BÌNH ĐẲNG GIỚI và TRAO QUYỀN CHO NỮ GIỚI
TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
(Gender Equality and the Empowerment of Women
in Theravada Buddhism)
Tác giả: Ajahn Brahm
Việt dịch: Trần Như Mai
Bản tin của Buddhist Channel (25/5/14 ) : Cổ động cho việc ‘ Phát triển bình đẳng giới và trao quyền cho nữ giới ’ là mục tiêu thứ 3 trong 8 Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ do Liên Hiệp Quốc công bố, và được Hội Đồng Phật Giáo Úc Châu Liên Bang (Federation of Australian Buddhist Councils = FABC) mạnh mẽ ủng hộ. Một trong những vị cao tăng của Úc, ngài Ajahn Brahm, được Việt Nam mời đọc tham luận về “ Bình Đẳng Giới và Trao Quyền cho Nữ Giới ” tại đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam vào tháng 5 , 2014. Thật không may là Ajahn Brahm đã không được phép trình bày bài tham luận này do một lệnh cấm từ Ban Tổ Chức UN Vesak áp đặt chỉ một ngày trước khi hội nghị bắt đầu. Bài tham luận của Ajahn Brahm đã được Ban Tổ Chức Hội Nghị chấp thuận nhiều tháng trước khi hội nghị diễn ra. Hội Đồng Phật Giáo Úc Châu Liên Bang rất thất vọng khi bị bỏ qua cơ hội này để cổ động cho vấn đề quan trọng về bình đẳng giới tại một sự kiện Phật Giáo quốc tế đón mừng ngày lễ trọng đại nhất của Phật lịch. Bài phát biểu của Ajahn Brahm trình bày một luận điểm vững chắc về việc truyền đại giới Tỳ-kheo-ni trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, được hổ trợ bằng những tham khảo trích dẫn từ lời dạy của Đức Phật và những qui định trong Luật Tạng về việc điều hành sinh hoạt Giáo đoàn Phật giáo. |
Dẫn Nhập :
Vào ngày 1 tháng 12 năm 1955, ở thành phố Montgomery thuộc tiểu bang Alabama, một phụ nữ người Mỹ gốc Phi châu đã từ chối lệnh của người tài xế xe buýt bảo bà phải nhường chỗ ngồi của mình trên xe bus cho một hành khách da trắng. Hành động đơn giản bày tỏ thái độ bất tuân ấy vì mục đích công bằng xã hội đã trở thành một trong những biểu tượng quan trọng nhất của Phong Trào Dân Quyền hiện đại ở Hoa Kỳ. Người phụ nữ ấy là Rosa Parks. Quốc Hội Hoa Kỳ đã gọi bà là “ đệ nhất phu nhân của dân quyền ” và là “ bà mẹ của phong trào tự do ”. Ngày 1 tháng 12 được tưởng niệm ở các tiểu bang California và Ohio của Mỹ như là “Ngày Rosa Parks ”. Rosa Parks đã trở thành một Phật tử trước khi bà qua đời vào năm 2005 ở tuổi 92. Người ta có thể suy đoán rằng biểu tượng phụ nữ chống kỳ thị chủng tộc này đã chọn Phật Giáo bởi vì tôn giáo này rất thích hợp đế xúc tiến các vấn đề công bằng xã hội.
Trong bài tham luận này, tôi sẽ thảo luận bằng cách nào Phật giáo có thể xúc tiến vấn đề công bằng xã hội đặc biệt đối với Mục Tiêu Thứ Ba (MTT3) trong Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ của Liên Hiệp Quốc (LHQ) , qua đề tài : Bình Đẳng Giới và Trao Quyền Cho Nữ Giới. Tôi sẽ hướng trọng tâm vào giới lãnh đạo tăng đoàn hiên tại của Phật giáo Nguyên Thủy về nhu cầu cần bày tỏ rõ ràng sự cam kết của chính họ đối với MTT3 của Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ LHQ thông qua sự công nhận việc truyền đại giới Tỳ-kheo ni . Chỉ lúc đó tăng đoàn mới có thể sử dụng ảnh hưởng lớn lao của họ để làm cho thế giới chúng ta công bằng hơn, một thế giới trong đó con người được đánh giá bởi nhân cách của họ chứ không phải bởi giới tính.
Bất Bình Đẳng Giới ở Úc và Những Đóng Góp của Các Vị Lãnh Đạo Phật Giáo
Trong bản phúc trình về bình đẳng giới do Hội đồng Chính Phủ Úc ban hành vào ngày Thứ Ba, 19 tháng 11 năm 2011, người ta thấy mức lương trung bình của nữ sinh viên mới tốt nghiệp đại học ở Úc thấp hơn 10% so với nam sinh viên. Mặc dù họ có trình độ đạt tiêu chuẩn ngang nhau, phái nữ nhận lương ít hơn phái nam. Như vậy, trong một quốc gia phát triển như nước Úc, bất bình đẳng giới tính vẫn còn tồn tại. Trong những nước kém phát triển hơn, vấn đề này tệ hại hơn nhiều.
