Bóng mây bay thoáng qua
TRÊN ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT
Trần Kiêm Đoàn
Mới cuối Hè, đầu Thu mà Bắc Kinh
đã lụt bão. Chúng tôi vội vã rời Bắc Kinh về Tô Châu để đến viếng Hàn Sơn Tự
chứ không phải để “mua lụa Tô Châu biếu em” như một nhạc sĩ nào đó lãng mạn
dàng trời đã từng mơ mộng. Một nhà sư trong chùa Hàn Sơn nói: “Bài thơ mới giữ được ngôi chùa, chớ không
phải ngôi chùa giữ được bài thơ”. Ý nói bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương
Kế. Đã 13 thế kỷ đi qua, kẻ hậu sinh hôm nay về thăm Cô Tô thành ngoại, bỏ
ra 5 Nhân dân tệ lên gác chuông chùa Hàn Sơn đánh ba tiếng chuông. Tiếng chuông
lạc lõng sao tự mình nghe… nhếch nhác loãng như nước ốc! Thì ra, chỉ một không
hai, tiếng chuông là một viên ngọc thi ca chỉ gióng lên và rớt xuống một lần
cho thi nhân đợi chờ bao đại kiếp mới hốt nhiên đại ngộ đề thơ.
Trên chuyến đi về Tây
An, chúng tôi viếng chùa Từ Ân, nơi pháp sư Huyền Trang dịch kinh từ 1300 năm
trước. Tháp Đại Nhạn, nơi chứa kinh sách dịch thuật của Huyền Trang vẫn còn
sáng lên trong nắng mà bao thế hệ con người đã đi qua, qua đi. Trên chuyến bay
giã từ Tây An, tôi được bà cụ Nguyên Thanh, một cư sĩ Phật giáo cao niên đồng hành trong chuyến đi cho mượn
tập sách Đường
Về Xứ Phật của Hòa thượng
Thích Thông Lạc[1]. Trước khi trao tay, bà cụ có ý kiến: “Đạo hữu
cũng nên có đôi lời nhận định. Tôi quý cái tâm ngay thẳng của Hòa thượng Thích
Thông Lạc, nhưng lại e rằng, lời Thầy viết ra quá bộc trực nên không khỏi gây
nhiều chao động, nhất là đối với thế hệ Phật tử đàn em của chúng ta.” Cảm nhận
sự chân thành trong lời “gởi gắm” của bà cụ Nguyên Thanh, tôi hứa là sẽ viết
đôi điều…
Đọc qua tập sách
thầy Thông Lạc, rồi nhìn về công trình dịch thuật đồ sộ của Huyền Trang, tự
nhiên tôi có cảm tưởng như mình đang lạc lối trên đường về xứ Phật vì khach
hành hương thì đông mà nhìn rõ nhau thật khó. Nhất là khi đọc bài Chánh
tín – Mê tín – Chánh kiến – Tà kiến nói về ngày Vu Lan,[2] tôi xót xa nhớ Mẹ, nhớ nhà. Đã 50 năm rồi, tôi không còn được đi
với Mẹ lên chùa Châu Lâm Huế cúng dường quý Thầy trong mủa An cư kiết Hạ; được
ăn bánh trái, môn khoai sau lễ cúng thí thực trong mỗi chiều Vu Lan…
Không biết từ
bao lâu rồi, tháng Bảy Vu Lan trở thành biểu tượng cho mùa báo hiếu đối với
người theo và có cảm tình với đạo Phật. Phải chăng xuất phát từ sự tích Phật
giáo: Ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ là Thanh Đề bằng sự vận dụng pháp lực và uy đức
của chư tôn đức trong mùa An cư kiết Hạ. Hay tại cảm xúc luân lưu tự nhiên “gió
mùa Thu mẹ ru con ngủ” mà thiên nhiên, đất trời và con người bỗng có chung một
“nỗi lòng” thương điều hiếu hạnh với nguồn cội sinh thành.
Trong dòng tâm
tưởng trôi chảy êm đềm của mùa Vu Lan rằm tháng Bảy đó, Hòa thượng Thích Thông
Lạc đã đưa ra lời phản bác ý nghĩa, nội
dung và nguồn gốc của mùa Báo Hiếu trong truyền thống Phật giáo Việt Nam.
