DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 25
CÔNG
ĐỨC DO TU HÀNH VÀ PHƯỚC ĐỨC DO BỐ THÍ (Phần 2)
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả,
Sau
khi phát thanh bài nói về Bố Thí, trong tuần vừa qua chúng
tôi nhận được điện thư của một độc giả. Nội
dung như sau: “Tôi thường hay đến chùa và thỉnh thoảng
có nghe vài người bạn đạo nói rằng: “Nếu kiếp này chỉ
lo tu phước mà không lo tu huệ, thì sự tu phước của kiếp
này sẽ là tai họa cho kiếp thứ ba. Như vậy ý này là
thế nào? Và kiếp này có nên tu phước không hay là để tránh
kiếp thứ ba khỏi bị tai họa thì phải ngưng tu phước mà
chỉ tu huệ thôi? Và tu huệ là tu cái gì? Kính mong quý vị
chỉ dẫn giùm cho chúng tôi hiểu.”
Trước
khi trả lời thư của vị thính giả, chúng tôi mời quý vị
nghe lại bốn câu kệ trong kinh Pháp Cú:
Không
làm các điều ác
Nên
làm các việc lành
Tự
thanh tịnh tâm ý
Đó
là lời Phật dạy.
Qua
bốn câu kệ trên, chúng ta thấy rằng tiến trình tu tập giải
thoát của đạo Phật được thể hiện qua nhiều giai đoạn.
Không
làm điều ác, nên làm điều lành là hai bước đầu tiên
trong việc tu tập, tuy thế chúng ta cần biết rõ ràng thế
nào là Thiện, thế nào là Ác. Đối với đạo Phật,
có thể nói, tiêu chuẩn để xác định Thiện hay Ác căn cứ
vào hai yếu tố hạnh phúc và khổ đau. Hành động, từ
lời nói, ý nghĩ đến việc làm, nếu đem lại hạnh phúc
cho chúng sinh là Thiện và hành động gây khổ đau cho chúng
sinh là Ác. Nếu chỉ đem lại hạnh phúc cho cá nhân mình
mà gây khổ đau cho chúng sinh khác cũng là việc làm ác. Tránh
gây khổ đau cho người cũng tức là tránh tạo nghiệp ác
cho mình.
Như
vậy khi chúng ta làm những việc thiện lành như bố thí tiền
bạc, tài sản, bố thí Pháp, chia sẻ những ưu tư, những
khổ đau của người khác là chúng ta đang tu phước. Tu phước chính là gieo những hạt giống lành, hạt giống
thiện, tựa như việc cất giữ tiền của vào trương mục
tiết kiệm ở ngân hàng để sau này dùng dần, tức được
hưởng niềm hạnh phúc an lạc. Vì niềm an lạc hạnh
phúc là điều ai ai cũng mong muốn, cho nên việc gầy dựng
niềm an vui hạnh phúc cho người cũng tức là tạo nhân hạnh
phúc an vui cho mình, và từ đó, nhân rộng ra cho xã hội, cho
chúng sinh. Niềm an lạc hạnh phúc không thể ngẫu nhiên
đến với chúng ta, mà là do công phu tránh dữ làm lành, tránh
tội làm phước bồi đắp hàng ngày.
Phước
giúp chúng ta đẩy lùi những nghiệp xấu ác của nhiều kiếp
trổ ra và có công năng giúp cho chúng ta sáng suốt, thấy rõ
những sự việc sai trái trên đường đời, hoặc giúp chúng
ta thoát khỏi những hoàn cảnh nguy hiểm đến tính mạng. Có những việc chúng ta tưởng chừng như buông xuôi hàng phục,
vậy mà nhờ phước rồi cũng vượt thoát được. Trong
sáu hạnh tu của nhà Phật gồm Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục,
Tinh tấn, Thiền định và Trí Tuệ, thì Bố thí là hạnh đầu
tiên. Nhìn vào đó chúng ta sẽ thấy được việc gieo trồng
nhân phước là quan trọng dường nào.
Thưa
quý thính giả,
Con
đường tu tập của Phật tử không chỉ giới hạn vào việc
tu phước, vào việc làm lành tránh ác để kiếp sau khá hơn
kiếp trước, vì như thế vẫn còn trôi lăn trong vòng sinh
tử của thế giới tương đối, chưa phải là mục đích chính
của đạo Phật. Đạo Phật xuất hiện trên đời là vì có
sự giác ngộ của đức Phật, từ sự giác ngộ này, đức
Phật chỉ con đường cho chúng sinh tu để giác ngộ như Ngài,
tự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Con đường giải thoát
này phải thực hiện bằng trí tuệ.
