DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 09
Ý NGHĨA LỄ PHẬT VÀ LẠY PHẬT
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả, chương trình hôm nay gồm có hai phấn: phần
đầu nói về ý nghĩa lễ Phật, phần sau nói về ý nghĩa
ba cái lạy của Phật Giáo. Trước hết kính mời quý
vị nghe bài pháp ngắn của Hoà Thượng Thanh Từ về:
Lạy
Phật không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ân,
chỉ vì quí kính một đấng lòng từ bi tràn trề, trí giác
ngộ viên mãn. Vì quí kính công đức trí tuệ của Phật nên
chúng ta lạy Ngài. Lạy Phật để thấy mình còn thấp thỏi
ti tiện, bỏ hết những thói ngạo mạn cống cao. Quí kính
gương cao cả của Phật để mình noi theo. Phước đức lạy
Phật là tại chỗ đó.Lễ
Phật vì dẹp ngã mạn – Bản chất con người chúng ta lúc
nào cũng tự cao tự đắc, vênh váo nghênh ngang. Đó là tánh
xấu khiến mọi người chán ghét, tiêu mòn công đức. Phật
tử biết được cái dở này, kính lạy Phật, Bồ-tát, các
bậc tôn túc, để diệt trừ tâm ngã mạn của mình. Kính
lạy các ngài là tự mình thấy không bì kịp các ngài, biết
mình thấp thì tánh ngạo mạn từ từ biến mất. Khi lạy
các ngài không mong một ân sủng nào, chỉ vì một lòng kính
trọng đức hạnh của các ngài, tự thấy mình hèn hạ thấp
thỏi, thế là mọi công đức từ đó phát sanh. Bởi đứa
ăn trộm thì phục kẻ ăn trộm giỏi, chàng võ sĩ thì nể
tay vô địch, kính trọng Phật, Bồ-tát, các bậc tôn túc
tự nhiên chúng ta có dự phần trong ấy rồi. Quả như câu
nói “kính thầy mới được làm thầy”. Chúng ta muốn dẹp
bỏ những tánh xấu, tập tành đức hạnh, kính lễ những
bậc đức hạnh là điều cần thiết vậy.Lễ
Phật vì noi gương – Kính lạy Phật, chính vì chúng ta muốn
học đòi noi theo gương của Ngài. Tại sao chúng ta phải học
đòi theo gương đức Phật? Bởi vì, Phật đã đầy đủ mọi
công đức, trí tuệ từ bi viên mãn, nên chúng ta phải học
theo. Đây chúng tôi đơn cử một công hạnh nhỏ xíu của
Ngài, thử xem chúng ta có theo kịp không?Một
hôm, đức Phật một mình mang bình bát vào thôn xóm khất
thực, bỗng có một người ngoại đạo biết Ngài và biết
rõ Phật đi đến đâu ắt đệ tử của chúng đều bỏ đạo
qui kính Phật. Nổi tức, ông đi theo sau lưng Phật mạ lỵ
đủ điều, Phật vẫn chậm rãi tiến bước đều đều không
một lời đối đáp. Đến đầu đường, ông ta chạy đón
trước mặt Phật, chặn lại hỏi: Cù-đàm thua ta chưa? Phật
ung dung trải tọa cụ xuống đất, ngồi kiết già đọc bài
kệ:Kẻ
hơn thì thêm oán
Người
thua ngủ chẳng yên
Hơn
thua hai đều xả
Ấy
được an ổn ngủ. — (Kinh Trung A-hàm)Ngoại
đạo hối lỗi ăn năn lễ tạ.Thử
hỏi hành động này của đức Phật, chúng ta có ai dám tự
hào cho mình làm được. Nếu đem danh vọng giá trị so sánh,
đức Phật là một vị giáo chủ trong tôn giáo, một vị Thái
tử ở thế gian, chúng ta hiện nay là một tín đồ trong tôn
giáo, một kẻ tay trắng ở thế gian, đức Phật bị mạ lỵ
mà không tức giận, chúng ta bị mạ lỵ có tức giận chăng?