Người đồng nghiệp của tôi là Ajahn Sujato, vừa qua đã tham dự Nghi Viện Các Tôn Giáo vì Hòa Bình Thế Giới ở Vienna, do chính phủ Saudi Arabi tài trợ. Sư Sujato đã tường thuật lại trong blog của mình : “ Một chủ tọa đoàn được dành trọn để thảo luận vấn đề vai trò của nữ giới trong tôn giáo, và như có thể tiên đoán được, việc này gây ấn tượng mạnh mẽ và xúc động. Nạn hiếp dâm, bạo lực trong gia đình, buôn bán phụ nữ , ép buộc bán dâm, tử vong vì sinh sản: đó là những thực tại quá đau đớn đối với nhiều phụ nữ; trong lúc đó đạo đức tôn giáo do nam giới thống trị lại cứ bị ám ảnh về vấn đề giáo lý chính xác và ngăn chận đồng tính luyến ái. Những khổ đau của phụ nữ hiếm khi được mô tả trong các bài thuyết giảng tôn giáo, và như một trong những đại biểu đã nói, khi vấn đề đó được đề cập nó thường tẻ nhạt và mơ hồ. Tuy nhiên, như những ai đang hoạt động trong vấn đề phát triển đất nước đều biết rõ, trao quyền cho nữ giới là phương tiện duy nhất có hiệu quả để các quốc gia thoát khỏi đói nghèo.”
Là những Phật tử ủng hộ lý tưởng từ bi vô điều kiên và tôn trọng con người, đánh giá con người theo cách hành xử của họ chứ không phải theo nguồn gốc họ sinh ra, chúng ta phải chuẩn bị tốt vị thế của mình để chứng tỏ tài lãnh đạo của chúng ta vể vấn đề phát triển bình đẳng giới trong thế giới hiện đại và đem lại kết quả là giảm thiểu nỗi thống khổ cho một nửa dân số trên thế giới này. Hơn nữa, nếu Phật giáo cần phải duy trì tính chất thích hợp với thời đại và phát triển, thì chúng ta phải đối đầu trực tiếp để giải quyết những vấn đề này. Nhưng làm sao chúng ta có thể bàn về vấn đề bình đẳng giới trong khi một số trong những tổ chức Phật giáo Nguyên Thủy vẫn còn phân biệt giới tính ?
Ở Úc, Giáo hội Cơ Đốc Anh đại diện cho 17.1% dân số ( theo Thống kê 2011) và vẫn duy trì tính chất hợp thời của họ bằng cách chấp nhận tấn phong nữ giám mục. Vào tháng 5 năm 2008, ở Perth, tôi được mời tham dự lễ thụ phong vị nữ giám mục đầu tiên trên thế giới của Giáo Hội Cơ Đốc Anh, đó là Giám mục Kay Goldsworthy. Giới truyền thông đã đáp ứng vô cùng tích cực đối với việc công nhận phụ nữ trong Giáo hội Cơ Đốc Anh. Những bước tiên phong như vậy đã tỏa sáng làm lộ rõ sự nổi bật đáng chê trách của các tôn giáo khác ở Úc vốn vẫn còn phân biệt đối xử dựa trên căn bản giới tính. Nhưng việc này lại tỏa ánh sáng tích cực vào Phật Giáo Nguyên Thủy ở Perth hiện đã có chư ni được thọ đại giới Tỳ-kheo-ni.
Thật không may là những chùa chiền tu viện Phật Giáo Nguyên Thủy khác ở Úc và ở các nơi khác trên thế giới vẫn còn giữ chặt không cho phép ni chúng được thọ đại giới để làm thành viên chính thức của Giáo đoàn. Tôi sẽ tranh luận về sau rằng không có một căn bản giới luật nào trong Luật Tạng, là Bộ Giới Bổn nguyên thủy của Phật Giáo, phủ nhận quyền được thọ đại giới của ni chúng. Hơn nữa, khi một số thành phần của Phật Giáo Nguyên Thủy nói chung vẫn được xem là đã ngăn cản một cách không hợp lý việc thọ đại giới của ni chúng, thì họ không có thẩm quyền đạo đức để bàn về bình đảng giới. Họ đã đánh mất cơ hội bàn về việc trao quyền cho nữ giới trong các lãnh vực khác của xã hội và xúc tiến Mục Tiêu Thứ Ba của Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ .
