DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 32
ĐỜI
LÀ BỂ KHỔ
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả,
Một
vị thính giả đã gửi về cho chúng tôi câu hỏi như sau:
“Nhà
Phật thường hay nói “đời là bể khổ”, và “tất cả thế
gian đều chỉ là huyễn mộng, là không” nhưng đồng thời
lại bảo phải coi trọng sinh mạng, dù là sinh mạng con sâu
cái kiến, không được giết, vân vân …”.
Thắc
mắc của tôi là:
Thứ
nhất: Đời có thật là “bể khổ” không? Hay chỉ những người
nghèo mới khổ, người giầu có tiền rừng bạc biển, “có
tiền là có tất cả”, dùng tiền mua được cả vua chúa, kẻ
hầu người hạ, muốn gì được nấy, trong nhà thì chăn êm
nệm ấm, ra ngoài thì mọi người nể sợ, cuộc đời sướng
như thần tiên, có gì là khổ đâu?
Thứ
hai : Nếu “đời là bể khổ” và “tất cả thế gian đều chỉ
là huyễn mộng, là không”, thì hành động sát sinh chính là
chấm dứt sự khổ, và cũng chỉ hành động trong huyễn mộng,
tại sao lại phải coi trọng sinh mạng, coi sự phạm vào giới
sát là phạm tội nặng nhất?” Xin quý ban Biên Tập vui lòng
giải thích giúp cho, cảm ơn quý vị.
Thưa
quý thính giả,
Chúng
tôi xin cảm ơn vị thính giả đã nêu lên những thắc mắc
này, để chúng ta có dịp cùng nhau thảo luận. Chúng tôi cũng
ước mong tất cả quý vị nếu có điều gì thắc mắc trong
phạm vi tìm hiểu Phật pháp thì xin tích cực nêu ra, như thế
chúng ta sẽ có dịp cùng nhau tìm hiểu cho thật rõ ràng, sáng
tỏ, để có thể tận hưởng lợi ích từ những lời dạy
quý báu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Là
giáo chủ của đạo giải thoát, đức Phật đã tận tụy
suốt đời để phổ biến, gửi gấm những lời giảng dạy
cao cả về bình đẳng, khai phóng vào mọi ngõ ngách tâm hồn
của thế nhân để gỡ bỏ bức màn vô minh cho họ. Ngài luôn
luôn nhắc nhở mọi người phải hiểu giáo pháp một cách
triệt để, nếu chỗ nào còn chưa hiểu tường tận thì phải
hỏi. Thậm chí ngay trước giờ phút nhập Niết Bàn, đức
Phật vẫn còn lập lại tới ba lần câu “Ai còn thắc
mắc về giáo pháp thì hãy nêu lên câu hỏi”. Đến tận
giây phút cuối trước khi vĩnh biệt chư đệ tử, trong tâm
bậc đạo sư vẫn chỉ là mong sao cho các đệ tử hiểu thấu
đáo giáo pháp để có thể tu hành đạt được giác ngộ,
giải thoát.
Trong
đạo Phật, không có chỗ đứng cho sự tin tưởng một cách
mù quáng. Nếu có ai nói những điều mê tín hoang đường,
muốn người nghe phải nhắm mắt tin bừa, mà gán cho đạo
Phật thì đó là người ấy đang phỉ báng chánh pháp, như
lời đức Phật đã cảnh cáo “Tin ta mà không hiểu ta
là phỉ báng ta“. Người Phật tử học đạo phải
nghe giảng (Văn), nghe rồi suy nghĩ cho tới hiểu thấu, chưa
hiểu thì hỏi cho rõ (Tư), giáo pháp đã được hiểu rõ ràng,
người Phật tử mới bước lên đường luyện tâm (Tu).
Sở
dĩ chúng tôi dài dòng trình bày như thế mục tiêu là để
minh xác lại với quý vị rằng đạo Phật là một con đường
sáng, đến với đạo Phật để học cho thấu hiểu Phật
pháp, biết được cách thanh lọc tâm mình, biết buông xả
những điều tầm thường để hiển lộ Giác Tánh, giải thoát
khỏi những mê vọng che mờ Chân Tâm. Như thế, sự tìm hiểu,
hỏi và đòi hỏi câu trả lời là một thái độ rất quý,
cần thiết và trong sáng của người Phật tử.