Nếu chúng ta không tức giận cũng chưa dám bì với đức Phật,
vì giá trị danh vọng của chúng ta có ra quái gì. Huống là,
bị mạ lỵ chúng ta liền nổi giận ầm ầm. Nhìn lại đức
Phật thử xem chúng ta cách Ngài bao xa? Thế thì lạy Ngài bao
nhiêu mới xứng đáng trong việc noi gương theo Ngài? Đến
như tâm từ bi, trí giác ngộ của Phật, sánh với chúng ta
thật là trời cao vực thẳm. Đời đời kính lễ Ngài, cũng
là cái hãnh diện của chúng ta, biết kính người đáng kính.
Thế mà, có một ít người thấy chúng ta lạy Phật, họ tỏ
vẻ ngạo nghễ. Hãy nghe câu chuyện đối đáp này:Một
em gái đi chùa lễ Phật, lễ xong em vừa ra đến sân chùa,
gặp một quân nhân đứng ngắm cảnh. Thấy em, quân nhân liền
hỏi: em đi đâu thế? Bé gái đáp: em đi chùa lễ Phật. Quân
nhân hỏi: tượng Phật bằng gỗ bằng xi măng, em lễ cái
gì? Bé gái hỏi lại: Ở doanh trại anh mỗi sáng có chào cờ
không? Quân nhân đáp: sáng nào cũng chào cờ. Bé gái hỏi:
cờ bằng vải bằng màu, tại sao phải nghiêm trang chào? Quân
nhân đáp: chào tinh thần Tổ quốc được tượng trưng qua
lá cờ, chớ không phải chào vải màu. Bé gái nói: Cũng thế,
em lạy tinh thần từ bi giác ngộ của Phật được tượng
trưng qua hình tượng chớ không phải lạy gỗ lạy xi măng.
Quân nhân đành thôi không hỏi.
Thưa
quý thính giả, thưa các bạn,
Tiếp
theo đây chúng tôi xin trình bày về: Ý NGHĨA BA CÁI LẠY CỦA
PHẬT GIÁO
Lạy
hay còn gọi là Lễ Lạy, Lễ Bái, là nghi thức rất phổ thông
trong dân gian, mang ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và niềm tôn
kính đến với các đấng thần linh, các bậc tiên hiền có
công khai phá giang sơn, bảo vệ sơn hà xã tắc, và tổ tiên
dòng họ tiếp nối.
Dân
tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hoá Trung
Hoa, nên việc lễ lạy, từ hình thức đến nội dung, từ
lễ tổ tiên ông bà ở nhà cho đến lễ lạy Trời, Phật,
Thánh, Thần ở đình, chùa, lăng, miếu cũng đều bị ảnh
hưởng theo.
Hầu
hết các tôn giáo đều có lễ lạy nhưng với nghi thức và
ý nghĩa khác nhau. Với Phật Giáo, ý nghĩa và cách thức lễ
lạy khác với các đạo giáo khác.
Đạo
Phật bắt nguồn từ Ấn Độ. Tại xứ này ngày xưa, dân
chúng thường bày tỏ lòng tôn kính chân thành đến một người
nào đó họ ngưỡng mộ kính mến bằng cách quỳ xuống sát
đất, đặt trán mình lên chân của vị ấy. Đức Phật là
vị Đạo Sư, là bậc giác ngộ được tôn kính đặc biệt
tại xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.
Lúc
đức Phật còn tại thế, mỗi lần nghe pháp hay thưa thỉnh
việc gì, chư tăng thường chắp tay lạy ba lạy rồi thưa
hỏi hay ngồi nghe pháp. Đức Phật mặc nhiên chấp nhận cung
cách này như là một tục lệ có từ lâu đời của xã hội
Ấn Độ. Tuy vậy Ngài cũng không đặt thành nghi thức lễ
lạy mà để tùy tâm các đệ tử.
Sau
khi Phật Niết Bàn, hình thức lễ nghi và sự tôn kính ấy
vẫn được duy trì trong các hàng đệ tử của Ngài. Sự duy
trì hình thức ấy với mục đích là luôn luôn xem đức Phật
như còn tại thế. Chư tăng mỗi khi tụng kinh ôn lại lời
Ngài dạy, phải mặc áo cà sa tức áo mầu hoại sắc trang
nghiêm, lạy Phật ba lạy. Hàng đệ tử tại gia cũng theo gương
quý chư tăng lạy Phật như thế.
Tại
sao lại lạy ba lạy mà không lạy hai lạy, bốn lạy hay năm
lạy? Ba lạy chính là lễ lạy ba ngôi quý báu tức Tam Bảo:
Phật, Pháp và Tăng.