Khi Mahatma Gandhi còn là một sinh viên luật ở London, bà chủ nhà trọ của anh yêu cầu anh nói chuyện với con trai bà. Con trai bà ăn quá nhiều đường và không muốn nghe lời mẹ khi bà bảo cậu ấy ngưng ăn đường. Tuy nhiên, cậu ấy lại mến thích anh thanh niên Gandhi. Bà gợi ý là nếu anh Gandhi khuyên bảo con trai bà đừng ăn quá nhiều đường như thế, thì chắc là cậu ta sẽ nghe theo lời khuyên tốt đẹp ấy. Một hai tuần lễ trôi qua và cậu con trai bà chủ nhà trọ vẫn tiếp tuc ăn rất nhiều đường. Vì thế bà ấy đến gặp riêng anh Gandhi và hỏi anh tại sao anh không giữ lời hứa là sẽ nói chuyện với con trai bà. Anh Gandhi trả lời “Tôi đã nói chuyện với con trai bà, nhưng chỉ mới nói sáng nay.” – “ Vậy thì tại sao anh phải chờ lâu đến thế ? -“ Vì tôi cũng chỉ mới từ bỏ ăn đường ngày hôm qua”. Đó là câu trả lời của một người đàn ông vĩ đại.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo, hơn ai hết, phải thực hành những gì họ thuyết giảng một cách nghiêm túc để cho lời khuyên của họ có hiệu quả.
Quyền Lực của Lãnh Đạo bằng cách Nêu Gương
Theo những số liệu mới nhất của Trang Mạng Wikipedia, có khoảng từ 506 triệu đến 1,146 triệu tín đồ Phật Giáo trên thế giới. Ngay cả với con số ước lượng thấp nhất thì đó cũng là một tỷ lệ đáng kể của dân số toàn cầu. Đại đa số những tín đồ đó nhìn vào các vị tăng sĩ và lạt-ma để tìm nguồn cảm hứng, hướng dẫn và lãnh đạo tâm linh. Hơn nữa, nhiều người trong số những Phật tử đó đang sống ở các quốc gia kém phát triển hay đang phát triển, nơi mà việc trao quyền cho nữ giới là rất quan trọng cho việc phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của các quốc gia đó. Trong một thế giới được kết nối rất nhanh như ngày nay, lời nói chưa đủ. Cần phải hành động.
Ni Sư Chứng Nghiêm (Cheng Yen), người phụ nữ sáng lập Tổ Chức Từ Tế Quốc tế (International Tzu Chi Foundation), là một gương mẫu về quyền lực của một Ni Sư Phật Giáo. Ni Sư thọ đại giới ở Đài Loan vào năm 1962, vào thời điểm mà nữ giới có rất ít ảnh hưởng trong chính sách xã hội; ngày nay Ni sư được xem là một biểu tượng nổi bật trên khắp quê hương của bà cũng như trên trường quốc tế. Ni sư đã xây dựng những bệnh viện tối tân nhất có khả năng chống động đất ở Đài Loan năm 1962, dẫn đầu trong việc khuyến khích tái chế rác thải trong đất nước của ni sư, và thiết lập Tổ Chức Cứu Trợ Phật Giáo lớn nhất thế giới. Khi tôi viếng thăm Từ Tế Công Đức Hội ở Đài Loan vào tháng 5 năm 2013, tôi được nhân viên trình bày cho thấy làm cách nào những chai nhựa phế thải được chế biến thành những tấm mền để gởi đến cứu trợ các vùng bị thiên tai, như những vùng bị trận bão Haiyan tàn phá ở Philippines. Phần lớn việc này do những ông bà hưu trí thực hiện, những người đã tìm được ý nghĩa cuộc sống của họ khi cùng làm việc với nhau và nhận được rất nhiều lợi lạc về mặt tình cảm và sức khỏe từ những hoạt động xã hội như thế đem lại cho họ. Họ đang vui hưởng cuộc sống trong những năm cuối cùng của đời mình thay vì lãng phí thời gian nếu chỉ ở nhà. Không có nhà sư hay lat-ma nào đã làm việc gì tương tự có thể so sánh được.
Để Phật Giáo phát triển trong thế giới chúng ta, chúng ta cần hành động nhiều hơn là chỉ dạy thiền, thuyết giảng các bài pháp đầy hứng khởi, hay làm cho kinh điển được tiếp cận dễ dàng trên mạng Internet. Chúng ta rất giỏi nghiên cứu, xuất bản và truyền bá Phật pháp. Những gì chúng ta chưa được thành công lắm là việc bày tỏ lòng từ bi và vị tha của Giáo Pháp bằng những hành động của chúng ta. Chúng ta đã viết rất nhiều trong sách của chúng ta hơn là nói vài lời tử tế với những người nghèo, đơn độc và tuyệt vọng. Chúng ta đã xây nhiều chùa hơn các cô nhi viện.