Bây
giờ chúngtôi xin đi vào câu hỏi thứ nhất, như sau:
—
Đời
có thật là “bể khổ” không? Hay chỉ những người nghèo mới
khổ, người giầu có tiền rừng bạc biển, “có tiền là
có tất cả”, dùng tiền mua được cả vua chúa, kẻ hầu người
hạ, muốn gì được nấy, trong nhà thì chăn êm nệm ấm,
ra ngoài thì mọi người nể sợ, cuộc đời sướng như thần
tiên, có gì là khổ đâu?
Thưa
quý thính giả,
Câu
“đời là bể khổ” không phải là lời nói xuông, mà là một
phát biểu từ quá trình tu chứng của đức Phật. Do sự chứng
đạo, đức Phật nhận chân được một điều có thể phát
biểu tóm gọn lại là:
“Tất
cả mọi sự xuất hiện trên thế gian này đều vô thường,
đều nằm trong chu kỳ của “sanh, trụ, dị, diệt”, nghĩa là
xuất hiện, rồi có mặt một khoảng thời gian, rồi thay đổi,
rồi hoại diệt”.
Vô
thường nghĩa là không vĩnh viễn, luôn luôn có sự thay đổi,
có thể thay đổi từ từ như nước chảy đá mòn, có thể
thay đổi bất thình lình như những sự xụp đổ do thiên
tai, chiến tranh, vân vân. Và vô thường là khổ.
Nếu
chúng ta lắng tâm xuống mà suy ngẫm về mọi sự việc xẩy
ra trong đời sống hằng ngày thì ta sẽ thấy nỗi khổ không
chừa một ai. Vua chúa, người nhiều quyền lực, hay người
giầu có, cũng vẫn phải ở trong quy luật này. Giầu có, quyền
uy thì muốn được hưởng sự giầu có, quyền uy vĩnh viễn.
Nhưng vô thường ập đến bất cứ lúc nào. Dù là vua
chúa quyền uy, cũng không thể cứu được chính mình và người
thân yêu ra khỏi bàn tay của tử thần khi vô thường tới.
Vua Tự Đức của triều đình nhà Nguyễn quyền uy như thế
mà khi tử thần mang Bằng Phi đi cũng không thể cứu nổi,
chỉ còn biết rống lên tiếng khóc thê lương:
Ơi
Thị Bằng ơi đã hết rồi
Ơi
tình, ới nghĩa, ới duyên ơi !
Mưa
hè, nắng chái, oanh ăn nói
Sớm
ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi
Đập
cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp
tàn y lại để dành hơi
Mối
tình muốn dứt càng thêm bận
Mãi
mãi theo hoài cứ chẳng thôi.
Nhà
vua muốn cùng người yêu vui hưởng hạnh phúc mãi mãi bên
nhau, nhưng vô thường đến chia hai người ra thành hai ngả,
không thể dùng quyền lực, tiền bạc mà thay đổi được,
chỉ còn lại sự chịu đựng nỗi thống khổ mà thôi.
Từ
thí dụ này, quý vị thính giả có thể suy rộng ra biết bao
nhiêu nỗi thống khổ do tính chất vô thường, không bền
vững trong đời sống mang lại. Chúng ta sẽ thấy rằng
ngay lúc mới gặp nhau đã có mầm khổ của sự chia tay tiềm
ẩn, và nó có thể tới một cách bất thình lình. Ngay sự
gặp gỡ của chúng ta trong chương trình phát thanh Phật giáo
này cũng nằm trong quy luật ấy.
Mỗi
buổi sáng, khi bà mẹ mặc đồ cho con đi học, là nơm nớp
lo không biết trong thời gian vắng mặt mình, con có gặp chuyện
bất ngờ nguy hiểm không may nào không. Chúng tôi tin rằng
tất cả các bà mẹ khi nghe nói về một tai nạn xe cộ vừa
mới xảy ra đâu đó, là sẽ hỏi coi có dấu tích gì liên
quan xa gần đến những đứa con của mình hiện đang vắng
nhà chăng, thí dụ mầu xe, con đường có xe đụng, vân vân,
để hoặc là yên tâm, hoặc là lo lắng. Nói ra thì có vẻ
ích kỷ, nhưng đấy là thực tế.