Người
đời thường xem vàng, bạc, kim cương, hột xoàn, dollars, và
danh lợi thế gian là quý báu. Nhưng thực tế cho biết những
thứ này không đem lại hạnh phúc chân thực, không cứu được
con người thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Nhưng với ba ngôi
quý báu Tam Bảo: Phật, Pháp, và Tăng có năng lực dẫn dắt
con người thoát khỏi mọi phiền não và ra khỏi sinh tử luân
hồi.
Phật
là Giác, là thức tỉnh ra khỏi giấc ngủ mê. Đức Phật
là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là
một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho
mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế người
Phật tử lạy cái lạy đầu tiên là để tỏ lòng thành kính,
ngưỡng mộ và nhớ ơn Phật, cùng là thề nguyện sẽ theo
gương Ngài mà tu hành để về bến giác.
Pháp
là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi
bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những lời
bàn luận của các vị Bồ tát, đệ tử của Phật để làm
sáng tỏ thêm những lời Phật dạy. Vì thế người Phật
tử lạy cái lạy thứ hai là lạy Pháp bảo nhằm bày tỏ
lòng thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến những lời
dạy của Phật, những lời dạy mà, nếu chúng ta thực hành
sẽ có công năng đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bến
bờ giải thoát.
Tăng
là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người,
bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật
đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho
tất cả chúng sinh. Vì thế cái lạy thứ ba là lạy Tăng Bảo,
từ các vị Thánh Tăng xuất thế đến các vị Tỳ Kheo trụ
thế tu hành chân chính, đạo đức trong sạch, và giới luật
trang nghiêm, để tỏ lòng thành kính và biết ơn những vị
này đã sống đời sống lý tưởng, đã hy sinh gia đình tiền
của và danh vọng, đã xem tiền bạc châu báu như rắn độc,
danh lợi như đôi dép rách, sắc đẹp như cạm bẫy, ăn ngon
mặc đẹp như xiềng xích trói buộc, để tình nguyện thay
Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo.
Ngoài
ý nghĩa lễ lạy Phật, Pháp và Tăng nêu trên, ba cái lạy
cũng còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi qúy báu bên trong chúng
ta và trong mỗi chúng sinh, vì chúng sinh cùng chư Phật đồng
một thể tánh sáng suốt (Phật tánh), đồng một pháp tánh
từ bi và bình đẳng (Pháp tánh), và đồng một đức tánh
thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tánh).
Về
cung
cách lạy cũng có nhiều thứ. Người Ấn Độ cũng như
Trung Hoa có nhiều cách lễ lạy khác nhau. Riêng Phật giáo
Việt Nam thường lạy theo phương cách “Ngũ thể đầu địa”,
tức là làm thế nào cho hai tay, hai chân và đầu chạm
mặt đất. Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong
tất cả các cung cách lễ lạy. Khi lễ lạy, người Phật
tử đứng ngay thẳng, hai chân khép sát vào nhau, hai bàn tay
chắp sát lại nhau cho khít theo thế hiệp chưởng (không phải
thế hình búp sen) tiêu biểu cho sự nhất tâm. Khi lạy Phật
có người để hai tay trước ngực lạy xuống.
Cũng
có người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống theo phương
cách ngũ thể đầu địa, tức là khi lạy phải quỳ xuống,
ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng
xuống đặt trán mình lên trên hai lòng bàn tay. Đối với
phụ nữ, thường là quì thẳng lưng rồi lạy, chứ không
đứng, vì hình thể đặc biệt của phụ nữ, khác với nam
giới nên thế đứng thẳng trông hơi lộ liễu.
Trong
đạo Phật bao giờ sự và lý cũng phải viên dung. Về sự
lẫn lý thì như trên chúng tôi đã trình bầy. Chúng ta lạy
Tam Bảo với tất cả thân tâm thành kính nhớ ơn, thành kính
nhớ ơn Phật, thành kính nhớ ơn Pháp, và thành kính nhớ
ơn Tăng. Thế còn cái tâm của chúng ta trong khi lạy phải
như thế nào? Nghĩ ngợi gì?
