông dụng SIN có vẻ tương ứng sít sao nhất với thuật ngữ papa ( tội nghiệp/ nghiệp tội) của tiếng Phạn.
8. Skt. papa (nghiệp tội) nguyên văn — cái gì đem bạn xuống thấp. Skt. punya (phúc đức) đối nghĩa với Skt.papa. Punya cái gì đem bạn lên cao. Nó là công đức hay phúc đức tinh thần. Phúc đức dẫn đến hạnh phúc. Nghiệp tội dẫn đến đau khổ.
9. Chương 2, tụng15, theo Panjika, p.26, hoa mạn đà la là một loại hoa được tìm thấy ở cõi của chư thiên.
10. Chương 2, tụng 13, tụng 22 — theo Panjika, p. 28” Chư tối tôn giữa chư Thủ Hộ của thế giới, Văn Thù, Phổ Hiền, và Di Lặc, chư Bồ tát đều là chư vị đại sư của của mười Địa ( dasa-bhumi)
11. Chương 2, tụng 25, — theo Panjika, p. 28, tuyên bố các tháp thờ (Skt. caitya; shrines) quy chỉ các tháp thờ Phật (Skt. stupas), trong có xá lợi hoặc không, và “các nơi an trú” (resting-places), quy chỉ các nơi Phật đản sinh, xuất gia, thành đạo, nhập niết bàn, như được thuật trong các kí mục Kinh Bản sinh (Jataka), Kinh Thí dụ (Avadana).
12. Chương 2, tụng 26 — theo Panjika, p. 29, giải thích rằng về nương tựa nơi (going for refuge) nghĩa là tuân giữ các mệnh lệnh của quy y đó, nghĩa là không làm sai trái vượt khỏi các mệnh lệnh của vị mà bạn quy y.
13. Chương 4, tụng 47 — theo Panjika, p.47, “Đây chỉ là một huyễn tượng”, vì lí do này (hence), trên quy kết về không có một gốc rễ, [các phiền não tinh thần] đều rỗng thông trong bản chất và ngoại lai / khách trần (Skt. agantuka; adventitious).
____________________________
Bản dịch Việt căn cứ chính yếu vào bản dịch Sanskrit -English:
Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life. Translated from the Sanskrit and Tibetan by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace. Snow Lion, 1997
Và có tham khảo bản dịch Sanskrit – English, và bản dịch Việt sau đây:
Santideva. The Bodhicaryavatara. Translated by Kate Crosby and Andrew Skilton. Oxford University Press. 1995.
Tịch Thiên. Nhập Bồ tát hạnh. Thích nữ Trí Hải. Saigon 1999.
_____________________
Chú thích của bản Việt
1. Bồ Đề Tâm (Phật Quang Đại Từ Điển. Thích Quảng Độ dịch. p.663, lược trích)
Phạm: bodhi-citta. Gọi đủ: A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm. Cũng gọi là Vô thượng chính chân đạo ý, Vô thượng bồ đề tâm, Vô thượng đạo tâm, Vô thượng đạo ý, Vô thượng tâm, Đạo tâm, Đạo ý, Đạo niệm, Giác ý. Tức là tâm cầu Bồ đề vô thượng (cầu thành Phật). Tâm bồ đề là hạt giống sinh ra hết thảy chư Phật, là ruộng tốt nuôi lớn các pháp trong sạch. Nếu phát khởi tâm này mà tu hành tinh tiến, thì sẽ mau chóng được Bồ đề vô thượng. Cho nên biết tâm Bồ đề là chỗ bắt đầu của tất cả thệ nguyện chân chính, là gốc của Bồ đề, là chỗ dựa của đại bi và Bồ tát học. Bồ tát Đại thừa trước hết cần phải phát tâm rộng lớn, gọi là phát tâm Bồ đề, phát tâm, phát ý; mới bắt đầu phát tâm, gọi là sơ phát tâm, tân phát ý. Người cầu sinh về Tịnh độ, cũng phải phát tâm Bồ đề.
Tâm Bồ đề nhờ vào nhiều duyên mà phát khởi.