Luận điểm tổng
quan của Thầy trong Đường Về Xứ Phật là
đứng trên quan điểm Phật giáo Thiền Tông (Tiểu Thừa) – đã được Hiểu và suy diễn
theo khuynh hướng đặc thù của riêng Thầy – để phản bác về các hình thái Lý và
Sự – Tri và Hành của “Phật giáo Phát Triển” (Đại Thừa). Thầy Thông Lạc thường
xuyên nhấn mạnh rằng: “Kinh điển phát
triển (Đại Thừa) diễn đạt giáo lý phi đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, thế mà
mọi người vì quá vô minh, u tối không thấy, nên bị lừa đảo, bị lường gạt một
cách đau đớn.” (TTL. Đường Về Xứ Phật, tập VI. Tr.5)
Không rõ đã có
bao nhiêu người được thầy Thông Lạc “khai thị” theo phương pháp nầy cho bớt “vô
minh”. Riêng kẻ viết những dòng nầy thì… không thấy vô minh mà cũng chẳng thấy
hết vô minh trước và sau khi đọc bài thầy Thông Lạc viết về Vu Lan Bồn. Thầy tự
nhận là bậc tự phát giác ra được một vụ “báo hiếu vô đạo đức khổng lồ” trong
lịch sử hơn nghìn năm của Phật giáo. Đó là trường hợp đức Mục Kiền Liên cứu mẹ,
ra khỏi địa ngục A Tỳ. Thầy cho rằng, đây là “một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành một truyền thống báo hiếu vô
đạo đức trong lòng tín đồ Phật giáo Việt Nam hơn cả nghìn năm mà không ai phát
giác ra được.”
Chuyện Mục Kiền
Liên cứu mẹ tuy là câu chuyện mang bối cảnh Phật giáo, nhưng đã trở thành câu
chuyện dân gian như chuyện Tấm Cám, Thị Kính Thị Mầu, Ăn Khế trả Vàng, Cây Tre
Trăm Đốt… trong dòng văn hóa Việt Nam.
Tóm tắt chuyện
Mục Liên Thanh Đề là như vầy: Mục Kiền
Liên xuất gia theo Phật, tu hành chứng quả giải thoát đắc Lục Thông và trở
thành một đại đệ tử của đức Phật. Bà mẹ Thanh Đề từng là một tín nữ thuần thành
Phật giáo. Khi Mục Kiền Liên xuất gia, bà Thanh Đề tìm cách ngăn cản nhưng
không được. Tức giận, bà đã làm những việc bất chánh đối với chư tăng như bỏ
các thứ hương liệu cấm dùng trong nhà Phật và làm bánh nhân pha thịt chó để thử
thách tăng đoàn. Khi chết, Thanh Đề đọa địa ngục A Tỳ. Mục Kiền Liên dùng nhãn
lực thần thông thấy mẹ mình đang bị đọa địa ngục, bị quỷ dữ hành hạ và đói khổ
kinh hoàng. Với lòng hiếu hạnh thương mẹ, Mục Liên dùng thần thông xuống địa
ngục thăm và mang theo bát cơm cho mẹ. Nhưng cơm chưa đến miệng Thanh Đề đã
cháy thành than. Vô phương cứu mẹ, Mục Kiền Liên bạch Phật xin tìm phương cách
cứu mẹ mình. Đức Phật chỉ giáo rằng: “Nhân mùa an cư kiết Hạ sẽ kết thúc vào
rằm tháng Bảy, chư tăng ni sau ba tháng ẩn cư tu học nên thân tâm an tịnh, năng
lực phong quang. Muốn cứu mẹ ra khỏi địa ngục cần phải có sự chú nguyện và công
đức to lớn của chư tăng hợp lại để độ trì mới giải cứu được. Mục Kiền Liên vâng
lời Phật dạy, cung thỉnh chư tăng cúng dường trai tăng và tứ sự. Nhờ vậy, Ngài
đã cứu mẹ ra khỏi chốn địa ngục.”
Từ đó, ngày rằm
tháng Bảy trở thành ngày báo hiếu, xá tội vong nhân.
Qua sự tích sự
tích Mục Liên Thanh Đề và truyền thống báo hiếu này, thầy Thích Thông Lạc đã
đưa ra những luận điểm phản bác. Thầy viết rằng:
1. Mục Liên Thanh Đề là một câu chuyện phi đạo
đức trong Phật giáo Đại Thừa. Câu chuyện nầy là một thứ giáo pháp phi đạo lý,
phi nhân quả, không công bằng và công lý.
2. Đây là câu chuyện được dựng lên trong thời
đại phong kiến đầy dẫy tệ nạn vua quan chuyên ăn hối lộ, mua quan bán chức,
hành động không công bằng hợp lý. “Độ chúng sanh” thực chất chỉ là một hành
động ăn lo hối lộ. Nhờ có lo lót như vậy, bà Thanh Đề mới thoát cảnh tù tội A
Tỳ Địa Ngục.
3. Chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công
bằng và công lý mà thôi. Vì nhân quả là do hành động của mọi người tự làm tội
hay vô tội đều chính nơi họ, cho nên luật nhân quả chính là con người tạo ra,
để xử phạt hay ban thưởng chính lại họ, chứ không có một kẻ thứ hai nào thưởng
phạt. Vì thế nó rất công bằng và công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ
nào làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước báo.
Qua lăng kính
Tiểu Thừa (theo cách sở đắc và suy diễn riêng của Hoà thượng Thông Lạc), thầy
đã cho giáo pháp Đại Thừa (cũng đồng thời, theo cách hiểu riêng của Thầy) là
một loại “dị giáo” phi đạo đức và phi Phật pháp; chỉ có những kẻ u mê, vô minh,
lạc hướng mới bị các thầy tu theo phái Đại Thừa vẽ rồng vẽ rắn theo hình tướng
tà đạo để đánh lừa. Quan điểm nầy đã được thầy Thông Lạc lập đi lập lại một
cách quyết đoán và quyết liệt trong trong hết thảy 10 tập “Đường Về Xứ Phật”.
