DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 03
CÚNG
SAO GIẢI HẠN
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đây
là chương trình truyền thanh Phật giáo do ban biên tập Thư
Viện Hoa Sen phụ trách, phát thanh mỗi tuần một lần, nhằm
truyền bá giáo lý giải thoát của Đức Phật đến với mọi
người. Chúng tôi trân trọng kính chào toàn thể quý
thính giả và nhân dịp đầu năm Ất Dậu, chúng tôi kính
chúc chư tôn Hoà thượng, Thượng Toạ, Đại Đức, Tăng Ni
cùng toàn thể quý Phật tử, quý thính gỉa, một năm mới
thân tâm thường lạc, vạn sự kiết tường như ý.
Thưa
quý thính giả,
Hoa
đào và hoa mai đã nở trên hè phố Bolsa báo hiệu mùa Tết
Việt Nam trở về, báo hiệu trời miền Nam Cali chan hòa nắng
ấm. Mai và đào là hai loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc
thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được
người Việt chúng ta yêu mến như một người bạn thân thiết,
không thể thiếu vào dịp lễ hội Tết cổ truyền của dân
tộc. Ngoài nét đặc biệt đó ra, nó còn là một biểu tượng
của sự vươn dậy sau giấc ngủ co mình trong những ngày tháng
ảm đạm và giá rét của mùa Đông. Khi nhìn thấy sắc
vàng tươi thắm của hoa mai hay mầu hồng của hoa đào người
ta còn liên tưởng rằng, nó đồng hành với mùa xuân vào
dịp xuân sắp đến, đang đến hay sẽ đến. Nó mang
lại vui tươi, hạnh phúc, may mắn, dồi dào, thịnh vượng,
sức khoẻ, trẻ trung cho mọi người. Vì vậy tập quán người
Á Châu trong những ngày tết, ngày bắt đầu một năm mới,
thường chúc tụng lẫn nhau những lời chúc lành tốt đẹp
và kiêng nói những lời không hay đẹp.
Chúng
tôi mời quý vị, mời các bạn nghe Như Nguyệt tản mạn về
mai vàng và ngày Tết trong bài viết: “Mai Vàng Mấy Độ”
“Mai
vàng sắp nở báo hiệu ngày xuân sắp đến, rồi từng cánh
mai vàng rơi cũng là dấu hiệu ngày xuân sắp tàn, con người
cũng chịu sự thay đổi trong từng sát na sinh diệt như những
đóa hoa nở hay những cánh hoa rơi. Nhưng có mấy ai thức tĩnh
biết mình đang chìm trong cơn mộng, mãi cứ đắm say với
những lạc thú của thế gian, người ta cho rằng một hiện
tượng không còn hiện hữu là kết thúc. Nhưng không, một
sự vật kết thúc không phải là hết mà là một nhân tố
để hình thành cái mới với một hình thức khác theo nhân
đã tích tụ. Những thành quả của năm cũ là nguyên nhân
dẫn đến một kết quả khác trong năm kế tiếp. Thế nên
chu kỳ một năm được kết thúc bằng một sự vui mừng,
nhộn nhịp…để hy vọng, mong mõi những thành quả kế tiếp
sẽ được tốt đẹp hơn, vì vậy tập quán người Á Châu
trong những ngày tết, ngày bắt đầu một năm mới, kiêng
nói những lời không hay đẹp, mà phải chúc tụng lẫn nhau
bất kể hiện thực ra sao.
Tập
quán này được xuất hiện rất sớm trong dân gian chúng ta,
đã là tập quán thì xấu tốt đều có. Không ít người quan
niệm rằng: “Năm mới làm điều gì thì suốt năm ấy phải
chịu như vậy”, nên những ngày tết nhất phải nói lời tốt
đẹp, làm việc có lợi thì suốt năm mới được như vậy.