Nữ Giới Lãnh Đạo trong các Quốc Gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy
Tích Lan (Sri Lanka) một quốc gia đa số dân chúng theo Phật giáo Nguyên Thủy, có thể hãnh diện là đã có nữ Thủ Tướng đầu tiên trên thế giới hiện đại, Bà Sirimavo Bandaranaik, vào năm 1960. Miến Điện (Myanmar) đáng lẽ đã có vị lãnh đạo chính phủ phái nữ đầu tiên vào năm 1990 khi Bà Aung San Su Kyi và đảng Liên Minh Quốc Gia Vì Dân Chủ ( National League for Democracy = NLD) của bà đã dành được 59% số phiếu phổ thông trong cuộc tổng tuyển cử toàn quốc, nhưng kết quả đã không được chấp nhận. Năm 2013, Thái Lan đã bầu vị nữ Thủ Tướng đầu tiên của họ là bà Yingluk Shinawatara.
Điều này chứng tỏ rằng cư sĩ Phật Giáo Nguyên thủy có thể chấp nhận phụ nữ trong vai trò lãnh đạo, tại sao Tăng đoàn lại không thể làm như vậy ?
Truyền Thống
Nói chung, các tăng sĩ Phật Giáo Nguyên Thủy rất bảo thủ. Họ thường tuyên bố rằng họ là những người bảo hộ của “ Phật Giáo Nguyên Thủy cổ xưa “ từ thời Đức Phật. Họ cho rằng một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của họ là bảo tồn những giáo pháp đầu tiên quý báu và đích thực ấy. Trong bối cảnh này, những gì là truyền thống vào thời Đức Phật đối với vấn đề nữ giới trong Giáo Đoàn ?
Mọi tăng sĩ thuộc mọi truyền thống trong mọi quốc gia, cũng như tất cả những cư sĩ học giả Phật học, đều hoàn toàn chấp nhận rằng đã có những phụ nữ được thọ đại giới, gọi là Tỳ-kheo-ni, vào thời Đức Phật còn tại thế. Hơn nữa, điều này đã được khẳng định trong những bài thuyết giảng xưa cổ đầu tiên rằng một trong những mục tiêu của sứ mạng Đức Phật là ban cho phụ nữ quyền được thọ đại giới:
Này Ananda, một thời ta đang ở tại Uruvela trên bờ sông Ni-Liên-Thuyền (Neranjana) ( hiện nay là Bodh Gaya), dưới gốc cây Bồ đề ( Goatherd’s Banyan tree), khi ta mới thành đạo. Và lúc bấy giờ Ác ma đến chỗ ta ở, khi đến xong liền đứng một bên và nói : “ Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.”
Này Ananda, khi nghe như vậy, ta nói với Ác ma:” Này Ác ma, ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của ta chưa thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy Pháp; sau khi học hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu.”( Kinh Mahaparinibbana Sutta / Đại Bát Niết Bàn – Trường Bộ Kinh – bản dịch tiếng Việt của HT Thích Minh Châu)
Phật giáo Nguyên Thủy được thuận lợi hơn những tôn giáo lớn khác trên thế giới bởi vì truyền thống của họ đã công khai ban quyền bình đẳng ấy cho nữ giới. Thiên Chúa giáo không có truyền thống bình đẳng giới trong các chức vụ giáo sĩ. Hồi Giáo, Do Thái Giáo hay nhiều trường phái khác nhau của Ấn Giáo cũng không có truyền thống này. Phật giáo đứng tách biệt và đi trước thời đại của họ khi ban cho phụ nữ địa vị bình đẳng ấy kể từ “ khi Ta (Đức Phật ) vừa mới chứng đắc giác ngộ tối thượng” ở Bồ Đề Đạo Tràng.
Như vậy, việc truyền đại giới cho phụ nữ là một phần của truyền thống cổ xưa nhất. Đó cũng là ước vọng đã được tuyên bố của Đức Phật.
Những Trở Ngại về Vấn Đề Bình Đẳng Giới trong Giáo Đoàn Nguyên Thủy
Có hai trở ngại chính về việc chấp nhận truyền đại giới Tỳ-kheo-ni trong Phật giáo Nguyên Thủy :
1) Không hiểu biết về việc ai có quyền đưa ra những quyết định điều hành Giáo đoàn.
2) Không hiểu biết về Luật Tạng, là các luật lệ do Đức Phật thiết lập để giới hạn những quyết định nào có thể được hình thành.
Nhiều tăng sĩ Thái lan lập luận rằng một điều luật của quy chế Tăng Già Thái Lan năm 1928 ngăn cấm việc truyền giới cho tu nữ :
Thông Báo
“ Không cho phép bất cứ Tỳ kheo nào truyền giới xuất gia cho phụ nữ.
Bất cứ phụ nữ nào có nguyện vọng được xuất gia như một Sa-di-ni, theo đúng sự chấp thuận của Đức Phật, phải được truyền giới từ một Tỳ-kheo-ni đã thọ đầy đủ đại giới . Đức Phật đã thiết lập qui định rằng chỉ có một Tỳ-kheo-ni đã trải qua hơn 12 tuổi hạ (Vassas ) mới được quyền làm Giáo Thọ (Preceptor).