Đường về xứ
Phật là con đường tâm linh cao rộng. Tuy thênh thang và tự do nhưng không dễ
tìm thấy như đại lộ Đông Tây hay như đường xuyên Nam Bắc vì đây là con đường đo
bằng trí tuệ và thấy bằng tâm linh. Viết những dòng nầy, ngưởi viết chỉ mong là những người tôn Phật làm bổn sư, quy hướng
Phật làm tâm linh sư biểu sẽ thấy nhau rõ hơn trên đường về xứ Phật.
1. Đạo đức Phật giáo về hiếu hạnh
Nói
đến truyền thống đạo đức, trước hết phải nói về ân nghĩa. Văn hóa dân tộc Việt Nam
đặt nặng tinh thần “ân đền nghĩa trả” để đối trị với phường vong ân bội nghĩa.
Văn hoá Phật giáo và dân tộc Việt Nam vừa song hành, vừa hòa quyện trong đời
sống tinh thần và nề nếp xã hội mà đạo Trung Hiếu là đứng đầu trong bảng thang
giá trị làm người. Bởi vậy, công hạnh của người tu theo đạo Phật là “Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”
(Trên đền đáp 4 ơn sâu, dưới cứu giúp 3 đường khổ) trên con đường tìm cầu
giác ngộ. Bốn ơn sâu ấy là: Ơn cha mẹ, ơn
chúng sinh muôn loài, ơn quốc gia xã hội, ơn Tam bảo. Kinh Tăng Chi, kinh Địa
Quán còn diễn đạt chánh đại hơn về công ơn sâu dày của cha mẹ mà phận làm con
không làm sao báo đáp vẹn toàn. Chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ chỉ là một biểu
tượng, một thí dụ điển hình của tinh thần báo hiếu trong muôn một.
Biểu tượng đưa
ra quá rõ ràng và chân thực:
Một bà mẹ vì
quá thương con đã trở thành vọng động nên phải bị đọa địa ngục. Người con chứng
đạo và đạt đệ nhất thần thông. Biết mẹ mình đang bị quỷ sứ hành hạ dưới đáy
tầng địa ngục. Người con xả thân xuống địa ngục cứu mẹ nhưng khả năng và lòng
hiếu hạnh một mình chưa đủ vượt qua bức tường vọng nghiệp quá nặng nề của mẹ.
Người con theo lời Phật dạy và nương nhờ vào định lực ứng hợp của chư tăng ni
trong mùa An cư kiết Hạ để cứu mẹ ra khỏi chốn hỏa ngục.
Sự tích câu chuyện mang một nội dung hợp
tình hợp lý đầy nhân bản. Đây là một
khái niệm đạo đức phổ quát không những đối với con người mà với tất cả mọi loài
hữu tình. Con gà, con ngựa, con voi, con hổ … còn mang thiên tính tình mẫu tử
xả thân bảo vệ cho nhau huống chi là con người. Từ một người ở bộ lạc sơ khai
đến một bậc đại danh xưa nay có ai vô tình thản nhiên khi cha mẹ mình đang bị
đau khổ, bị hành hạ dẫu cho trong bất cứ tình huống và hoàn cảnh nào.
Có chăng những tượng đá mới vô cảm tới mức
lạnh lùng, ngoảnh mặt trước tiếng kêu đau thương của cha mẹ mình đang bị đày
đọa; thản nhiên ráng tu thêm vài đại kiếp cho tới ngày giác ngộ, chấm dứt sinh
tử luân hồi để đem làm quà báo hiếu!.
2.
Hối lộ thần thánh
Con người càng văn minh, nhân tính càng biểu
hiện rạch ròi qua sự tương tác. Ngay như tại các nước Âu Mỹ ngày nay, những
hình thức vận động tập thể để xin giới nắm quyền lực tôn trọng nhân quyền, đối
đãi tử tế, xét xử công bằng dành cho các đối tượng đang bị bắt bớ, giam cầm hay
đang bị đối xử khắc nghiệt là những biểu hiện điển hình của văn minh và văn
hóa. Sự vận động cần đến sức mạnh tổng hợp của các nhà chuyên môn, các quan
chức công tư, quần chúng bình thường để ký vào những thỉnh nguyện thư
(petition), thư phản đối (letter of protest), thư ủng hộ (letter of support)…
hoặc tổ chức những cuộc họp mặt ăn uống thuyết trình, những cuộc gây quỹ, tặng
quà… trên một quy mô rộng lớn là những việc làm hợp pháp đầy quang minh chính
đại. Ngay thời đức Phật còn tại thế, những cuộc trai tăng cúng dường tứ sự
(thực phẩm, áo quần, thuốc men, mền chiếu) của các bậc vua chúa và trưởng giả
đương thời cho Tăng đoàn cũng thường diễn ra trước sự quan chiêm của đại chúng.
