DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 35
ĐỐT
VÀNG MÃ: MỘT
HỦ TỤC CẦN HUỶ BỎ
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả,
Trong
một dịp đi hành hương các chùa nhân dịp đầu năm, chúng
tôi có cơ hội chứng kiến việc đốt vàng mã để cúng lễ
tại các chùa đền khắp nước Việt Nam, điển hình, tại
lễ hội chùa Hương cảnh hai lò đốt vàng mã đặt tại Chùa
Thiên Trù và Động Hương Tích hoạt động không ngừng nghỉ,
đốt suốt ngày đêm mà không đáp ứng kịp nhu cầu của
người hành lễ. Nay trong một dịp dự tang lễ người
quen tại một nhà quàn ở thành phố Westminster Hoa Kỳ, chúng
tôi cũng chứng kiến việc đốt vàng mã cúng tế người quá
vãng. Thật không ngờ tục lệ này lại có thể được thực
hiện nơi một xứ được gọi là văn minh tiên tiến nhất
thế giới hiện nay. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi được
cho biết là ngay trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ
và một vài nước khác trên thế giới, vẫn còn việc đốt
sớ và vàng mã cho những người đã khuất nhân dịp họ cúng
giỗ và cầu siêu tại gia đình hay tại một số chùa.
Vì
có một số ít Phật tử cho rằng đốt vàng mã cúng người
chết giúp cho người sống được an tâm, nên trong buổi phát
thanh hôm nay, chúng tôi xin trình bày về nguồn gốc của tục
lệ đốt vàng mã và quan điểm của nhà Phật về việc này.
Thưa
quý thính giả,
Tục
lệ đốt vàng mã đã có từ lâu đời, đã bén rễ và ăn
sâu vào tâm thức của người dân Việt Nam. Nhiều người
cho tục lệ đó là một trong những nét đẹp văn hoá của
phong tục thờ cúng tổ tiên. Trong bất cứ dịp lễ nào,
từ ngày rằm, mùng một hàng tháng đến ngày Tết, ngày hoá
vàng, ngày cúng giỗ tổ tiên ông bà hay dọn nhà, giải hạn,
lập bàn thờ, bốc bát hương… đều phải có ít nhất vài
bó vàng tiền để đốt như là một sự gửi gắm và chăm
lo cho những người đã khuất có một cuộc sống sung túc
ở cõi âm, hoặc mong được thứ lỗi, hay có được sự thanh
thản trong tâm hồn. Với suy nghĩ, càng mua nhiều đồ
hàng mã càng tốt, đồ càng đắt tiền càng có nhiều lộc
và càng được bình an, người ta không ngần ngại lấy tiền
thật để đổi lấy tiền giả là những tờ giấy xanh đỏ
hay những vật dụng bằng giấy mầu.
Hiện
nay tại Việt Nam, tục lệ đốt vàng mã đã và đang phát
triển mạnh, không còn ở trong phạm vi cúng giỗ ở gia đình
và chùa đền mà còn lan sang các cơ quan công quyền quốc doanh,
trở thành một nghi thức mới không thể thiếu của các công
ty xây dựng cầu đường và các công trình thủy điện, trong
các buổi lễ động thổ, khởi công các công trình do nhà
nước giao phó. Theo thống kê cho biết khoảng 50.000 tấn
vàng mã được sử dụng trong một năm và riêng tại Hà Nội
đã tiêu thụ trên 400 tỉ đồng cho việc đốt vàng mã. Tại tiểu bang California và Texas, nơi có đông người Việt
cư ngụ, không có con số thống kê nhưng tất cả các siêu
thị Việt Nam và Trung Hoa đều bày bán vàng mã, chứng tỏ
có nhu cầu tiêu thụ.