Đức Phật không cho phép một Tỳ kheo làm Giáo Thọ trong lễ truyền giới này. Thật không may, dòng truyền thừa Tỳ-kheo-ni từ đó đã phai nhạt và mất hẳn. Kể từ đó, không còn Tỳ-kheo-ni thọ đầy đủ đại giới để tiếp tục dòng truyền thừa, do đó không còn Sa-di-ni nào được truyền giới đúng pháp từ một vị Tỳ-kheo-ni đã thọ đầy đủ đại giới.
Như vậy, cả dòng truyền thừa Tỳ-kheo-ni lẫn Sa-di-ni đều đã chấm dứt. Vì thế, bất cứ Tỳ kheo nào truyền giới cho một phụ nữ trở thành Sa-di-ni, có thể nói là vị Tỳ kheo đó không hành xử đúng theo pháp chế Đức Phật đã ban hành. Điểm cốt lõi là vị Tỳ kheo ấy đang làm theo đường lối của chính mình và tách rời khỏi đường lối hướng dẫn Đức Phật đã thiết lập. Đây là điều sẽ gây nguy hại cho Phật giáo và không phải là một tấm gương tốt cho những Tỳ kheo khác.”
Vì vậy, tất cả tăng chúng và các chú tiểu tập sự thuộc cả hai tông phái Nikayas bị cấm không được truyền giới cho bất cứ phụ nữ nào như là Tỳ-kheo-ni ( Bikkhuni), Thức-xoa-ma-ni (Sikkhamana) hay Sa-di-ni( Samenera) kể từ ngày này trở đi ”.
Phra Bancha Somdet Pra Sangharacha Jiao Gromluang Jinawarn Siriwad ( ngày18 tháng 6, PL 2471)
( Đây là thông báo chính thức trích từ Biên Bản Buổi Họp của Hội Đồng Tăng Già Thái Lan , Quyển số 16, trang 157)
Ghi nhận tính chất lỗi thời của điều luật này cũng như cần vạch rõ rằng Hội ĐồngTăng Già Thái Lan, cùng với Hội Đồng Trưởng Lão Thái Lan (Mahatherasamakom ), theo quy chế ràng buộc họ về mặt pháp lý , chỉ được phép điều hành những vấn đề trực tiếp liên hệ đến tăng chúng và các chú tiểu tập sự thuộc hai tông phái chính của Thái là Mahanikaya và Dhammayuttanikaya. Về mặt pháp lý họ không được trao quyền điều hành công việc của các tông phái khác, như chư tăng thuộc Bắc Tông Trung quốc ở Thái Lan, hay ni chúng. Đối với chư tăng có thiện chí muốn chờ đợi Hội Đồng Trưởng Lão quyết định tính hợp pháp của Tỳ-kheo-ni Nguyên Thủy, họ sẽ phải chờ đợi mãi mãi. Về mặt pháp lý, Hội Đồng Trưởng Lão Thái không được quyền điều hành những vấn đề vượt qua quyền hạn của họ.
Như cố Trưởng lão Somdet Phra Pootajarn, là vị đảm nhiệm chức vụ quyền lãnh đạo của Hội Đồng Trưởng Lão Thái lúc đó, đã nói với tôi vào năm 2009 liên quan đến vấn đề truyền đại giới Tỳ-kheo-ni : “ Luật pháp Thái Lan không thể áp dụng bên ngoài nước Thái ”. Điểm cốt lõi là Tăng Già Thái Lan không thể điều hành những tăng sự của Giáo Đoàn ở Sri Lanka hay ở Úc.
Thật vậy, Đức Phật đã quy định rằng tất cả quy chế tăng sự ( Sanghakamma), như là truyền đại giới Tỳ-kheo-ni, phải do cộng đồng Phật giáo địa phương quyết định, được định nghĩa như là những vị tăng ni trong cùng một biên cương đạo tràng. Quyết định hay ý kiến của những hội chúng khác không có hiệu lực. Việc quản trị Giáo đoàn được ban cho mỗi hội chúng. Đây là qui luật của Đức Phật.
Tuy nhiên, mỗi hội chúng đều bắt buộc phải hành động trong phạm vi những điều luật gọi là Luật Tạng. Như vậy những điều luật đó có phải là một trở ngại cho việc truyền thọ đại giới Tỳ-kheo-ni ?