Tương tự như thế, cuộc cúng dường vận động của Mục Kiền Liên để xin năng lực
lành của chư tăng gíúp cứu Mẹ đang bị hành hạ ở địa ngục A Tỳ là một việc làm
đầy hiếu hạnh , đáng nêu gương báo hiếu muôn đời.
Tuy nhiên,
riêng thầy Thích Thông Lạc thì đã phản bác và suy diễn sự tích báo hiếu Mục
Kiền Liên như là một trò “hối lộ” phi đạo đức vì phải nương nhờ tha lực của chư tăng trong mùa An cư
kiết Hạ. Đồng thời, thầy nêu lên lý tưởng người tu sĩ đạo Phật muốn báo hiếu
cha mẹ thì phải tu hành chân chánh cho đến khi làm chủ được luân hồi sinh tử;
nghĩa là phải chuyên tu hành cho đến chỗ đắc đạo mới gọi là báo hiếu cho cha
mẹ.
Đạo Phật không đặt tiêu chí đúng/sai thông
qua những lý luận giả định và những hình tướng mang bản chất giả tướng phàm phu
trong nội hàm tục đế. Đức Mục Kiền Liên hội thỉnh năng lực chư tăng để cứu mẹ
hay thầy Thích Thông Lạc chuyên tu đắc đạo để báo hiếu cha mẹ thảy đều là
phương tiện. Tùy theo căn cơ và nghiệp lực của từng chủ thể và đối thể để chọn
phương tiện thích hợp mà kết chiếc bè qua sông. Tới được bờ mới là cứu cánh. Bị
tha hóa trong phương tiện của tri thức thường nghiệm là biểu hiện của vô minh.
Quay lưng với phương tiện môn, khư khư ôm cứng cách làm và cách biết của riêng
mình để phỉ báng những phương tiện khác mình là ngu là dốt – thì vô hình chung, tự lời phỉ báng – đã xa
rời hệ thống giá trị luân lý và đạo đức đậm tính từ bi, hỷ xã của con đường
giải thoát.
3.
Luật nhân quả
Nhân quả là một
quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội; không phải là một sản phẩm của giáo
lý nhà Phật. Nguyên lý nhân quả là điều kiện tiên khởi và tất yếu để vạn vật
sinh ra và phát triển như âm với dương, sáng với tối, nóng với lạnh. Nó hiện
hữu, chi phối và vận hành thiên nhiên mới tạo được thế giới vật lý qua hình
tượng “Big Bang”. Nhân quả là nguyên lý thường hằng từ khi chưa có bóng dáng
của con người và mọi sinh thể trên trái đất. Nhưng khi đến với Phật giáo, luật Nhân Quả không còn là một lý thuyết
khách quan, lạnh lùng và máy móc. Khái niệm nhân quả trong đạo Phật là một
nguyên lý ứng dụng đầy sinh động của dòng sống hiện tiền. Lý nhân quả của nhà
Phật là một tiến trình tương tác kỳ vỹ của NHÂN-DUYÊN-NGHIỆP-QUẢ. Nếu cứ
theo lý nhân quả máy móc thường nghiệm thì thái tử Tất Đạt Đa xuất phát từ cái
“nhân” con vua thì sẽ đạt tới cái “quả” làm vua. Nhưng vị thái tử nầy đã huân
tập THIỆN NGHIỆP của bao nhiêu tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp tu hành. Đồng
thời, Ngài có được THUẬN DUYÊN sinh ra trong triều đại thanh bình của minh quân
mà cũng là từ phụ Tịnh Phạn. Nghiệp lành và duyên thuận đã chuyển hóa một vị
vua tương lai thành đức Phật Thích Ca.
Tứ Diệu Đế
(Khổ, Tập, Diệt, Đạo) là suối nguồn phát khởi dòng chảy luận lý học Phật giáo.
Nó không nương tựa vào một sức mạnh thần quyền hay thế quyền nào cả mà trực
tiếp đi vào sự đau khổ trầm thống của con người và mọi sinh thể. Từ đó, phân
định rạch ròi đâu là nhân, đâu là quả theo cả hai chiều: Lưu chuyển và hoàn diệt. Nhân
quả lưu chuyển giữa đời thường: Tập là Nhân; Khổ là Quả. Nhân quả hoàn diệt
siêu trần thế: Đạo là Nhân; Diệt là Quả. Giữa cuộc đời thường, một sự thật
hiển nhiên mà ai cũng từng nếm trải là cảm thọ khổ đau qua từng chớp mắt của
thời gian. Khổ đau vì vô minh, khổ đau vì tập khí, khổ đau vì bị dập vùi bởi
lơi ra khỏi dòng trung đạo. Và bản chất của Khổ là do sự dính mắc và tác động
qua lại của những mắc xích sinh khởi mà đức Phật chỉ rõ trong Tập Đế xoay vòng
qua Thập Nhị Nhân Duyên.
Nhân quả trong
đạo Phật là một vòng tròn sinh diệt mà nhân là tâm điểm và quả là vòng tròn.