Khi tôi nghe ông bà căn dặn những trẻ nhỏ như vậy, tôi
tự hỏi: Nếu những ngày tết không làm gì cả mà vẫn có
ăn thì ngày thường không làm cũng được sung túc như vậy
không? Người ta đâu biết rằng những vật chất hưởng thụ
trong ba ngày tết là một sự dành dụm của một năm gian khổ
làm việc.
Thuở
còn làm điệu tôi nghĩ nếu những ngày này lỡ có lầm lỗi
gì cũng không bị đòn nữa, nhưng mà đâu được như vậy,
thầy tôi cũng theo tập quán dân gian đó, kiêng cử những
ngày tết không la rầy các điệu trong chùa nên lợi dụng
những ngày đó các điệu chứng tôi tha hồ mà chơi giỡn,
nhưng đâu ngờ rằng thầy chúng tôi sắp lớp để đó, sau
ba ngày tết thầy tôi mang ra một lá sớ táo quân kể tội
rành mạch từng đứa và mỗi điệu phải lãnh từng bản
án khác nhau: quỳ nhang, nhổ cỏ…
Lớn
lên tôi mới hiểu đó chỉ là một phong tục của người
Trung Quốc, của người thế tục nhưng người xuất gia lại
là những người chịu ảnh hưởng nhiều hơn, vì cảnh chùa
trong những ngày tết là nơi để người phật tử chiêm bái,
cầu phúc. Thậm chí phật tử đến chùa còn được quý thầy
cô cầu chúc, những lời chúc mừng đó nghe rất là đạo
vị như: “Hưởng mùa xuân Di Lạc”, “Bồ đề tâm kiên cố”…,nhưng
ngặc nỗi người được cầu chúc cũng không hiểu đức Di
Lạc là ai, bồ đề là gì nhỉ? Có người mường tượng
ngài Di Lạc là một ông bụng to lúc nào cũng vui vẻ. Thực
ra lời cầu chúc đó không phải là không tốt đẹp, nhưng
có lẽ đẹp hơn là vào ngày Vía đức Di Lạc chúng ta nên
dạy cho phật tử biết về lược sử của một vị Bồ Tát
Di Lạc thì có ý nghĩa hơn là những lời chúc thông thường
mang tính truyền thống mà người đời thích nghe.
Thực
sự ngài Di Lạc là một vị Bồ Tát sinh đồng thời với
đức Phật Thích Ca, được phật Thích Ca thọ ký sẽ thành
phật trong tương lai, hiện tại Ngài đang là một vị Bồ
Tát giáo hóa chúng sinh tại cõi trời Đâu Suất, với tâm
từ bi và hỷ lạc vô lượng vô biên đối với chúng sinh
nên trong vô lượng kiếp về sau, ở kiếp Thành là kiếp mà
tuổi thọ con người đến 84.000 tuổi, thì Ngài được bổ
nhiệm giáng sinh tại cõi Diêm Phù Đề để giáo hóa chúng
sinh, vì chư Phật xuất thế đều giáng sinh tại một quốc
độ trung tâm, không giáng sinh những nơi biên giới, Trung Ấn
là vùng trung tâm của vũ trụ. Phật tử chúng ta ai cũng mong
rằng được sinh trong thời Bồ Tát Di Lạc xuất thế, được
trực tiếp nghe Ngài thuyết giảng, chỉ có mong mõi mà không
thực hành thì làm sao gặp được Ngài, được dự trong pháp
hội của Ngài.