Như
vậy tu Tuệ hay tu giải thoát là bước thứ ba của tiến trình
tu tập, còn gọi là “Tự tịnh kỳ ý”.
Tu
Tuệ là công phu tu tập các phương pháp làm cho tâm lắng xuống,
nhằm dứt trừ vọng tưởng để thành tựu được Trí Tuệ
Bát-nhã. Bát-nhã là phiên âm của tiếng Phạn paramita, có
nghĩa là “qua bờ bên kia”, bờ bên kia là Niết Bàn thanh tịnh,
bờ bên này là đời sống tương đối. Trí tuệ này
không phải là kiến thức do học hỏi kinh sách, không phải
là trí thông minh bình thường.
Do
vì mỗi người có một tâm khác nhau nên cũng khó nói có một
pháp tu nào áp dụng chung cho tất cả mọi người được,
vì vậy đức Phật đã chỉ dạy nhiều pháp khác nhau để
mỗi người tùy căn cơ áp dụng. Một số những pháp
môn này như sau:
– Quán
tưởng: chú tâm quán sát sâu xa về một đề mục rút trong
giáo lý.
–
Trì chú: chú tâm tụng niệm những câu chú gồm những chữ
bí ẩn.
–
Niệm Phật: chú tâm niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà.
–
Tham thiền: chú tâm tham một công án hoặc một thoại đầu.
Nhưng,
dù là pháp nào chăng nữa thì việc thực hành cũng là trình
tự đưa tâm từ trạng thái nhiều vọng tưởng về trạng
thái ít vọng tưởng rồi về nhất tâm, về sau từ từ đạt
đến vô tâm, rồi liễu tâm, ngưng dứt dòng suy nghĩ miên
man, liên tục của ý thức. Nhà Phật quan niệm rằng sự suy
nghĩ liên tục, miên man, của ý thức, còn gọi là “tâm viên
ý mã”, tức là tâm ý vọng tưởng chạy nhấy như con vượn,
con ngựa, có tác hại là đã che mờ mất Chân Tâm, Trí Tuệ
Bát Nhã.
Hành
giả nên chọn một pháp môn thích hợp với căn cơ của mình,
và khi thực hành thì nên theo tông chỉ của pháp môn đó mới
có kết quả. Dù thực hành theo pháp môn nào cũng nên có một
vị thầy hướng dẫn.
Thưa
quý thính giả,
Trở
lại câu hỏi của vị thính giả: “Nếu kiếp này chỉ lo tu
phước mà không lo tu tuệ, thì sự tu phước của kiếp này
sẽ là tai họa cho kiếp thứ ba”, như vậy ý này là thế nào?
”
Chúng
tôi xin thưa rằng, theo luật Nhân Quả, tu phước trong kiếp
này sẽ được quả tốt trong kiếp tới. Kiếp tới không
hẳn là kiếp thứ hai mà có thể là ở một kiếp vị lai
nào đó. Bởi vì nhân phải hội đủ duyên thích hợp
mới trổ quả.
Do
nhân tu phước ở kiếp này mà kiếp tới có thể sẽ được
làm một nhân vật có quyền cao chức trọng, kẻ hầu người
hạ, giầu sang sung sướng. Do được hưởng thiện báo đó
mà người ta dễ buông lung trong trường dục lạc. Khi
ấy thì dù có bậc thiện tri thức khuyên bảo, cũng khó làm
cho họ nghe theo vì họ đang trong cơn say sưa mê đắm với
dục vọng. Vì vậy nhà Phật cảnh giác người tu Phước
rằng trong khi tu Phước, phải đồng thời tu Trí Tuệ, học
tập giáo lý nhà Phật, dành chút thời giờ để thực tập
tĩnh tâm, như thế là Phước Tuệ song tu. Chứ nếu giầu sang
sung sướng, mà không có nhân hiểu biết giáo lý, không giữ
gìn giới hạnh cho đàng hoàng, thì cũng rất dễ trở thành
con người phóng túng, dễ tạo nghiệp xấu, thì một kiếp
nào đó trong tương lai sẽ gặt quả báo xấu tuỳ theo nghiệp
đã tạo. Nên mới gọi là tai hoạ cho kiếp thứ ba là
thế.
Nói
tóm lại tiến trình tu giải thoát của đạo Phật được
thể hiện qua nhiều giai đoạn. Việc lấy thiện diệt
ác, cứu giúp chúng sinh, bố thí cúng dường, chỉ là bước
đầu trong con đường tu tập để đi đến giải thoát giác
ngộ. Tuy là bước đầu nhưng lại là bước căn bản. Người ta thường nói “đi buôn cần vốn, đi tu cần Phước”. Cho nên việc gieo trồng nhân phước rất là quan trọng. Riêng đối với những người muốn tiến xa hơn, muốn hoàn
toàn giác ngộ, giải thoát, thì bản thân hành giả phải tự
mình thanh tịnh tâm, chấm dứt dòng vọng tưởng miên man che
mờ Chân Tâm, để Trí Tuệ Bát Nhã, cũng còn gọi là Phật
Tánh, hoặc Chân Tâm được hiển lộ.