Không có tâm điểm sẽ không có vòng tròn và không có vòng tròn thì tâm điểm
không có lý do tồn tại, nên trong nhân đã có quả và trong quả đã có nhân. Từ
một tâm điểm nhân phát khởi nhưng vòng tròn sinh hóa vẽ ra lớn hay nhỏ, đầy đặn
hay méo mó là do sức mạnh và điều kiện hay nghiệp lực và hợp duyên tác động.
Nhân quả đồng thời. Khi bà Thanh Đề làm bánh nhân thịt chó để thết đã chư tăng
là đã có sẵn mầm ác đọa địa ngục. Và khi Mục Kiền Liên xả thân cứu mẹ là đã có
sẵn mầm thiện hảo của hiếu nghĩa ở trong.
Luật nhân quả mà Thầy Thông Lạc nhắc đi nhắc
lại thường xuyên trong 10 tập Đường Về Xứ Phật là một nguyên lý lạnh lùng và
khô héo thuần lý tính và máy móc. Hễ đánh là động; hễ hô là ứng. Thực tế không
đơn giản và kết cấu sơ sài như thế. Vì vậy, điều Thầy dạy… phải “sống theo luật
nhân quả” đã trở thành một hình thức ngôn ngữ sơ cơ và khả hữu như “nắm lá
trong lòng bàn tay”của chúng sinh mà đức Phật từng dùng làm biểu tượng để khai
thị cho những tầm nhìn giới hạn trước vô cùng. Định kiến và chấp trước là
nguyên nhân sự vắng bóng một hướng nhìn thông thoáng và một tinh thần xả ly của
lý Phật Đà trên đường về xứ Phật.
Tự
lực hay tha lực?
Khổng Tử nói
trong sách Luận Ngữ rằng: “Quân tử hoà nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất
hòa” (Người quân tử hòa mà không đồng; kẻ tiểu nhân đồng mà không hòa). Cả hai
thái độ quân tử vả tiểu nhân trong Khổng giáo đều không thể ứng dụng trong Phật
giáo vì đạo Phật quán chiếu tất cả chúng sinh cùng một thể. Hòa hay không hòa;
đồng hay bất đồng chỉ là biểu hiện tạm thời theo giả tướng thường nghiệm. Khi
đã gặp nhau trên “đường về xứ Phật” thì thị phi, bỉ thử chẳng còn.
Trong vô lượng
pháp môn tu, sự phát triển của giáo lý Đại Thừa là một bước lớn theo chân đức
Phật. Sau ngày đắc đạo, đức Phật cũng đã
chọn lựa con đường hóa độ quần sinh. Trong suốt 49 năm hóa đạo, Ngài đã giúp
cây đuốc diệu kỳ để kẻ học theo Ngài tự thắp lên mà đi tìm cầu giác ngộ. Phật
giáo Việt Nam, sau thời Lý Trần với Thiền tông cực thịnh, đã tiến dần tới
khuynh hướng “Thiền Tịnh song tu” (Tiểu
Thừa Thiền tông và Đại Thừa Tịnh độ tông khế hợp song hành trên đường tu
chứng). Có thể nói đấy là con đường Trung Đạo thích hợp nhất đối với tinh
thần văn hóa nông nghiệp và văn minh làng xã đậm bản chất Việt Nam. Phương tiện
tùy nghi cũng như thuốc hay đúng bệnh. Đối tượng nào thì có phương tiện nấy.
Kinh Di Đà, Pháp Hoa… giúp vẽ ra một thế giới diệu kỳ xứng hợp với khát vọng
của giới bình dân thì Duy Thức, Bát Nhã thì lại đáp ứng được nhu cầu tri kiến của
tầng lớp “thượng căn, thượng trí”.
Thầy
Thông Lạc viết:
“Vu Lan Bồn kinh, phẩm Phổ Môn trong bộ Diệu
Pháp Liên Hoa kinh, Di Đà kinh, Bát Dương kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Duy Ma
Cật kinh v.v… Đó là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi Phật
pháp, nó không triển khai tri kiến giải thoát và tri kiến đạo đức nhân quả, nó
khiến cho trí tuệ con người u mê, vô minh, đen tối, liệt tuệ thường sống với sự
hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, mê tín của thế giới siêu hình tưởng tượng, nó dạy
người làm những việc thiếu đạo đức và thiếu chân thật, thường cúng tế, cầu
cạnh, van xin, gia hộ, hộ trì v.v…
Theo đạo lý nhân quả, ai làm ác thì phải
chịu nhận lấy quả khổ, không ai cứu khổ cho kẻ khác làm ác được, chỉ có các nhà
thuộc kinh sách phát triển mới có một đức Bồ Tát Quán Thế Âm dám làm điều phi
đạo đức này…”
Có chăng một
hình thức “tự lực” hay “tha lực” tồn tại độc lập để người tu hành có quyền lựa
chọn dễ dãi và cụ thể như đi xe lửa hay đáp tàu bay để về “ga” giác ngộ?