Trong
nước, đã có nhiều vị Sư kêu gọi bà con nên bỏ thói tục
mê tín này. Một vị Hoà Thượng ở tỉnh Lâm Đồng
cho biết lỗi lầm mê tín này là do quý Sư không giáo dục
Tăng Ni Phật tử. Gần đây, một vị Hoà Thượng khác
tại Hà Nội cũng lên tiếng chỉ trích việc đốt vàng mã. Sư cho biết “nhiều người lúc cha mẹ còn sống thì
ngược đãi, đánh đập. Thế mà đến ngày lễ Vu Lan thì
những người con ấy lại đốt vàng mã thật nhiều để báo
hiếu cha mẹ. Hành vi ngược đãi cha mẹ, luật pháp cũng không
dung tha, Phật cũng không chấp nhận lễ của những đứa con
bất hiếu đó. Phật dạy, con cái phải thờ phụng cha mẹ,
nuôi dưỡng cha mẹ lúc già yếu. Không nên biến ngày lễ
Vu Lan trở thành ngày mê tín dị đoan, lãng phí.”
Tuy
nhiên, cũng có một vị Sư trụ trì một ngôi chùa ở ngoại
ô Hà Nội, từng tu học ở Trung Quốc, khi được hỏi về
việc này lại cho biết “… Hết thảy mọi pháp đều
là Phật pháp. Nếu chúng ta nhận thức được thì việc đó
cũng không hề sai. Khi tâm mình chưa thanh thản thì cũng nên
làm bất cứ một điều gì (như đốt vàng mã) để cho tâm
được thanh thản. Khi đó, việc học đạo, làm việc đều
thành tựu. Nếu cứ chấp trước cái này là của Phật pháp,
cái kia không phải thì sẽ sinh tâm phân biệt như vậy càng
xa với Phật pháp.”
Chúng
tôi rất ngạc nhiên khi nghe lời dạy này từ một vị tu sĩ
Phật giáo. Câu nói: “Tất cả các pháp đều là Phật
pháp” còn có nửa sau “Phật pháp là pháp bất
nhị”. Cả câu “Tất cả các pháp đều là Phật
pháp, Phật pháp là pháp bất nhị” cốt để hiển
thị tính chất bao hàm của “Tự Tánh bất nhị” đối với
toàn thể thế giới hiện tượng tương đối. Nếu hiểu lầm
rằng “tất cả các pháp đều là Phật pháp”, cho nên bất
cứ chuyện hay, dở gì trong thế gian cũng đều như nhau, đều
có thể làm được, không phân biệt tốt, xấu, vì đều “là
Phật pháp”, thì đã sai quá rồi.
Bất
Nhị là cảnh giới Chân Tâm tuyệt đối. Nói về đời sống
nhị biên, tương đối, thì Phật đã dạy rằng “Không
làm điều xấu, ác và siêng làm điều thiện, lành”. Các
bậc Thày của đạo Giác Ngộ phải có nhiệm vụ dạy cho
Phật tử biết cái gì là xấu, ác, để tránh và cái gì là
thiện, lành, để thực hiện. Không thể nói rằng: “Nếu
cứ chấp trước cái này là của Phật pháp, cái kia không
phải thì sẽ sinh tâm phân biệt như vậy càng xa với Phật
pháp”. Không phân biệt được thiện và ác thì làm sao
mà tu hành để chuyển nghiệp xấu, ác thành thiện, lành được
?
Kinh
Phật dạy con cái phải tận hiếu với cha mẹ khi các người
còn sống, và cho là sau khi chết một thời gian ngắn, Thần
Thức đã theo nghiệp thiện hoặc ác mà đi đầu thai vào một
đời sống mới. Thần Thức cũng không thể ở trong cái nhà
hoặc dùng đồ đạc bằng giấy tùy theo ý kiến của nhà
sản xuất vàng mã chế ra.
Sự
kiện đốt vàng mã chỉ tạo nên ảo tưởng, hoặc sự khoe
khoang về báo hiếu. Ngoài ra, nó còn có thể khiến cho những
người con bất hiếu tha hồ xử tệ với cha mẹ khi các người
còn sống, thí dụ tống cha mẹ ra ở góc vườn với ý nghĩ:
“Ui da, mai mốt ông bà ấy chết ta đốt cho họ cái lâu đài
đầy đồ đạc, xe cộ ê hề, tiền bạc vài trăm tỷ, cho
tha hồ mà ăn ở, tiêu xài rộng rãi, sướng nhé”.