(Một
tiếng chuông)
Thưa
quý thính giả,
Chúng
tôi xin lược trích câu chuyện về vấn đề “gieo nhân lành
được hưởng thiện báo”, do đạo hữu Viên Nhẫn kể trong
bài “Phước nghiệp cho hành trình tiến tu”, như sau:
“Nhân
đây chúng tôi (chúng tôi ở đây tức là đạo hữu Viên Nhẫn)
xin kể lại một kinh nghiệm mới xảy ra cho đạo hữu N.C.,
một Việt kiều ở Pháp . Tháng 11-2000 , trong thời gian ở
VN cô đã tham gia nhiều công tác từ thiện, nhất là mua thật
nhiều cá để phát tâm cho hạnh phóng sinh. Sau khi lên núi
tham quan một ngôi chùa ở Vũng Tàu trở về thì cô lâm trọng
bệnh. Vì vốn có sẵn bệnh tim nên cô đã phải dùng một
dược chất cực mạnh. Tuy nhiên thuốc đã không giúp được
gì cho cô trong lúc này, hơi thở cô trở nên ngắn lại, cô
ói mửa liên miên , đầu óc choáng váng , mở mắt ra không
thấy gì chung quanh, mà chỉ thấy một cụm đen cuốn tròn
như đưa vào một đường hầm đen tối, cô thấy thật là
ngột ngạt, không dám mở mắt ra nữa. Sau đó cô không còn
biết gì. Người nhà khẩn cấp đưa cô vào bệnh viện và
theo như họ kể lại, thì lúc bấy giờ dù rằng rất yếu
nhưng không hiểu tại sao cô lại có những bước đi thật
vững vàng, nhanh hơn những người đang dìu cô đi, thành ra
cô đã được kịp thời chạy chữa trong phòng cấp cứu.
Sau này cô kể lại là bình nhật cô thường niệm Phật, nhưng
lúc đó cô đã không niệm được, nhưng chuyện cô đi phóng
sinh lại hiện ra trước mắt cô, nào là hình ảnh đau thương
của những con ếch sắp bị chặt đầu với hai tay chắp lạy
như van xin, nào là chuyện những ngày đến chợ cá thật sớm
để đón mua những sinh vật sắp bị hành quyết. Tâm từ
bi của cô đã khởi lên trong cận tử nghiệp, thiện pháp
đã bộc phát thật mạnh trong cô và như chúng tôi đề cập
về công năng của một người thường hay làm phước ở đoạn
trên, cô đã nhận được luồng sóng gia hộ để vượt qua
cái chết. Đây thật là sự vi diệu của giáo lý nhân quả,
phước quyết định cho mọi sự, chúng ta nên tận dùng thân
người này để sống một đời vị tha, đó là con đường
phải trải qua cho vơi đi bao nghiệp tội mà chúng ta đã phạm
trong quá khứ”.
Đạo
hữu Viên Nhẫn cũng góp ý về hạnh Pháp thí như sau:
“Hạnh
pháp thí gồm có truyền giảng chánh pháp cho người nghe hay
trợ duyên cho việc chuyển lăn bánh xe pháp, làm cho Phật pháp
ngày càng lan rộng. Sự trợ duyên này gồm có : ấn tống
Kinh sách, phát hành băng , tài trợ cho quý Tăng, Ni sinh đi
học, hay yểm trợ cho những khoá tu học. Gieo nhân duyên nghe
pháp cho người là công đức cao nhất trong các hàng bố thí,
nhờ nhân duyên pháp thí này mà quả báo mang lại cho đời
sau là sớm gặp được những bậc thức giả dẫn dắt trên
con đường cầu tìm học đạo. Giúp cho một người có được
thiện duyên nghe pháp là giúp họ một cơ hội tiến gần đến
Tam Bảo, xa dần những hệ lụy của bóng đêm nghiệp chướng
, mở đường cho chuyến vượt thoát dòng sinh tử luân hồi.
Một
điểm cần nêu ra ở đây để không gây ra ngộ nhận, chúng
tôi không bao giờ phản bác việc tu Huệ. Phước Huệ song
tu vẫn là điều tốt nhưng đừng bao giờ xem nhẹ việc làm
phước , vì phước là nền tảng cho Trí Huệ, là tiến trình
cho con đường vượt thoát dòng sinh tử.”