Trên thực tế cũng như trong điều kiện lý tưởng
nhất cũng không bao giờ có sự tác động của tự lực hay tha lực độc lập tuyệt đối
và tách rời nhau cả mà tạo ra được một động lực hay một sự chuyển đổi nào của tâm
thức cũng như của hoàn cảnh cả. Muốn tu –
bất cứ tu theo môn phái nào – thì cũng phải dùng sự mong cầu của chính mình (tự lực), nương vào lời dạy của Phật (tha lực) để tịnh tâm quán chiếu (tự lực) trong khi vẫn còn nương vào
phương tiện vật chất cúng dường của đàn na tín thí mới sống được mà tu (tha lực)… Ngay cả khi cầu nguyện một mình
trong vắng lặng chẳng hạn thì cũng phải có sự kết hợp đồng bộ giữa tự lực và
tha lực. Ví như khi đem ý muốn mong cầu cùa mình (tự lực) nói lên với đức Quán
Thế Âm hay với chư Phật, chư Bồ tát (tha lực) thì rõ ràng là một sự kết hợp tạo
thành sự ứng dụng của lời cầu nguyện (phương tiện) nhằm hướng đến một mục đích
(cứu cánh). Và cứ thế, tự lực và tha lực tương tác không rời nhau, hợp duyên thành
phương tiện thiện xảo mới mong đến được cứu cánh (thành Phật, thành bồ tát,
thanh văn, duyên giác; chứng ngộ hay giải thoát…). Ngay cả những thiền sư hốt
nhiên đại ngộ thì vẫn là một ánh chớp hay sự vỡ bùng tại đỉnh điểm sau cùng của
một quá trình tu hành đầy thanh tịnh và tinh tấn với sự trì kéo của tự lực dũng
mãnh kiên cố và tha lực có khi là thuận duyên, khi chướng duyên tác động dưới vô
vàn hình tướng.
Đức Phật từ khi
xuất gia đến khi thành đạo cũng đã trải qua bao nhiêu khoảnh khắc và chặng đường
mà Ngài phải thường xuyên đối diện với tự
lực của chính mình và tha lực của hoàn cảnh. Sau khi thành Phật, Ngài vẫn
không quên quay về hóa độ cho những đối tượng đã “trợ lực” cho Ngài. Kể cả con
ngựa Kiền Trắc và Xa Nặc đã đưa Ngài qua sông A Nô Ma, năm anh em Kiều Trần Như
đã gặp gỡ trên đường tìm đạo, nàng Ma Ha Bà Xa Bà Đề đã dâng bát sữa giúp Ngài
lai tỉnh sau cơn khổ hạnh kéo dài… Bởi vậy, e rằng, một thái độ khăng khăng độc
tôn “tự lực” trên đường tu học thật khó tránh khỏi biên kiến của cực đoan và vọng
động.
Có thể nói rằng, tự lực và tha lực đều là
hai cây kiếm báu nội phò ngoại bật, giúp phát quang mở đường cho công hạnh tu
trì, chặt đứt vô minh. Nhưng bảo kiếm ấy sẽ không hơn gì cây dao cùn của người
hàng thịt nếu kiếm báu vào tay người ngã mạn, động tâm và chấp thủ.
Việc cầu nguyện và thờ phụng trong tôn giáo
xưa nay là một phương tiện tinh thần. Đấy là một khuynh hướng tâm linh mà người
thực hành có toàn quyền lựa chọn: Linh tại ngã, bất linh tại ngã. Người xưa
thường nói: “Âm dương đồng nhất lý”. Lý ở đây là lý bình đẳng giữa nhân và quả,
cầu và ứng, tâm và linh. Giới chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực tự nhiên và xã
hội thường rất dè dặt và cẩn trọng khi đề cập đến những sinh hoạt mang tính
chất tâm linh rất tế nhị nầy. Mọi thái độ khoác tay phê phán chủ quan và bài
bác tiêu cực đều chỉ đưa đến phản tác dụng.
Trong hội nghị chuyên đề về Đức Tin Tôn Giáo
và Khoa Học, hội Tâm Lý Ứng Dụng Quốc Tế
(IAAP = International Association of Applied Psychology) họp tại đại học
LPU ở Olympia, WA, Mỹ vào tháng 3 năm 2012, đã đặt ra vấn đề là: “Sự
cầu nguyện trong các tôn giáo là một hình thức mê tín dị đoan hay có căn cứ
trên nguyên lý khoa học và năng lượng có thật”. Qua các bài thuyết
trình của các nhà khoa học và tâm lý học thời danh, vấn đề trung tâm được thảo
luận là:
– Có sự hiện hữu
của năng lượng, sóng và tần số điện từ ẩn tàng dưới nhiều dạng thức chằng chịt
khắp các thiên hà vũ trụ. Những dụng cụ khoa học truy tầm của trái đất đã ghi
nhận tính tràn đầy và năng động của những suối nguồn năng lượng đó. Ngay ở địa
cầu cũng tràn ngập các dòng năng lượng tự nhiên và nhân tạo. Tất cả đều có sự
giao thoa vô hình vô tướng nhưng cực kỳ linh động và mạnh mẽ. Biểu hiện gần gũi
và cụ thể nhất mà con người có thể tiếp cận được là qua các phương tiện truyền
thông và vi tính. Chỉ cần nhích đúng tần số, mở đúng mã số là tức khắc con
người được nối kết với nhau từ hai đầu trái đất. Có lẽ tần số và mã số của
người Phật tử là Tâm.