Mật giáo chủ trương phát tâm là một trong năm lần chuyển biến của chữ A, và dựa vào ba thứ tâm bồ đề: Hạnh nguyện, Thắng nghĩa, Tam ma địa trong luận Bồ đề tâm mà lập bốn loại phát tâm:
1. Tín tâm, chỉ cho tâm đối với việc cầu Vô thượng bồ đề không một mảy may ngờ vực. Vì tâm này là nền tảng của muôn hạnh nên cũng gọi là Bạch tịnh tín tâm (lòng tin trắng sạch).
2. Đại bi tâm, sau khi phát Bạch tịnh tín tâm, lại lập bốn thệ nguyện rộng lớn, tâm này cũng gọi là Hạnh nguyện tâm, Hạnh nguyện bồ đề tâm.
3. Thắng nghĩa tâm, trong các giáo pháp, chọn lựa giáo pháp chân thực. Tâm này cũng gọi là Thâm bát nhã tâm, Thắng nghĩa bồ đề tâm.
4. Đại bồ đề tâm, ngay lúc quyết định bỏ phần kém, chọn phần hơn, thì chư Phật mười phương liền hiện ở trước mặt để chứng minh, các ma thấy thế sợ mà rút lui. Đại bồ đề tâm này cũng gọi Tam ma địa bồ đề tâm.
Tuy chia ra bốn tâm như trên, nhưng vốn là một thể, cho đến lúc thành quả Phật cũng không giây phút nào rời nhau. Được như thế là nhờ tự hành hoá tha, thế gian xuất thế gian tu tam mật của chư tôn mà ra, nên gọi là Hữu tướng bồ đề tâm. Nhưng vì xưa nay vốn có tướng tức không tướng, cũng như hư không lìa tất cả tướng, nên khế hợp với Vô tướng bồ đề tâm.
2. Phát Bồ đề tâm (Kinh Hoa Nghiêm)
Này thiện nam tử! Bậc Bồ-tát phát lòng Vô-thượng Bồ-đề là:
Khởi lòng đại-bi cứu độ tất cả chúng sinh.
Khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự.
Khởi lòng khắp cầu chính pháp, tất cả không sẻn tiếc.
Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu Nhất thiết trí.
Khởi lòng đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sinh.
Khởi lòng không bỏ rơi các loài hữu tình, mặc áo giáp kiên thệ để cầu bát nhã ba-la-mật.
Khởi lòng không siểm dối, vì cầu được trí như thật.
Khởi lòng thật hành như lời nói, để tu đạo Bồ tát.
Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả Như Lai.
Khởi lòng nguyện cầu Nhất thiết trí, cùng tận kiếp vị lai giáo hoá chúng sinh không dừng nghỉ.
Bồ tát dùng những công đức Bồ-đề tâm nhiều như số bụi nhỏ cuả cõi Phật như thế, nên được sinh vào nhà Như Lai.
……
Phổ Hiền Bồ tát bảo:
Thiện nam tử! Bồ tát vì điều phục giáo hoá tất cả chúng sinh nên phát Bồ-đề tâm.
Vì trừ diệt khổ-tụ cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ đề tâm.
Vì đem cho tất cả chúng sinh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ đề tâm.
Vì dứt trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ-đề tâm.
Vì đem lại lại Phật trí cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ-đề tâm.
Vì cung kính cúng dường tất cả chư Phật nên phát Bồ-đề tâm.
Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỉ, nên phát Bồ-đề tâm.
Vì muốn thấy sắc-thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên phát Bồ-đề tâm.
Vì muốn vào trí-tuệ rộng lớn của tất cả chư Phật, nên phát Bồ-đề tâm.
Vì muốn hiển hiện các đức: lực, vô-úy của chư Phật, nên phát Bồ-đề tâm.
3. Kinh Hoa Nghiêm. Trụ xứ của Bồ tát
Lúc bấy giờ, Bồ tát Di Lặc thâu nhiếp thần lực, bước vào lầu các, khảy móng tay rồi bảo Thiện Tài đồng tử như vầy: “Này thiện nam tử, hãy đứng dậy! Pháp tánh vốn như thế, do sự tích tụ và tập hợp của các nhân duyên nên hiện ra tướng như thế, tự tánh vốn như thế, không tự thành tựu, như mộng, như huyễn, như ảnh tượng”.