Mỗi
gia đình, mọi chùa, mọi nơi…vào ngày tết truyền thống
chúng ta, giàu nghèo, ít nhiều đều mua hoa dâng cúng Phật,
tổ tiên hoặc chưng bày cho đẹp nhà cửa không khí vui tươi
trong những ngày xuân. Rồi những cánh hoa ấy cũng theo một
quy luật sinh – trụ – dị – diệt của vạn vật, lần
lượt rơi rụng vào những ngày xuân trong mọi gia đình chúng
ta, phật tử chúng ta nên nhận chân được thực tướng của
nó, của mọi pháp là duyên khởi pháp, nhân duyên hội đủ
thì hình thành, thiếu nhân thiếu duyên thì tan rả thì chúng
ta đâu phải đau buồn khi mọi chuyện đến và đi, chúng ta
không phải buồn nhớ cha mẹ, thầy tổ, bạn bè, quê hương…nhất
là những người sống nơi đất khách phải xa nhà, xa chùa,
xa tất cả những người thân…khi xuân về mà không thấy
được hương vị quê hương, nhất là thiếu cành mai vàng
mang nét đặc thù của xứ sở Việt Nam.
Mỗi
độ mai vàng nở là biểu hiện một khoảng thời gian dài
lại qua đi, phật tử chúng ta nên kiểm chứng lại chính mình
đã trưởng thành những gì trong đời sống chánh pháp, khi
chuỗi thời gian đã không ngừng biến đổi trên xác thân
tứ đại này. Chúng ta đừng để thời gian đi qua một cách
vô ích khi tuổi đời chồng chất mà đường trước mênh
mông không biết phải đi về đâu, mấy độ mai vàng nở mà
ta vẫn chưa trở về đến nơi.
Mùa
xuân hoa nở
Mai
cúc vàng tươi
Hương
tỏa khắp nơi
Ong
bướm thảnh thơi
Tranh
nhau hút mật
Ngày
xuân đi qua
Từng
cánh hoa rơi
Trơ
trọi cành lá
Bốn
mùa đổi thay
Lại
một cành mai
Báo
hiệu xuân về
Lòng
ta não nề
Đường
về còn xa
Ngày
qua!!!
Rồi
lại ngày qua
(Nhạc
Phật Giáo chuyển mục)
Thưa
quý thính giả, thưa các bạn,
Hàng
năm, vào những ngày đầu năm mà cao điểm là vào dịp lễ
Rằm tháng Giêng, một số Phật tử chúng ta ở Việt Nam cũng
như ở hải ngoại có thói quen đi chùa xin cúng sao giải hạn
để tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ. Tập tục
này hay có người còn gọi là hủ lệ có phải là một thói
quen tốt của người Việt chúng ta không? Chúng tôi mời
quý vị, mời các bạn nghe Hoàng Liên Tâm viết về “Cúng Sao Giải Hạn” cũng như so sánh việc này
với việc cầu an và cầu siêu độ trong Phật giáo, sau một
chuyến hành hương đầu năm tại quê nhà:
“Hằng
năm, cứ vào dịp đầu năm Âm Lịch, nhất là tuần lễ thứ
hai trong tháng Giêng mà cao điểm là ngày Rằm, người Phật
tử Việt Nam và Trung Hoa thường có lệ đi chùa dâng sớ cầu
an cúng sao giải hạn. Vì là ngày Rằm đầu năm nên các
chùa ở trong nước cũng như hải ngọai thường tổ chức
lễ rất trọng thể nhằm đáp ứng nhu cầu của quần chúng
Phật tử. Hầu như chùa nào cũng có chương trình cầu
an đầu năm. Tuy nhiên vẫn còn một số chùa nhận ghi
danh Phật tử cúng sao giải hạn vào ngày Rằm tháng Giêng.
Đến
thăm một ngôi chùa khá lớn và nổi tiếng tại Hà Nội vào
dịp đầu năm vừa qua, chúng tôi cũng thấy chương trình cầu
an đầu năm từ ngày mồng tám đến ngày Rằm, có cúng sao
giải hạn. Lễ Phật xong, chúng tôi vào phòng khách thăm
thầy trú trì. Trong phòng cũng khá đông Phật tử đến
nhờ thầy xem tuổi, xem sao hạn và ghi danh vào danh sách cần
cúng sao giải hạn. Chúng tôi nghe thầy nói với một
Phật tử: “Phật tử năm nay sao Thái Bạch, vào hạn khánh
tận, thái bạch là sạch cửa nhà, phải dùng tám ngọn đèn
hay tám ngọn nến làm lễ hướng Tây, mỗi tháng cúng vào
ngày Rằm, khấn đức Thái Bạch Tinh Quân”. Tới lượt
Phật tử khác và cứ như thế, người vào người ra mang trong
lòng nỗi buồn vui đầu năm theo những vì sao đã an bài cho
đời mình trong năm.