Đã
thế, sự kiện báo hiếu bằng vàng mã sẽ có thể khiến
cho những người mê tín thi đua nhau, ai nhà nghèo không đốt
được lâu đài cho cha mẹ thì lại tủi thân : “Tội nghiệp
cha mẹ mình, sống đã phải ở chui rúc, chết cũng không có
được cái nhà cao cửa rộng”. Thế là lại vay công mượn
nợ để đốt cho cha mẹ cái building, xe Mercedes, vài ngàn thỏi
vàng hồ, cho hồn ma cha mẹ vênh vang với các ma hàng xóm và
mình thì cũng nở mày nở mặt với bà con.
Xin
quý vị thày của đạo Giác Ngộ nhớ sự ủy thác của đức
Phật mà không quên nhiệm vụ dạy Phật tử chuyển mê
khai ngộ.
Thưa
quý thính giả,
Như
vậy, chúng ta cũng nên xét lại vấn đề đem tiền thật mua
những đồ vàng mã như nhà cửa, xe cộ, tiền bạc giả và
các vật dụng trong gia đình hoàn toàn bằng giấy rồi đem
đốt đi nhằm mục đích để ông bà và người thân nơi âm
phủ có đủ vật dụng để tiêu dùng.
Theo
sử sách của người Trung Hoa, tục đốt vàng mã bắt đầu
từ thời nhà Hán. Nguyên do vì nhà vua muốn thực hành
lời dạy của Đức Khổng Tử: “Sự tử như sự sinh, sự
vong như sự tồn”, nghĩa là thờ người chết như thờ người
sống, thờ người mất như thờ người còn và cho rằng người
mất sống nơi cõi âm vẫn có những nhu cầu như kẻ còn sống
như tiền bạc, nhà cửa, thực phẩm v.v… Nên khi nhà vua băng
hà, phải bỏ tiền bạc thật vào trong áo quan để vua tiêu
dùng. Sau đó quan bắt chước vua và rồi dân bắt chước
quan. Ai cũng chôn tiền thật theo người chết. Bọn
trộm cướp biết vậy nên đào trộm mồ những người giầu
có, như mộ vua Hán Văn Đế bị quân trộm khai quật lấy
hết vàng bạc châu báu. Về sau từ quan đến dân thấy
việc chôn tiền bạc thật quá tốn kém nên mới nảy sinh
ra dùng giấy cắt ra làm tiền giả, vàng giả để thay thế. Dần dà người dân bắt chước và trở thành tập tục. Đến
năm Khai Nguyên thứ 26 (738 DL), đời Đường Huyền Tông, nhà
vua ra sắc dụ cho phép dùng tiền giấy thay cho tiền thật
trong việc cúng tế cầu siêu do quan tế tự Vương Du phụ
trách. Việc sử dụng vàng mã chính thức bắt đầu từ
đấy.
Không
bao lâu, dân chúng chán bỏ vì thấy việc đốt vàng mã không
hiệu nghiệm, họ đốt đủ thứ cần dùng để người quá
cố tiêu dùng mà không thấy được báo mộng hay có một hiện
tượng gì chứng tỏ người chết được hưởng dụng, nhất
là đối với những người nghèo không đủ tiền mua sắm
đồ mã nên họ bảo nhau không đốt nữa, thế là nghề làm
đồ mã bị ế ẩm. Sách Trực Ngôn Cảnh Giác của Trung
Hoa kể lại rằng Vương Luân là dòng dõi của Vương Du, vì
không muốn nghề nghiệp gia truyền làm vàng mã bị mai một,
nên cố gắng hết sức để chấn hưng nghề làm đồ mã,
bèn lập mưu với người bạn thân, lên kế hoạch bí mật
chết giả, bằng cách để người bạn thân đó giả vờ đau
ốm cho mọi người biết, khoảng vài ngày sau Vương Luân loan
tin người bạn thân đã qua đời, sau đó khâm liệm bỏ vào
quan tài chờ ngày an táng. Nhưng sự thật thì người
bạn của Vương Luân vẫn còn sống, tuy ở trong quan tài nhưng
vẫn có lỗ trống ở dưới đáy để thở và đưa thức ăn
vào. Đến ngày đưa đám tang, trong khi lễ nhạc linh đình,
phúng điếu rộn rịp, Vương Luân đem giấy tiền vàng mã
và những đồ dùng bằng giấy như nhà cửa, áo quần và hình
nhân thế mạng, đích thân làm lễ cúng tế để cầu nguyện
cho người bạn thân. Sau đó ông ta đốt hết giấy tiền
vàng mã và hình nhân thế mạng.