Bởi
vì cuộc đời đầy dẫy những bất trắc, vô thường, không
có gì là tồn tại vĩnh viễn, cho nên mọi người đều có
những mối lo từ trong tiềm thức rằng cái mình đang có sẽ
mất. Và quả nhiên là đến một lúc nào đó, nó sẽ mất
thật. Đây là chỉ nói về một nỗi khổ là sự không
bền chắc của thế giới tương đối này, chưa kể đến
những nỗi khổ như sự đau đớn khi lọt lòng mẹ, khổ vì
tuổi già, khổ vì bệnh tật, khổ vì lo sợ lúc gần chết,
khổ vì mong cầu mà không đạt được, khổ vì thương yêu
mà phải xa nhau, khổ vì ghét nhau mà phải chung sống, khổ
vì tâm và thân thay đổi bất thường, vân vân …
Cho
nên mới có câu “đời là bể khổ và nước mắt chúng sinh
trong thế giới Ta Bà nhiều như nước ngoài biển cả”.
Về
câu hỏi thứ 2:
—
Nếu
“đời là bể khổ” và “tất cả thế gian đều chỉ là huyễn
mộng”, thì hành động sát sinh chính là chấm dứt sự khổ,
và cũng chỉ hành động trong huyễn mộng, tại sao lại phải
coi trọng sinh mạng, coi sự phạm vào giới sát là phạm tội
nặng nhất?”
Thưa
quý thính giả,
Câu:
“tất cả thế gian đều chỉ là huyễn mộng” cần được
giải thích trong những trường hợp khác nhau, do tu chứng và
do nhận thức.
Do
tu
chứng là đức Phật sau khi bừng tỉnh, thấy được rằng
mọi
hiện tượng trên thế gian đều là “huyễn hiện”, không
phải là Sự Thực. Từ kinh nghiệm đó, Ngài thuyết kinh
Viên Giác để chỉ dạy người Phật tử tu hành ngõ hầu
buông xả cảnh giới huyễn mộng mà tìm về bản thể chân
thật, tạm gọi là Chân Tâm. Bài kệ trong kinh Kim Cang cũng
dạy về “quán như huyễn”, một trong các phương pháp luyện
tâm:
Nhất
thiết hữu vi pháp
Như
mộng, huyễn, bào, ảnh
Như
lộ, diệc như điện
Ưng
tác như thị quán.
nghĩa
là :
Mọi
việc trên thế gian
Như
mộng, huyễn, bèo, ảnh
Như
sương mai, điện chớp
Hãy
quán chiếu như thế
Quán
chiếu như thế thì lòng tham lam chấp chặt vào của cải vật
chất, thị phi hơn thua sẽ giảm, dần dần tâm hồn sẽ vắng
lặng, đó là đường lối để “thanh tịnh hóa Tâm”,
dẹp những lăng xăng vọng tâm để Chân Tâm hiển lộ, đạt
được mục tiêu cốt tủy của đạo Phật, điều mà đức
Phật đã thể nghiệm.
Nhưng
trước khi đi tới đích, người hành giả từ sự nhận
thức mà bước được lên con đường, bắt đầu sống
đạo, giảm thiểu gánh nặng Tham Sân Si, là đã được hưởng
mùi vị giải thoát. Từ nhận thức thôi, người Phật
tử cũng hiểu được rằng cuộc đời này quả là không
có gì bền vững, mọi sự xảy ra chỉ tồn tại một thời
gian rồi biến hoại, tình cảm, của cải vật chất, tất
cả đều đến rồi đi như trong giấc mơ, như mộng huyễn
do lòng người thay đổi, do thiên tai, chiến tranh, bệnh hoạn,
chết chóc bỗng nhiên ập đến, không báo trước, một sớm
một chiều đang có đủ thứ bỗng bị mất hết. Từ suy
tư, cảm nhận được lý vô thường, nếu chúng ta chuyển
hóa tâm thức theo với những nhận thức này thì cuộc đời
cũng sẽ thoải mái, bớt gay gắt với thế nhân, tâm tư cũng
được nhẹ nhàng hơn nhiều.