Tôi
rời chùa mà lòng như không vui, tự hỏi ai đã đem tập tục
cúng sao giải hạn vào nơi già lam, biến chốn thiền môn nghiêm
tịnh thành nơi thờ cúng Thần Tiên, cầu hên xui may rủi cho
con người và cũng thương thay cho những ai đặt lòng tin không
đúng chỗ, trao phận mình cho người khác sử lý qua việc
khấn sao xin giải trừ hạn xấu.
Thật
ra, lễ Rằm Tháng Giêng, còn gọi là lễ Thượng Nguyên là
lễ hội dân gian ở Việt Nam, được du nhập từ nước láng
giềng Trung Hoa phương Bắc. Gọi thượng nguyên là cách
phân chia theo Âm lịch: thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), trung
nguyên (Rằm tháng Bảy) và hạ nguyên (Rằm tháng Mười) của
hệ thống lịch tính theo mặt trăng. Theo một số sách
Trung Hoa, như Đường Thư Lịch Chí, quyển 18 thì có chín ngôi
sao phát sáng trên trời. Có sách nói là bảy sao, rồi
về sau có sách thêm vào hai sao La Hầu và Kế Đô. Chín
vì sao đó là Nhật Diệu, Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu,
Mộc Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La Hầu và Kế Đô. Có
sách thêm sao Thái Bạch nữa thành mười sao. Chín vì
sao này hay còn gọi là Cửu Diệu là các sao phối trí theo
các phương, sắp xếp theo mười hai chi và ngũ hành. Theo sách
này cho rằng thì hàng năm mỗi tuổi âm lịch chịu ảnh hưởng
của một vì sao gọi nôm na là sao chiếu mạng. Do đó có năm
gặp sao tốt, có năm gặp sao xấu. Hai sao La Hầu và Kế Đô
là sao xấu, là loại ám hư tinh vì hai sao này chẳng thấy
được mặt trời.
Đó
là theo tập tục dân gian vốn có từ thời xa xưa mông muội,
khi mà con người cảm thấy quá bé nhỏ trước thiên nhiên,
bị đủ loại bệnh hoạn mà chưa tìm ra thuốc chữa, cho là
vì các vị Thần trừng phạt, nên sợ sệt trước đủ mọi
loại Thần mà họ có thể tưởng tượng ra được, từ thần
Sấm, thần Sét, thần Cây Đa, cây Đề, thần Hổ, thần Rắn,
thần Núi, thần Sông (Hà Bá) v.v…
Nhưng
căn cứ vào kinh sách liễu nghĩa của nhà Phật, theo lời Phật
dạy trong Pháp Tứ Y : “y cứ theo kinh liễu nghĩa, chẳng y cứ
theo kinh không liễu nghĩa”, thì chúng tôi thấy không có ngôi
sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi
hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là
cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Tuy vậy, vẫn có
một số ít chùa, ở những vùng địa dư còn chịu nhiều
ảnh hưởng truyền thống tín ngưỡng dân gian đa thần, thì
các vị tu sĩ Phật giáo cũng đành phải, gọi là tùy duyên
hóa độ, tùy theo niềm tin của đa số quần chúng sơ cơ học
đạo giải thoát, mà tổ chức các buổi lễ lạc, bên cạnh
những nghi thức thuần túy Phật giáo, mục tiêu cũng vẫn
là dùng phương tiện để hóa độ chúng sinh, từ từ chuyển
tâm họ quay về bờ Giác. Ngoài ra, cũng có một số chùa ở
chốn thị thành, mặc dầu biết việc cúng sao giải hạn là
không phù hợp với chánh pháp nhưng vẫn duy trì, hoặc do nhu
cầu phát triển chùa cần sự trợ giúp của thí chủ, hoặc
vì lo ngại Phật tử sẽ đi nơi khác hay theo thầy bùa, thầy
cúng mà tội nghiệp cho họ phải xa dần Phật đạo.