Quy chế Tăng già Thái lan năm 1928 đưa ra điều luật rằng một Tỳ kheo tăng không được truyền giới cho một Tỳ-kheo-ni, bởi vì cần phải có những Tỳ-kheo-ni khác truyền giới cho một tỳ-kheo-ni. Đây là điểm gây bất đồng ý kiến. Trong một bài báo xuất bản gần đây nhan đề “ Việc Phục Hoạt Giáo Đoàn Tỳ-kheo-ni và sự Suy Tàn của Giáo Pháp ” do một vị Tỳ kheo học giả Phật học nổi tiếng là Bhikkhu Analayo ( trong Đặc san Đạo Đức học Phật Giáo (Journal of Buddhist Ethics), tập 20- 2013, có thể đọc trên Mạng Internet ở địa chỉ http://blogs.dickinson.edu/buddhistethics/files/2013/09/Analayo-Legality-final.pdf ), tác giả lập luận rằng việc truyền đại giới Tỳ-kheo-ni là hợp pháp. Nói tóm tắt, Tỳ kheo Analayo lập luận rằng trước tiên Đức Phật ban cho các Tỳ-kheo-tăng quyền truyền giới cho Tỳ-kheo-ni. Sau đó, Đức Phật ban cho các Tỳ-kheo-ni được thọ đại giới trong một giới đàn do nhị bộ tăng ni thực hiện; trước tiên là trong một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, và sau đó là trong một Giáo đoàn Tỳ-kheo-tăng. Tuy nhiên, ngược lại với lịch sử của việc truyền đại giới Tỳ-kheo-tăng, theo đó người ta tìm thấy rằng bất cứ khi nào Đức Phật cho phép có một lễ truyền giới mới, thì nghi thức truyền giới trước đó bị bãi bỏ ngay tức khắc, Đức Phật đã không hủy bỏ nghi thức truyến đại giới Tỳ-kheo-ni do Tỳ-kheo-tăng thực hiện lúc ban đầu. Nguyên tắc chung của Phật Giáo Nguyên Thủy là “ Không hủy bỏ những gì đã được Đức Phật chính thức cho phép” ( một trong bảy nguyên nhân để Phật giáo trường tồn – Tăng Chi Bộ Kinh 7, 23). Như vậy, đây là một luận điểm mạnh mẽ về tính hợp pháp của đại giới đàn Tỳ-kheo-ni chỉ do Tỳ-kheo-tăng truyền giới mà thôi.
Nhìn chung mọi người đều xem đại giới đàn Tỳ-kheo-ni đầu tiền trong thời hiện đại là giới đàn đã được tổ chức vào năm 1998 ở Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là đại giới đàn do nhị bộ tăng ni thực hiện, trước tiên do các vị Tỳ-kheo-ni Trung quốc theo Giới Luật“ Pháp Tạng Bộ” (Dharmagupta) truyền giới, và sau đó là do một Giáo đoàn Tỳ-kheo-tăng Nguyên Thủy quốc tế truyền giới. Việc này có hợp pháp không ?
Có bốn cách, và chỉ bốn cách mà thôi, để một giới đàn được đánh giá là bất hợp pháp :
1) Simavipatti: khi có một vị tăng hay ni trong cùng một giới tràng, phải hiện diện, nhưng đã vắng mặt.
2) Parisavipatti: Khi không có đủ túc số Giới sư.
3) Vatthuvipatti: (để truyền giới) khi một ứng viên không đạt tiêu chuẩn để thọ giới, chẳng hạn như là chưa đủ tuổi.
4) Kammavacavipatti: khi nghi thức xướng lễ không đúng qui định, ví dụ như một lễ truyền giới không được tác pháp và ba lần yết ma.
Đối với giới đàn ở Bồ Đề Đạo Tràng, không có gì phải nghi ngờ vì :
- Tất cả tăng ni trong giới tràng đều hiện diện.
- Tất cả ứng viên đều đạt tiêu chuẩn (để thọ đại giới). và
- Nghi thức xướng lễ đúng pháp.
Nhưng có đủ túc số giới sư không? Chư Ni Đại Thừa có đạt tiêu chuẩn để làm giới sư không?
Không có bằng chứng hợp lý nào để nghi ngờ rằng các Tỳ-kheo-ni thực hành nghi thức giới đàn ở Bồ Đề Đạo Tràng không phải là những Tỳ-kheo-ni hợp pháp. Các văn kiện lưu trữ chứng minh rằng dòng truyền thừa của họ xuất phát từ Tích Lan. Nghi thức truyền đại giới của họ không thiếu bất cứ điều kiện nào trong bốn điều kiện nêu trên. Chư Tỳ-kheo-ni này đã thực hiện nghi lễ với tất cả tăng ni đều hiện diện đầy đủ trong giới tràng ( mà họ gọi là ‘ giới đàn’ ). Luôn luôn có đầy đủ túc số giới sư. Các vị này bảo đảm rằng ứng viên đạt tiêu chuẩn để thọ giới. Và nghi lễ được tác pháp và ba lần yết ma giống như trong Phật Giáo Nguyên Thủy, cho dù họ xướng tụng bằng tiếng Hoa. Chư ni này là Tỳ-kheo-ni đúng theo Luật Tạng và họ có quyền truyền giới cho các tỳ-kheo-ni khác.