Khi
đốt xong thì quan tài tự nhiên rung động, ai nấy đều mục
kích rõ ràng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra. Người
bạn thân của Vương Luân quả nhiên sống lại, đến trước
mặt Vương Luân phủ phục xuống đất cảm tạ và thuật
lại cho mọi người nghe rằng chư vị thần dưới âm đã
nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng nên thả hồn
ông ta trở về cõi trần, nên ông ta mới được sống lại.
Mọi
người đều tin là thật và tin tức được loan truyền rộng
rãi trong dân gian, nên đồ mã của Vương Luân sau đó lại
được hưng thịnh như xưa. Nhờ thế các nhà buôn đồ
mã lại làm giầu một cách nhanh chóng và phổ biến sang các
nước chư hầu để tiêu thụ, trong đó có Việt Nam. Sau này do sự cạnh tranh nghề nghiệp, nên người bạn thân
đã tiết lộ mưu kế gian xảo của Vương Luân và vì thế
ngày nay chúng ta mới biết lai lịch việc này.
Tục
lệ đốt vàng mã này ảnh hưởng sâu đậm vào nước ta,
từ vua chúa đến thứ dân. Vụ đốt vàng mã lớn nhất
Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là trong đám tang của Vua Khải
Định, băng hà vào ngày 25 tháng 11, năm 1925, triều đình Huế
đã làm nguyên cả ngôi điện Kiến Trung bằng giấy thật
lớn vànhiều loại đồ dùng của vua như ngự liễn, long xa,
tàn kiệu, v.v… để đốt theo vua.
Thưa
quý thính giả,
Ngày
nay, dưới ánh sáng văn minh, ai cũng biết người chết không
thể nào tiêu xài số tiền vàng và các thứ cần dùng chôn
theo ấy. Như có người ở Hà Nội cúng người chết
cả máy điện thoại Nokia cầm tay bằng giấy, Honda Dream bằng
giấy và máy vi tính bằng giấy nữa. Khi còn sống không
hiểu người chết ấy có biết sử dụng máy vi tính, điện
thoại cầm tay hay xe Honda không? Xin kính gửi tới quý
vị đoạn phóng sự viết vào thời gian ngày Vu Lan vừa qua
tại Hà Nội:
“Tại
phố Hàng Mã, điểm “phân phối” hàng mã cho những người
bán rong trên các đường phố luôn đông nghịt người mua
sắm, bộ cúng thần linh rẻ nhất cũng 15.000 đồng, cúng chúng
sinh giá tương tự. Chúng tôi chen chân hỏi mua đồ cúng với
giá “bình dân” đã không được các chủ hàng bán. Tôi chứng
kiến một phụ nữ trung niên cùng cô con gái đến mua nhà
lầu, xe hơi, điện thoại di động, tivi, xe máy, quần áo,
tiền dollars Mỹ. Họ còn mua thêm một cô gái bằng giấy như
búp bê, mang giày cao gót, mặc váy ngắn, áo lửng. Khi bà mẹ
cầm “cô gái” trong tay thì cô con gái cầm ngay chiếc kéo nhỏ
đâm lia lịa vào mặt hình nhân thế mạng. Giải thích cho
những người hiếu kỳ xung quanh về việc làm kỳ quặc của
cô con gái, người phụ nữ trung niên nói: “Bố cháu làm tổng
giám đốc, nay xuống dưới ấy cũng phải gửi cho ông ấy
cô thư ký, nhưng phải làm cho nó xấu xí để khỏi trở thành
bồ của bố cháu”.