Tại
sao chúng tôi nói là không có ngôi sao nào chiếu vào con người
mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không
có một nghi lễ nào gọi là cúng sao giải hạn cho Phật tử
cả. Bởi vì tất cả họa và phước mà con người có
được đều là do nhân quả của chính người ấy làm nên. Bảy ngôi sao, chín ngôi sao hay mười ngôi sao nói ở trên là
do chính con người đặt tên và vẽ cho mỗi ngôi sao mang một
đặc tính, chứ đức Phật không hề nói về chúng. Ngài
dạy chúng ta về nhân quả. Ngài dạy rằng không có quả
nào từ trên trời rơi xuống, hoặc dưới đất hiện lên,
mà đều do các hành động qua thân, khẩu và ý của con người
tạo ra. Con người tạo nhân tốt lành thì quả tốt lành
nhất định đến. Thí dụ như chúng ta muốn có cam ngọt thì
chúng ta phải chọn giống hay chiết cành từ cây cam ngọt,
như cam Texas chẳng hạn. Thêm vào đó chúng ta phải chăm
sóc, bón phân, tưới nước đúng thời kỳ, thì thế nào chúng
ta cũng sẽ hái được cam ngọt.
Tương
tự như vậy, mọi sự thành công hay thất bại trong đời
của mỗi người không phải do ai ban phát cho, mà do những
cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi nhân duyên đầy
đủ thì quả thành. Những nhân duyên xấu do chúng ta
tạo tác sẽ trổ quả xấu, những nhân duyên tốt sẽ trổ
qủa tốt. Nhà Phật có câu “muốn biết thời quá khứ
chúng ta đã gieo nhân gì thì cứ nhìn cái quả mà chúng ta
đang lãnh. Muốn biết tương lai chúng ta ra sao thì cứ
nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại”; Tuy
nhiên, nhân quả không đơn thuần mà rất đa dạng, trùng trùng,
chẳng phải chỉ do trực tiếp ở đời hiện tại mà lại
có thể do ảnh hưởng từ nhiều đời trong quá khứ, ngoại
trừ những người tu hành liễu đạo, tới được trạng thái
“Tâm Không” thì: “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không”(Vĩnh
Gia Huyền Giác).
Cầu
xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi
quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo
nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng. Phật
giáo dạy rằng bất luận việc gì xảy đến cho chúng ta,
đều do một hay nhiều nguyên nhân, chớ không do ngẫu nhiên,
thời vận hên xui hay số mạng an bài.
Đối
với Phật giáo, không có ngày nào xấu, mà cũng không có ngày
nào tốt, mà cũng không có sao hạn xấu tốt. Nếu ta đi coi
xăm, bói quẻ, coi sao, coi hạn, thầy nói ngày ấy tốt mà
lại đi làm những chuyện không tốt lành, như ăn trộm, gây
gỗ, đánh nhau, giết người, chắc chắn chúng ta sẽ bị pháp
luật trừng trị và ngày tốt do ông thầy nói ấy trở thành
ngày xấu ngay. Như vậy ngày tốt, ngày xấu không có cơ sở,
chỉ là do con người bày ra mà thôi. Lại thí dụ có hai đạo
quân giao tranh, đều chọn ngày tốt và giờ hoàng đạo ra
quân, vậy mà chỉ có một bên thắng, và cả hai bên, dù thắng
dù thua, cũng đều có tử sĩ và thương binh. Chọn ngày tốt
mà làm việc giết người thì quả trổ ra sẽ có chết chóc
là vậy.