Trong
cuốn Bố Thí Ba La Mật, thày Thích Trí Siêu dạy:
“Nhờ
bố thí đời này qua đời khác, Bồ Tát gặt được nhiều
phước đức, do đó Bồ Tát tin nơi Tam Bảo, nhờ tin nơi Tam
Bảo, Bồ Tát phát tâm học chánh pháp, nhờ học chánh pháp,
Bồ Tát phá trừ tà kiến và vô minh, nhờ phá trừ vô minh
mà trí huệ tăng trưởng. . .
Tất
cả mười phương chư Phật đều bắt đầu con đường giác
ngộ bằng một hạnh đầu tiên là bố thí”
(Một
tiếng chuông)
Thưa
quý thính giả,
Như
quý vị đã thấy, bố thí vẫn là điều kiện cốt tủy cho
người Phật tử, không những thế, còn là điều cốt tủy
cho tất cả mọi người nói chung. Có câu: “Người CHO “được”
nhiều hơn người NHẬN”. Bởi vì người NHẬN chỉ được
chút vật chất, nhưng người CHO được cả một niềm vui
tinh thần, và cái thiện nhân bố thí sẽ còn lưu lại tới
sau này.
Tuy
vậy, đồng thời với bố thí là tu Phước, chúng ta cũng
cần phải trau giồi giáo lý và mỗi ngày dành chút thời giờ
để tĩnh tâm, đó là tu Huệ, tu Trí Tuệ. Chúng ta chỉ cần
ngồi lặng lẽ tại một nơi an tĩnh, nếu tại nơi thờ Phật
thì tốt, nếu không thì có thể ở bất cứ chỗ nào tĩnh
mịch, góc nhà, góc vườn, vân vân, rồi tự mình theo dõi
hơi thở của chính mình, mỗi lúc thở ra thở vô đều nhận
biết rõ, thì đó cũng là chúng ta đang đặt viên đá đầu
tiên trên con đường Tu Tuệ. Cũng như mỗi ngày chúng ta phải
tắm rửa thân thể, tâm chúng ta cũng cần có chút thời giờ
hoàn toàn an tịnh để tự thanh lọc.
Trong
lịch sử và văn học sử, những câu chuyện đẹp về những
con người sống một cuộc đời hào sảng, đầy nghệ thuật,
đều là những người biết buông xả, biết bố thí và biết
nhìn cuộc đời một cách phóng khoáng. Tác giả Vũ Thế Ngọc
trong tác phẩm Trà Kinh, có kể câu chuyện huyền thoại về
một người đàn bà nghèo nhưng hào hiệp đã vô tình sáng
tạo ra loại danh trà Long Tỉnh như sau:
“Nếu
nói rằng huyền thoại là một hình thức ca tụng những gì
người ta yêu quý, thì trà Long Tỉnh là một thí dụ điển
hình. . .
. .
. Truyện kể rằng có một bà cụ chỉ trồng được một
số gốc trà nhưng tính tình rất hào hiệp và lương thiện,
vẫn dùng trà của mình thiết đãi tất cả những nhân công
hái trà quanh vùng. Ngày kia có một phú thương đi ngang, sau
khi được uống trà, ông hết sức ca tụng bà cụ và trách
rằng người phúc đức như bà cụ thì Trời phải cho giầu.
Bà cụ chỉ cười, nói rằng tạm no và không đói rách đã
là may mắn lắm rồi.. Ông phú thương muốn giúp bà cụ nên
hỏi mua cái chậu đá khổng lồ cũ kỹ ngoài sân. Chậu đá
không hiểu có từ bao giờ và bị chôn lấp bởi hàng ngàn
vạn lá trà hàng xóm rơi sang bao nhiêu năm. Bà cụ nhận bán
và hẹn hôm sau ông phú thương cho người và xe đến dời
đi. Hôm sau ông phú thương lại lấy đồ thì bà cụ đã quét
dọn sạch sẽ, nhân tiện lấy số lá mục và bùn ẩm đó
đắp vào mấy gốc trà của mình. Không ngờ đám lá trà thâm
niên đó có một đặc tính kỳ diệu, chỉ vài ngày sau, các
gốc trà đột nhiên sinh đợt mới, hương vị lạ lùng. Bà
cụ không dấu một mình mà chia cành, chia hạt cho dân quanh
vùng để cùng trồng một loại trà tuyệt diệu. Thế là từ
đó cả vùng cùng vang danh có loại trà tuyệt phẩm”.
Ban
Biên Tập
www.thuvienhoasen.org
(Bài
này đã được phát thanh ngày 30 tháng 7 tại Nam California
và 31 tháng 7, 2005 tại Houston Texas)
Discussion about this post