Thưa
quý thính gỉa,
Chúng
tôi không hề thấy có việc đốt vàng mã cúng tế người
chết được ghi trong tam tạng kinh điển của nhà Phật.
Đạo
Phật hoàn toàn bác bỏ tục lệ mê tín này. Quan niệm sống chết đối với Phật Giáo chỉ là hai mắt
xích trong một chuỗi sinh tử dài vô tận, từ vô thủy, cho
tới ngày giải thoát tối hậu, con người đạt tới cảnh
giới bất tử. Do đó, Phật giáo không có khái niệm
về một nơi chốn dành riêng cho những người đã chết, mà
dân gian thường hay gọi là cõi âm hay là âm phủ. Có thể
đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian.
Hoà
Thượng Thích Thánh Nghiêm, trong một bài giảng Phật Pháp,
nói rằng:
“Rất
đáng tiếc là hiện nay, đa số tăng ni cũng không hiểu đạo
lý ấy, thậm chí Phật tử ở Trung Hoa lục địa sang Đài
Loan còn phát minh ra loại tiền giấy đặc biệt gọi là “tiền
giấy vãng sinh”, tức là trên một tờ giấy màu vàng, dùng
mực đỏ in bài chú vãng sinh bằng chữ Phạn. Thực ra, công
dụng tụng chú và tác dụng đốt tiền giấy là hai chuyện
căn bản khác nhau…” Hơn nữa, các tăng ni tụng kinh, lễ
sám, cầu đảo v.v…đều có viết sớ. Đọc sớ xong rồi
đốt sớ đi. Đó là bắt chước đạo gia đọc sớ cho quỷ
thần nghe, đó là mê tín, hoàn toàn không có căn cứ gì trong
giáo lý đạo Phật cả. Trong mọi việc, Phật giáo đều chủ
trương lấy tâm thành kính để có cảm ứng. Đã đạt tới
chỗ tâm thành và cảm ứng rồi, là có linh nghiệm, chứ không
cần phải đốt lá sớ.”
Thưa
quý thính giả,
Cho
rằng việc đốt vàng mã làm người sống cảm thấy trong
lòng thanh thản hơn, an lạc hơn, thì chỉ là một cách nói,
một cách đánh lừa tâm thức, nếu có chăng chỉ là an lạc
tạm thời như người dùng thuốc phiện. Muốn tâm thảnh
thơi an lạc, không có gì hay hơn là trong cuộc sống hàng ngày
chúng ta thực hiện lời Phật dạy:
Không
làm điều xấu, ác
Siêng
làm điều thiện, lành
Tự
thanh tịnh tâm ý
Còn
chuyện hoang đường như đốt vàng mã, thì ngoài việc đã
làm tổn hại tài nguyên, còn mâu thuẫn cả về mặt tâm tư.
Trong khi chúng ta cầu nguyện cho người thân quá vãng được
tái sanh vào cõi an lành, như sanh cõi trời hay cõi người hay
về cảnh giới Tây phương cực lạc hay một cảnh giới thanh
tịnh nào đó mà lại đi đốt giấy tiền vàng mã và đồ
dùng bằng giấy xuống âm phủ cho người thân tiêu dùng trong
các lễ tang, lễ giỗ, thì như vậy có phải chúng ta cầu
cho người thân ở mãi cảnh giới âm u tối tăm đó để xài
tiền ma, đồ dùng ma hay sao. Thậm chí có người, khi
đốt xong còn lo lắng không biết người thân có nhận được
không? …
Ban
Biên Tập
(Bài
này đã được phát thanh ngày 15 tháng 10 tại Nam California
và 16 tháng 10, 2005 tại Houston Texas)
Discussion about this post