Nhưng còn vấn đề túc số giới sư của tông phái Đại Thừa truyền giới cho chư ni thuộc tông phái khác ( Nguyên Thủy ) ?
Các Tông Phái trong Phật Giáo
Các tông phái khác nhau của Phật giáo Nguyên Thủy được gọi là “nanasamvasa” trong Luật Tạng. Họ là những hội chúng riêng biệt thực hiện những luật lệ điều hành của riêng họ (Sanghakamma =Nội qui Tăng sự), ngay cả trong cùng một biên cương đạo tràng. Luật Tạng xác định rằng chỉ có hai căn nguyên phát sinh các hội chúng riêng biệt (nanasamvasabhumi- Vinaya Mahavagga, Chương 10, câu 1.10):
- Một vị tăng tự quyết định mình thuộc về một hội chúng riêng biệt với các hội chúng khác. Hoặc là ,
- Giáo đoàn bắt buộc một vị tăng ra khỏi hội chúng bằng cách áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo luật Tỳ Kheo Ukkepaniyakamma ( trục xuất một vị tăng phạm giới) bằng cách tác pháp và ba lần yết ma.
Nguyên nhân thứ hai để tách riêng hội chúng không còn áp dụng ngày nay. Như vậy chỉ còn nguyên nhân thứ nhất, đó là do sự chọn lưa cá nhân. Nói một cách đơn giản, theo Luật Tạng, một vị tăng được phép lựa chọn thi hành Nội qui Tăng sự (Sanghakamma) với bất cứ tăng đoàn nào mà vị ấy cảm thấy thích hợp. Không có một trở ngại pháp lý nào ngăn cấm một vị tăng Nguyên Thủy thi hành Nội Qui Tăng Sự với một Tỳ kheo Đại Thừa. Thật vậy, có thể nói một cách chính xác rằng không có Tỳ-kheo Nguyên Thủy hay Đại Thừa, theo Luật Tạng, chỉ có những Tỳ-kheo tùy duyên theo nghi thức Nguyên Thủy hay Đại thừa. Như vậy, một vị tăng đã thọ giới theo nghi lễ Nguyên Thủy có thể gia nhập vào một tu viện Đại Thừa mà không cần phài làm lễ thọ giới lại.
Như vậy, theo Luật Tạng, các Tỳ-kheo-ni Đại Thừa có thể thực hiện phần đầu của nghi thức truyền đại giới cho một vị tân Tỳ-kheo-ni, và sau đó vị tân Tỳ-kheo-ni có thể tiến hành phần thứ hai với chư tăng Nguyên Thủy, theo nghi lễ truyền đại giới do nhị bộ tăng ni thực hiện,. Đây là những gì đã xảy ra ở Bồ Đề Đạo Tràng. Không có lập luận hợp lý nào dựa trên Luật Tạng để vô hiệu hóa việc truyền thọ đại giới này. Và các Tỳ-kheo-ni thọ giới ở Bồ Đề Đạo Tràng thuộc về tông phái nào ? Tùy quý vị ấy lựa chọn !
Giới Đàn Tỳ-kheo-ni ở Perth năm 2009
Một khi đã có Tỳ-kheo-ni Nguyên Thủy thì việc tổ chức truyền đại giới cho bốn vị tu nữ trở thành Tỳ-kheo-ni ở Perth tương đối dễ dàng. Mặc dù vào thời điểm đó việc này cũng tạo nên một số rắc rối, bây giờ thì tất cả những vị Tỳ-kheo-ni được thọ đại giới đều đã được công nhận là Tỳ-kheo-ni theo đúng Luật Tạng. Như một câu danh ngôn xưa đã nói: “ Người ta không thể làm món trứng chiên mà không đập vỡ trứng ”.
Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đang phát triển. Ở Perth, Ni viện Dammasara hiện tại có 11 thành viên của Ni Đoàn cùng với một danh sách ghi tên chờ đợi của phụ nữ khắp thế mong muốn được thọ giới. Mới đây, kênh Truyền hình Thái đã thăm viếng Ni Viện và phỏng vấn các Tỳ-kheo-ni. Ở Thái Lan có khoảng 100 Tỳ-kheo-ni (Theo Murray Hunter, ANU, 2/1/2014) và Tích Lan có khoảng 800 Tỳ-kheo-ni (Theo báo The Sunday Leader, Sri Lanka, 3 March 2013). Họ có thể không được tất cả chư tăng tôn trọng, nhưng họ đang được cộng đồng cư sĩ Phật tử kính trọng hơn bao giờ hết, nhất là trong các nước Tây phương. Chư Tỳ-kheo-ni ở Perth đang giảng pháp và dạy hành thiền. Chư ni đang giữ đúng vị trí của họ trong tứ chúng đồng tu của Phật giáo như Đức Phật mong muốn. Họ đang nhận được sự hổ trợ rộng lớn.