Hơn mười năm trước, tôi có viết sự cảm nhận
nầy qua bài báo Sóng Tín Tâm (Waves of
Faith). Bài đăng trên tạp chí American Social Work Association (số 219, IV;
1995). Sau đó, tôi trích đoạn đang vào truyện dài Tu
Bụi [3]:
Có một sức mạnh vô hình của trời đất, vũ
trụ. Ta có thể gọi đó là “Năng Lực Vũ Trụ” hay gọi gì tùy thích. Năng lực
đó ẩn chứa trong Suối Nguồn Vũ Trụ. Con người sinh ra là đã có khuynh
hướng nối kết với Suối Nguồn Vũ Trụ đó rồi. Cầu nguyện là gởi năng lực
nhỏ bé và yếu ớt của cá nhân mình vào năng lực suối nguồn vũ trụ to lớn vô biên
đó. Khi nguy biến, dốc tâm nguyện cầu là mở rộng cửa để lấy lại năng lực
đó. Sự thành tâm cầu nguyện cũng ví như hình thức “giải mã” để năng lực
vũ trụ bắt gặp cửa ngõ của cá nhân mà hút vào và biến tướng dưới vô số hình
thức. Quán Thế Âm là Nghe Tiếng Trần Gian. Đó là trạm chuyển tiếp
năng lực vũ trụ vào nhu cầu của hoàn cảnh con người trần gian một cách kịp thời
và chính xác nhất. Đức Quán Thế Âm là một vị đại Bồ Tát, nhưng đồng thời
cũng là một Năng Lực Siêu Nhiên Tuyệt Đối nên không bao giờ suy suyển, vắng mặt
hay thiếu hụt bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu có nhu cầu trong vũ trụ, càn khôn
nầy. Có thể cùng lúc biến thành vô số nhân vật khác nhau tùy theo nhu cầu
của hoàn cảnh: Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi. Đạo Phật có đức Quán Thế
Âm. Đạo Chúa có đức Mẹ. Dân gian Việt Nam có ông Trời, ông Bụt và
mọi dân tộc, mọi tôn giáo xưa nay và bất cứ nơi đâu, đều có một đấng cứu khổ
tương tự như ngài Quán Thế Âm. Người tiến hóa có một hình ảnh thánh linh
để cầu. Người cổ sơ cầu đá, cầu cây, cầu mưa, cầu gió… đều là một hình thức
giống nhau để tiếp cận với năng lực thường hằng trong Suối Nguồn Vũ Trụ đó.
Tôn giáo là một
hệ thống lý thuyết chuyên sâu về tinh thần được người ta tin theo, tôn thờ và
thực hành vào đời sống. Đó là một con đường tâm linh nên gọi là Đạo. Nhà tu là
người sống Đạo và tín đồ là người theo Đạo. Sinh hoạt tôn giáo thường xuất hiện
dưới ba hình thức: Tin theo, tôn thờ và sống với. Trong đó, tin theo là điều
kiện đầu tiên để trở thành người có tôn giáo. Bảy tỷ người trên thế giới hiện
nay có 59% nhận mình là có theo tôn giáo (religious), 23% không theo tôn giáo
nào cả (non-religious) và 13% là vô thần (atheist). Trung bình tám trên mười
người theo tôn giáo xác nhận là họ cầu nguyện hàng ngày, hướng về một hay những
đấng thần linh nào đó của tôn giáo mà họ tin theo (PEW. Religion/Stat/2011).
Cuộc tranh luận
giữa tôn giáo và khoa học đã kéo dài trên mấy nghìn năm vẫn chưa đến hồi ngã
ngũ. Tuy
nhiên, Phật tử không ai “u mê và bị lừa dối” để đọc kinh A Di Đà, kinh Thủ Lăng
Nghiêm, kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn và cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ
Tát một cách mù quáng như thầy Thông Lạc suy diễn cả. Cái “ý thức cầu
nguyện” từ thời cổ sơ phát xuất từ đức tin bằng cảm nhận và trực giác rằng, con
người và trời đất có sự tương tác vô hình. Thần linh là một dạng linh hồn ở bên
ngoài thể xác. Con người và thần thánh có khả năng tiếp cận nhau ở một cấp độ
cao hơn thân xác vật lý. Và khả năng cống hiến để tạo “duyên” tiếp cận với thần
thành là thông qua cầu nguyện và lễ nghi chiêm bái. Ngành vật lý hiện đại gọi
tên những sức mạnh vô hình vô ảnh nhưng có thể tiếp cận nhau giữa các đối thể
tự nhiên và sinh thể ấy là những dạng năng lượng, là tần số, là sóng… Bản chất
của tôn giáo là tâm linh. Tôn giáo không có cầu nguyện thì chỉ còn là một hệ
thống triết lý hay lý thuyết trong tư duy hay sách vở mà thôi.