Ngay khi ấy, Thiện Tài vừa nghe tiếng khảy móng tay liền dậy khỏi tam muội. Di Lặc tiếp tục: “Ông có thấy không, những thần thông biến hóa của Bồ tát, những lưu xuất năng lực của Bồ tát, sự quảng bá những nguyện và trí của Bồ tát, niềm hoan hỉ tịnh lạc của Bồ tát, những công hạnh của Bồ tát, vô số trang nghiêm cõi Phật, những thệ nguyện vô thượng của các Như lai, giải thoát bất khả tư nghị của Bồ tát, ông có thấy và theo dõi thông suốt những điều đó chăng?”.
Thiện tài nói: “Bạch thánh giả, dạ có, ấy là do thần lực gia hộ của thiện tri thức. Bạch thánh giả, vậy môn giải thoát này gọi là gì?”.
Di Lặc: “Môn giải thoát này gọi là Trang nghiêm tạng (vyuhagarbha) trong đó, chứa đựng, ghi nhớ, không hề quên trí tuệ về hết thảy ba nghìn thế giới (Nhập tam thế nhất thiết cảnh giới bất vong niệm trí trang nghiêm tạng). Thiện nam tử, trong môn giải thoát này lại có bất khả thuyết môn giải thoát, chỉ có Bồ tát nhất sinh mới có thể chứng đắc”.
Thiện Tài: “Bạch thánh giả, những sự trang nghiêm này rồi đi về đâu?”.
Di lặc: “Đi về chỗ đến”.
Thiện Tài: “Từ đâu đến?”.
Di Lặc: “Từ thần lực trí tuệ của Bồ tát mà đến; nương thần lực trí tuệ của bồ tát mà trụ. Không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, không có tích tập, không có tăng gia, không có thường trụ, không có sở trước, không có sở y trên mặt đất hay giữa hư không.
“Này thiện nam tử; như Long vương làm mưa lũ; mưa không từ thân tuôn ra, không từ tâm tuôn ra, không có sự tích tập nào trong nó, nhưng mưa tuôn ra từ niệm lực của Long vương – và mưa tuôn khắp cả thế gian. Nó không thể nghĩ bàn.
“Này thiện nam tử, những sự trang nghiêm mà ông đã thấy cũng vậy. Không từ bên trong mà có, không từ bên ngoài mà có nhưng nó có trước mắt ông, có từ oai thần của Bồ tát, vì thiện căn mà ông đã thành tựu.
“Này thiện nam tử, như nhà huyễn thuật làm trò huyễn hóa, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, nhưng hiển hiện trước mắt mọi người bởi vì ma lực của chú thuật.
“Cũng vậy, này thiện nam tử, nhưng sự trang nghiêm mà ông đã thấy, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, không tụ tập nơi đâu; chúng hiển hiện là do Bồ tát muốn tập học trí như huyễn bất khả tư nghì, và do đại oai lực của những nguyện và trí của Bồ tát”.
Thiện Tài: “Bạch thánh giả, ngài từ đâu đến”.
Di Lặc: “Bồ tát không đến không đi, như thế mà đến; Bồ tát không bước, không dừng, như thế mà đến; không sống không chết, không ở không qua, không rời không dậy, không cầu không thủ, không nghiệp không báo; không sinh không diệt, không thường không đoạn, như thế mà đến.
“Này nữa, thiện nam tử, Bồ tát đến như vầy: đến từ chỗ đại bi, vì mong điều phục hết thảy chúng sinh khỏi những khổ não; đến từ chỗ tịnh giới, vì muốn thọ sinh vào những nơi tùy thích; đến từ chỗ đại nguyện phải viên mãn, vì năng lực của những thệ nguyện xa kia; đến từ chỗ thần thông? vì muốn hiện thân theo sở thích chúng sinh đến từ chỗ không dao động, vì không hề lãng xa gót Phật; đến từ chỗ không thủ xả vì đi hay đến không nhọc thân và tâm; đến từ chỗ trí tuệ phương tiện vì để tùy thuận hết thảy chúng sinh; đến từ chỗ thị hiện biến hóa, vì tất cả hóa hiện đều như ảnh, như tượng.
Discussion about this post