Đối với Giới Lãnh Đạo Phật Giáo Nguyên Thủy Hiện Nay Có Nhu Cầu Cần Chấp Thuận Giới Đàn Tỳ-kheo-ni
Có lẽ cũng đáng cho chư tăng Thái lan quan tâm khi biết rằng vị Giới sư tại giới đàn Tỳ-kheo-ni ở Perth, là Sư cô Ayya Tathhaloka, đã thăm viếng Ngài Trưởng Lão Ajahn Maha Boowa tại Chùa Wat Bahn That ở Udon chỉ một thời gian ngắn trước khi có giới đàn Tỳ-kheo-ni ở Perth. Ngài Ajahn Boowa đã mời sư cô nghỉ qua đêm trong khu vực ni xá, và đã công nhận giới phẩm của sư cô bằng cách mời sư cô lên ngồi trên sàng tọa cùng với chư tăng và giới thiệu sư cô là Tỳ-kheo-ni trước mặt Tăng Đoàn cùng với hội chúng cư sĩ .
Nhiều vị lãnh đạo uy quyền của Thái lan rất kính trọng Ngài Ajahn Boowa đến mức là sự kiện này có thể khuyến khích nhiều vị cao tăng khác chấp nhận sự hiện hữu của Tỳ-kheo-ni ở Thái lan. Sự chấp nhận của các vị tăng lãnh đạo sẽ đưa đến kết quả là địa vị của Tỳ-kheo-ni được giới cư sĩ Phật tử kính trọng nhiều hơn. Từ đó chư ni ấy sẽ được trao quyền lãnh đạo trong nhiều lãnh vực khác vì lợi lạc và tiến bộ của đất nước họ.
Sự Liên Quan của Giới Đàn Tỳ-kheo-ni đối với Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ Thứ Ba
Trong một bài tham luận được ấn hành gần đây của Emma Tomalin và Caroline Starkey (Bản tin báo Sakyadhita, Winter 2012), hai tác giả đã nghiên cứu tìm hiểu vai trò của Phật giáo Thái lan và Cambodia trong việc duy trì sự bất bình đẳng giới tính trong giáo dục và, “ cuối cùng hỏi rằng mối tương quan giữa việc tái khẳng định quyền được thọ đại giới theo truyền thống của phụ nữ và việc trao quyền cho nữ giới thông qua giáo dục là gì ? ”. Họ ghi nhận : “ Nhiều học giả, cả Thái lẫn Tây phương, đã gợi ý rằng Phật giáo là một yếu tố giải thích cho sự bất bình đẳng giới trong lịch sử, đặc biệt là ở những vùng nghèo nhất”. Và “ Nhiều người cổ xúy cho việc truyền thọ đại giới Tỳ-kheo-ni cho rằng có một sự liên quan trực tiếp giữa địa vị thấp kém của nữ giới trong nhiều truyền thống Phật giáo và địa vị thấp kém của phụ nữ trong các xã hội Phật giáo”.
Như vậy, bằng cách phục hồi sự bình đẳng cho nữ giới trong Giáo Đoàn Nguyên Thủy qua việc trao trả lại quyền được thọ đại giới Tỳ-kheo-ni, chúng ta sẽ giải quyết được địa vị thấp kém của phụ nữ trong nhiều nước theo Phật giáo Nguyên Thủy, cổ động cho quyền bình đẳng giới trong giáo dục, và như vậy, tạo được một tuyên ngôn mạnh mẽ để ủng hộ cho Mục Tiêu thứ Ba trong những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ của Liên Hiệp Quốc.
Bằng cách trước tiên sửa chữa lại ngôi nhà của chính chúng ta, chúng ta sẽ có cơ hội và thẩm quyền đạo đức rất lớn qua sách chúng ta viết và các bài thuyết pháp để khơi nguồn cảm hứng và khuyến khích tín đồ Phật giáo của chúng ta cùng hoạt động tiến tới bình đẳng giới trong những lãnh vực khác ngoài tôn giáo. Điều này sẽ đưa đến một thế giới bớt bạo động, lành mạnh hơn và thịnh vượng hơn.
Ajahn Brahm, Perth, Tháng Giêng 2014
XEM NGUYÊN VĂN BẢN ANH NGỮ:
http://thuvienhoasen_org.avcyber.net/p69a19423/gender-equality-and-the-empowerment-of-women-in-theravada-buddhism
BÀI ĐỌC THÊM:
Vấn Đề Phục Hồi Việc Thọ Đại Giới Tỳ-kheo-ni Trong Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy – Bhikkhu Bodhi – Việt Dịch: Trần Như Mai
Discussion about this post