Đối
với sự cúng sao giải hạn, nếu chỉ mua sắm lễ vật mang
lên chùa để xin thầy cúng sao La Hầu, Kế Đô hay Thái Bạch
gì đó để giải hạn xấu giùm thì nghịch lại lý Nhân Qủa. Nếu vị thầy cầu xin đức Thái Bạch Tinh Quân, đức La Hầu
Tinh Quân, … tha tội, giải hạn xấu nổi thì những người
giầu có cứ tạo ác rồi sau đó xin thầy cúng sao giải hạn
cho tai qua nạn khỏi, cho khỏi bị tù tội, tạo nhân ác mà
hưởng được quả thiện, thì toàn bộ nền đạo lý xây
dựng trên quan điểm về lý Nhân Quả mà nhà Phật rao giảng
phải sụp đổ sao?
Có
người hỏi rằng, nếu chỉ tin vào quy luật Nhân Quả thì
có nên cúng bái Cầu Siêu, Cầu An không?
Xin
thưa, cúng bái Cầu Siêu, Cầu An khác với cúng Sao giải hạn.
Trường
hợp Cầu Siêu, đó là một hình thức tưởng niệm người
đã qua đời, với tâm thành ước mong thần thức người quá
vãng được sanh về nơi tốt đẹp. Chuyện lời cầu có được
đáp ứng hay không thì chưa ai chứng minh bằng khoa học được.
Nhưng lòng thương nhớ mà thân nhân dành cho người quá vãng
nếu được biểu lộ bằng những buổi lễ trang nghiêm, với
niềm tin tưởng thành kính, chí tâm cầu nguyện cho người
quá vãng, thì nếu như thần thức người quá vãng còn trong
trạng thái thân trung ấm, sẽ có thể có cảm ứng tốt mà
vơi đi nỗi buồn rầu, lo sợ, sân hận, có thể tạo được
cơ hội cho nghiệp lành dẫn dắt mà tái sanh.
Ngay
như những buổi cúng giỗ, nếu gia đình người quá vãng có
thể thiết lễ trên chùa, cùng nhau vì người quá vãng mà
tụng một thời kinh, dùng một bữa cơm chay tịnh, thì ngoài
biểu tượng của lòng hiếu thảo từ con cái hướng lên cha
mẹ, hoặc tình thương mến đối với người thân nhân đã
qua đời, cũng còn là một duyên lành của những người tham
dự với nhà Phật khởi lên từ kỷ niệm đối với người
quá vãng.
Còn
trường hợp lễ Cầu An thì chúng tôi thiết nghĩ, nếu muốn
có được kết quả tốt thì chính người bệnh phải cùng
với thân nhân tham dự buổi lễ. Mà phải tham dự với tâm
niệm chí thành. Người bệnh và tất cả thân nhân đều đồng
tâm chí thành tụng niệm, thì ngay trong những giờ phút chí
thành đó, tâm họ đã thanh tịnh. Nhà Phật quan niệm rằng
tất cả Thân và Tâm đều vô thường, cho nên khi Tâm chuyển
thì nghiệp chuyển, nghiệp chuyển thì bệnh chuyển. Bệnh
là do Thân, Khẩu, Ý Nghiệp xấu tạo nên.
Có
câu: “Tâm được tịnh rồi, tội (nghiệp) liền tiêu”.
Vậy
muốn Cầu An cho có kết quả thì ngoài vị thầy, chính người
bệnh và thân nhân phải cùng nhau hành trì để cho Tâm được
tịnh. Sự kiện thân nhân nên cùng tụng niệm là để cho
người bệnh được tăng trưởng niềm tin khi thấy có bạn
đồng tu, chứ nhân vật chính vẫn phải là người bệnh.