Một số các nhà
Phật học cận đại thì lại có khuynh hướng lý giải sự cầu nguyện theo hướng “tâm
lý ứng dụng” rằng: Cầu nguyện Phật, Bồ tát là đem tâm thành để khơi dậy tự tánh
Phật và Bồ tát của chính mình. Khi đảnh lễ cầu nguyện là tâm mở ra để quay về tự
tánh như “tự tánh Quán Thế Âm, tự tánh Di Đà…” để tìm cứu khổ và vãng sanh
ngay trong trái tim và tri thức của chính mình.
Nếu thư giãn một
chút – chớ vội biến phàm qua thánh – thì có lẽ nên thành thật nói với nhau rằng:
Khi cúi đầu đảnh lễ trước Phật đài hay dốc tâm cầu nguyện trong cơn nguy biến,
mấy ai trong chúng ta có được “thượng căn, thượng trí” để tìm cầu Phật hay Bồ tát
ngay trong bản tâm sâu thẳm của mình. Khi thành tâm cầu nguyện, hầu hết ai cũng
muốn tìm đến một đối tượng thiêng liêng, một năng lực siêu phàm ghi nhận và tiếp
độ cho lời cầu khấn của mình. Vậy nên, tôn giáo là tôn giáo, khoa học là khoa học,
triết lý là triết lý; chớ nên nhập nhằng và vất vả đi tìm một sự “hội tụ” khiên
cưỡng không cùng mẫu số mà làm gì.
Nếu tu hành mà không
gieo duyên, giải nghiệp được và kiếp sống đời nầy chỉ có thọ nghiệp “tự động và
vô điều kiện” theo cái lý nhân quả máy móc như “khẩu súng bóp cò là nổ” thì đạo
Phật chẳng có lý do xuất hiện giữa chốn Ta Bà nầy. Nếu nhân nào quả nấy không
có đường hóa giải thì làm sao một bạo chúa của nửa đời trước như A Dục Vương
lại trở thành Hộ Pháp Đại Vương trong nửa đời sau và bao nhiêu nhân vật lịch sử
cải tà quy chánh “đồ tể buông dao thành Phật” trong lịch sử hóa độ chúng sinh
của đạo Phật.
Đường về xứ Phật là tâm đạo
Theo viện thống
kê hàng đầu của Mỹ, PEW 2012, thì toàn thế giới có 4200 tôn giáo. Trong đó chỉ
có 2 tôn giáo, Phật giáo và Lão giáo (Taoism), được xem là “tôn giáo ngoài quy ước” (irreligious) vì không tin có một đấng
Sáng Thế Uyên Nguyên, Thượng Đế hay Ông Trời. Thú vị hơn nữa là đạo Phật đang
được (hay bị) xem là (1) “hội tụ” với
khoa học hiện đại, (2) là một hệ thống triết lý vô thần, (3) là một hệ thống
tôn giáo đa thần với hằng hà sa số chư Phật và Bồ Tát, (4) là một cổ xe con tự
lực tự độ, (5) là một cỗ xe nhớn nương vào tha lực độ tha, (6) là một siêu tôn
giáo khi tách bến phàm trần nhập vào thể tánh… và ui chao, nhiều nhiều
không kể xiết!
Vì Phật giáo
phong phú và đa dạng đến như thế, nên dẫu ồn ào hay thầm lặng, nhưng lúc nào
cũng có hiện tượng bồ tát Thường Bất Khinh và bồ tát Nghịch Hạnh xuất hiện dưới
muôn hình muôn vẻ giữa cuộc đời thường. Đó là những bóng mây bay thoáng qua
trên đường về xứ Phật.
Từ ngàn xưa,
hiểu rõ thực trạng nầy nên đức Phật đã dạy “Tự mình thắp đuốc” để thấy rõ được
mình trong mối tương quan đồng hành trên đường đạo.
Tiếng
nói rổn rãng bên ngoài không quan trọng bằng tiếng nói lao xao bên trong.
Chớ để cho tiếng nói nào to hơn
pháp âm rỗng lặng. Trên đường về xứ Phật, nếu chưa thấy rõ nhau thì ráng nhìn
rõ nhau hơn qua chân dung đức Phật vẫn lặng lẽ trầm tư trong cơn đại định suốt
mấy nghìn năm.
Sacramento, tiết vào Thu 2012
Trần
Kiêm Đoàn
[1]
http://yume.vn/binhan26901/article/duong-ve-xu-phat-tron-bo-10-tap.35D12B0C.html
[2]
http://metintrongphatgiao.blogspot.com/2010/10/muc-lien-thanh-e.html
[3]
http://www.trankiemdoan.net/van/truyendai/truyendai.html
Xem thêm bài liên quan: (bài mới)
NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG 8
ĐIỆU SỐNG GIỮA ĐƯỜNG
Trần Kiêm Đoàn
Discussion about this post