Nhiều
nhà đạo học Đông Phương cũng quán huyễn, khuyên nên coi
chuyện đời như một giấc mộng lớn (xử thế nhược đại
mộng), để mà có thể sống một cách ung dung, thanh thoát,
tóm lại là “sống đạo”. Riêng đối với nhà Phật thì
quán “huyễn” là một cách luyện tâm, nếu hành trì miên
mật, dẹp tan vọng tâm chấp chặt, hành giả có thể chứng
ngộ Sự Thật.
Trong
sự tìm hiểu thực chất của thế giới hiện tượng, nhà
khoa học làm thí nghiệm thấy hạt vật chất cơ bản vốn
“không có thật”, mà chỉ biến đi rồi lại hiện
ra liên tục rất nhanh, như làn sóng, trong một thoáng thời
gian chỉ ngắn hơn phần tỷ của một giây đồng hồ rất
nhiều, kinh Phật gọi sự thay đổi biến hiện này là “lân
– hư – trần”, tức là từ dạng “ánh sáng”, tới
khoảng “hư không”, rồi tới “vật chất”. Sự thay đổi
biến hiện này xảy ra quá nhanh khiến cho mắt người thường
thì tưởng vật chất là có thật một cách chắc nịch. Nhưng
người chứng đạo, tâm thức vắng lặng, thì thấy được
“sát na huyễn hiện” này. Huyễn hiện có nghĩa
là không phải “có thật” nhưng cũng không phải là “không”,
nhà Phật gọi là Chân Không Diệu Hữu. Chữ “không”
của nhà Phật là Chân Không, không phải là “không
có gì”, không phải là “hư vô”. Trong Chân Không đó,
mọi sự vật “huyễn hiện”, gọi là Diệu Hữu.
Thâm
nhập thiền quán “mọi việc trên thế gian đều như mộng,
huyễn, bèo, ảnh, sương mai, điện chớp”, dù chưa tới được
cảnh giới “chứng đạo”, cũng làm cho cuộc sống
tâm lý của chúng ta được giải thoát phần nào.
Trong
cuộc đời, chúng ta có rất nhiều bằng chứng cụ thể về
tính không bền chắc của mọi sự trong thế giới hiện tượng
tương đối này, thí dụ những biến thiên xảy ra cho con người
trong chiến tranh, trong thiên tai, thí dụ trận sóng thần bên
Á Châu xảy ra cuối năm 2004 và trận bão lụt Katrina vừa
mới xảy ra tại Hoa kỳ. Chỉ trong một thời gian rất ngắn
mà những nạn nhân đã mất đi tất cả những công lao gây
dựng trong suốt cuốc đời.
Chúng
tôi xin thuật lại câu chuyện của một trong hàng ngàn nạn
nhân của trận bão lụt Katrina, câu chuyện của bà Fitzgerald,
đăng trên Internet:
“Ngồi
trên đống chăn mền trải dưới sàn Trung Tâm Baton Rouge River,
giữa những nạn nhân của trận bão Katrina, bà Fitzgerald, 56
tuổi, tính toán việc chôn cất mẹ bà ta. Bà kể lại sự
phấn đấu khó khăn của gia đình khi di chuyển người mẹ
tám mươi tuổi đang ốm nặng của bà lên lầu thứ hai để
chạy nước lụt đang dâng lên đuổi theo họ và sự tận
tụy của gia đình đã ở lại một cách vô vọng để săn
sóc mẹï. Bà vừa khóc vừa nói:– Thật là quá sức mà bệnh tim của mẹ tôi có thể chịu đựng
nổi.Rồi
bà cứ nức nở vừa khóc vừa nhắc lại cảnh đau lòng đến
đứt ruột khi cuối cùng gia đình đành phải để xác bà
cụ lại mà bỏ chạy.Bà
Fitzgerald cư ngụ tại thành phố New Orleans, ngay gần đoạn
đê chắn lụt bị vỡ, kể lại rằng cả một khối nước
dường như đổ ập vào nhà bà qua bức tường, trong vòng
15 phút mực nước từ vài inches dâng lên đến cổ. Bà lao
đến tủ lạnh định quơ đống giấy tờ quan trọng để
trên nóc nhưng chỉ còn kịp nhìn thấy cả cái tủ chìm lỉm