Còn như chỉ đưa tiền cho vị thầy để nhờ thầy tụng
niệm giùm, rồi xoa tay hoan hỉ về nhà chờ kết quả thì
trái quy luật nhân quả. Vị thầy tụng niệm thì Tâm thầy
tịnh, người bệnh không được ảnh hưởng, ngoại trừ chút
hy vọng.
Đức
Phật là vị đạo sư, Ngài không làm chuyện bất công là
ban phước hoặc giáng họa cho ai, đã dạy chúng ta rằng phải
tạo nhân lành để hưởng quả tốt trong Nhân Thừa. Rồi
Ngài dạy chúng ta con đường để thăng tiến trong năm Thừa
của nhà Phật, từ Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa,
Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, rồi đi tới giải thoát
khỏi luân hồi sinh tử.
Quý
vị tu sĩ trong đạo Phật là Trưởng Tử Như Lai, hiển nhiên
là phải nối tiếp bước chân của Đức Phật mà soi chiếu
Ánh Đạo Vàng cho Phật tử, dạy Phật tử những điều Phật
dạy trong kinh. Quý vị tu sĩ Phật giáo không phải là những
người môi giới giữa Thần Thánh và tín đồ như tu sĩ của
một số tôn giáo khác, tự nhận là có thể cầu xin Thần
Thánh ban ơn giáng họa được. Chúng ta cần dùng trí tuệ
để hiểu rõ con đường Giải Thoát của nhà Phật.
Trong
kinh Phật Giáo Nguyên Thuỷ (kinh Trường Bộ), Đức Phật đã
khuyên các thầy Tỳ Kheo, những người đã thọ dụng sự
cúng dường của tín thí Phật tử, không nên thực hành những
tà hạnh như: “chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng, xem
địa lý, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng
mờ, … sắp đặt ngày lành để đưa (rước) dâu hay rể
về nhà, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ
tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa
ngày giờ tốt để cho mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để
giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người
bị rủi ro, dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng
lưỡi, dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa
chú khiến người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến
tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi
thiên thần để biết họa phước, …”
Ngoài
ra, cũng trong kinh Nguyên Thuỷ (Giải Thoát Kinh), Đức Phật
đã dạy về giáo pháp của chư Phật. Ngài dạy rằng:
“Ai
hành trì chánh Pháp
Là
cúng dường Đức Phật
Bằng
cách cao quí nhất
Trong
các sự cúng dường…”
Pháp
mà Ngài dạy có thể tóm lược trong ba điều, đã trở thành
quen thuộc với mọi người Phật tử:
“Không
làm các việc ác
Siêng
làm các việc lành
Thanh
tịnh hoá tâm ý…”
Như
vậy, nếu mỗi Phật tử đều hành trì ba điều Đức Phật
dạy kể trên thì giờ nào, ngày nào, tháng nào hay năm nào
cũng đều là giờ hoàng đạo, là ngày tốt, tháng tốt và
năm tốt cả; đâu cần phải đi nhờ thầy cúng sao giải hạn
nữa. Và hành trì như thế mới là cách cúng dường cao
quý nhất trong các cách cúng dường Đức Phật…”
(Nhạc
Phật Gíao chuyển mục)
Thưa
quý vị, thưa các bạn,
Vì
thời lượng phát thanh có hạn nên chương trình của chúng
tôi đến đây là tạm ngưng, xin hẹn quý thính giả vào lần
phát thanh tuần tới. Quý vị và các bạn có thể xem
các bài này cùng các kinh sách Phật Giáo tại website: www. thuvienhoasen.org Thư từ liên lạc xin e-mail về: thuvienhoasen@yahoo.com
Chúng
tôi trân trọng kính chào toàn thể quý thính gỉa và các bạn. Kính chúc quý vị và quý bạn một năm mới vô lượng an lạc,
vạn sự kiết tường như ý.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ban
Biên Tập
Discussion about this post