Tưởng
nhớ đến ai, đến cảnh gì, vật gì? Hay là để tâm không
nghĩ ngợi, không cầu mong điều gì? Để trả lời câu hỏi
này, thiết tưởng chúng ta hãy nhớ lại bài kệ “Quán Tưởng”
mà chúng ta thường tụng trước khi đảnh lễ:
Năng
lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm
ứng đạo giao nan tư nghì,
Ngã
thử đạo tràng như Đế Châu,
Thập
phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã
thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu
diện tiếp túc quy mạng lễ.
Đã
được dịch ra là:
Phật,
chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo
cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới
đế châu ví đạo tràng,
Mười
phương Phật hiện hào quang sáng ngời,
Trước
bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi
đầu xin thề nguyện quy y.
Như
thế thì bản chất Phật và chúng sinh vốn là “không tịch”
lặng lẽ, tạm gọi là chân tâm. Chỉ từ khi bắt đầu khởi
niệm, là bắt đầu bị cuốn vào dòng vô minh, rồi thức
mới hoạt động, mới suy nghĩ, mới phân biệt ra cái “ta”
(năng) và cái “không phải ta” (sở), mới nảy sinh ra tình cảm
yêu ghét, tạo nghiệp, trả quả, xoay chuyển trong vòng sinh
tử không thấy đường ra.
Phật
thương xót chúng sinh mê muội “… trong trí bồ đề mà không
thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc… ” (Lời
sám hối), mới dậy cho chúng sinh tu hành để chấm dứt cái
vòng luẩn quẩn đó bằng cách trì giới, tham thiền, niệm
Phật, trì chú, mục tiêu đều để giảm bớt sự hoành hành
của con vượn tâm, con ngựa ý, giảm bớt những thói quen
chấp trước, phân biệt, yêu ghét, từ từ đi tới định
tâm.
Khi
tâm đã “định” thì trí huệ bát nhã mới có dịp hiển lộ,
mới được hưởng mùi vị cam lồ của Phật Pháp. Đó là
điểm đặc biệt của đạo Phật. Nếu chỉ dạy con người
ăn hiền ở lành thì nhiều tôn giáo khác đã làm, đức Phật
thị hiện ra đời là dư, không có gì đặc biệt đáng được
tôn là Đấng Đại Giác. Chính là vì Ngài đã “nhận” được
cái tánh “không tịch” và tự mình dẫn đường cho chúng sinh
trong suốt 49 năm, còn để lại kinh sách làm bản đồ cho
đời sau nương theo tu tập mà trở lại được cái tánh “không
tịch” ấy.
Kẻ
nội thù dìm ta trong dòng vô minh chính là cái tâm sinh diệt
suy nghĩ liên miên này. Cho nên nếu muốn báo đền ơn Phật,
vâng lời Phật thì ít nhất là trong khi lễ lạy phải tuân
theo lời Phật dạy, không suy nghĩ gì cả, chỉ theo dõi hành
động mà thôi, lễ xuống thì chỉ biết là lễ xuống, đứng
lên thì chỉ biết là đứng lên, chắp tay thì chỉ biết là
chắp tay, v..v… không có nghĩ đến bất cứ ai, không tưởng
nhớ đến bất cứ cái gì. Hễ một niệm tưởng dấy lên
là ô nhiễm rồi, là hết “không tịch” rồi, là từ “nhất
niệm vô minh” trôi lăn vào dòng vô minh miên viễn rồi.
Nói
tóm lại, “Năng lễ, sở lễ tánh không tịch“, nghĩa
là người lạy và đấng mình lạy, thể tánh đều vắng lặng
bình đẳng. Thật tướng vạn pháp đều thể hiện một cách
bình đẳng, không phân biệt, không thấy có mình lạy và người
để cho mình lạy. Nếu khi lạy mà tâm còn vướng mắc một
chút xíu mong cầu, dù là cầu cho tha nhân, hay một chút tơ
tưởng đến bất cứ điều gì, như nghĩ đến công ơn đức
Phật, nhớ đến dòng họ tổ tiên, dù chỉ mỏng như một
sợi tơ cũng không đúng phép. Tâm phải ở trạng thái thanh
tịnh vắng lặng. Phật giáo Việt Nam đã thực hiện phép
lý lạy này từ ngàn xưa, thiết tưởng không có phép nào
đầy đủ ý nghĩa và hợp với lý Bát Nhã hơn.
Ban
Biên Tập
Discussion about this post