dưới làn nước đen ngòm, hôi thối.Vợ
chồng bà đã cùng với người chị chuyển cha mẹ từ căn
nhà một tầng của người chị đến lầu hai căn apartment
bên hàng xóm, là nơi khô ráo độc nhất còn lại để có
thể tạm trú. Họ mượn cái xuồng của một người hàng
xóm khác để bơi đi mua thực phẩm và thuốc cho bà mẹ đang
ốm nặng. Nhưng người mẹ thập tử nhất sinh của bà đã
vì bị ướt lạnh nên qua đời trong khi bà con gái đang đi
kiếm thuốc men và thực phẩm.Trong
lúc di chuyển dưới nước, bà Fitzgerald bị một một chiếc
xuồng đâm vào bắp vế, làm thành một vết thương. Nhân
viên y tế bảo rằng vết thương bị làm độc vì nước bẩn
và nếu nó không được chữa ngay một cách đúng mức thì
có thể đưa đến tình trạng bà ta sẽ mất một chân. Vết
thương đã được băng bó bằng thuốc kháng sinh.Bà
Fitzgerald vừa khóc vừa nói lên lòng mong mỏi được tạm
thời di chuyển đến với các thân nhân ở tiểu bang khác
vì đã quá sợ những cảnh tượng bày ra trước mắt ở chốn
này.”
Thưa
quý thính giả,
Một
gia đình có cha mẹ con cái đang sống yên lành, một sớm một
chiều thiên tai ập đến, mẹ chết không có đất chôn, con
cái thương tích từ tâm hồn đến thể xác, không còn mái
ấm dung thân, chỉ mong đến được nhà thân nhân để tá
túc qua ngày. Ít có ai nghĩ rằng những chuyện kinh hoàng như
thế có thể xảy ra cho chính mình. Ấy vậy mà nó lại vẫn
thường xảy ra trong cuộc đời. Nhà Phật gọi đó là “vô
thường”, là “không có gì chắc chắn, vĩnh cửu”.
Tuy
thấm nhuần lý vô thường như thế, nhưng do tin sâu nhân
quả, người Phật tử không bi quan. Đức Phật dạy
mọi Phật tử phải “không làm điều xấu, ác, siêng làm
điều thiện, lành” để chuyển hóa thế giới cho “tâm
bình thế giới bình”. Sát sinh là điều xấu ác vì làm cho
chúng sinh đau đớn từ thể xác tới tâm hồn. Trong cơn đau
đớn kinh hoàng, luồng tâm thức sân hận sẽ phóng lên không
gian, dần dần sẽ tạo nên một bầu không khí sát phạt,
oán hờn. Đó là cảnh giới trong những lò sát sinh, với những
tiếng rú thống thiết, ai oán, tưởng như lan ra khắp bầu
trời.
Nhà
Phật thấy thế giới hiện tượng tương đối này tuy
là huyễn mộng, nhưng dù trong mộng, quy luật nhân
quả vẫn vận hành. Ngủ mơ gặp chuyện buồn phiền cũng
khóc lên rưng rức, bị đánh trong mộng cũng thấy đau, cũng
đánh lại, mộng gặp ác thú cũng sợ hãi bỏ chạy cuống
quýt. Cho nên tạo nghiệp thiện hoặc ác đều sẽ gặp
thiện quả hoặc ác báo. Vì thế, nếu giết hại mạng
sống trong đời sống huyễn mộng thì cũng phải quay lại
đời sống huyễn mộng để trả nợ mạng, con đường
thanh tịnh hóa Tâm lại bị lùi xa.
Đạo
Phật nói “khổ”, nói “huyễn” là nói lên một thực
tế chứ không phải là nói theo kiểu triết lý bi quan.
“Đời là bể khổ “ nhưng chúng ta có thể đi trên đường
Bồ Tát Đạo để giúp cho thế nhân bớt khổ, và có thể
hành trì thiền quán để ra khỏi bể khổ. Đó chính là mặt
tích cực của thông điệp “Đời là bể khổ “ mà đức
Phật muốn gửi tới chúng ta.
Ban
Biên Tập
www.thuvienhoasen.org
(Bài
này đã được phát thanh ngày 24 tháng 9 tại Nam California
và 25 tháng 9, 2005 tại Houston Texas)
Discussion about this post