TRẢ
LỜI: Thiền duyệt có nghĩa là sự an vui trong thiền tập.
Khi mới bắt đầu tập thiền, tôi tưởng muốn an tâm và
phát triển định lực ta cần phải có một sự cố gắng
vất vả ghê gớm lắm. Tôi còn nhớ trong khóa tu thiền đầu
tiên, tâm tôi cứ suy nghĩ lung tung và chu du đi khắp mọi nơi.
Đến một lúc bực mình quá, tôi tự nhủ là nếu nó xảy
ra lần nữa thì tôi sẽ đập đầu vào tường cho biết! Nhưng
thật may cho tôi, lúc ấy tiếng chuông báo hiệu giờ ăn trưa
cũng vừa được thỉnh lên. Trong khi sắp hàng chờ lấy đồ
ăn, tôi nghe trộm hai người đứng phía sau nói chuyện với
nhau. Một người hỏi thăm người kia về thời ngồi thiền
vào buổi sáng này. Anh ta trả lời với một giọng thật vui
tươi, “Sáng này tôi ngồi chẳng được yên gì mấy, nhưng
chiều nay chắc chắn là sẽ tốt hơn”.
Tôi
quay lại nhìn anh ta với một ánh mắt kinh dị và khó tin.
“Tại sao anh lại không hề bị bực mình như tôi?”. Tôi
tự hỏi. “Anh ta có coi chuyện hành thiền là quan trọng hay
không chứ?”. Và đó cũng là lần đầu tiên chúng tôi gặp
nhau, anh ta là Joseph Goldstein. Năm năm rưỡi sau, hai chúng tôi
cùng với Jack Kornfield và một số bạn có tâm đạo, đã cùng
nhau đứng ra thành lập Trung tâm thiền tập Insight Meditation
Society. Đến lúc ấy thì tôi cũng đã hiểu được ý của
Joseph khi anh nói lên câu đầy hy vọng ấy.
Khi
sự tu tập tiến triển hơn, tôi mới hiểu những điều kiện
cần thiết cho sự phát triển định lực không phải là cái
thái độ tranh đấu, gian khổ mà tôi đã có. Theo tâm lý học
Phật giáo thì bất cứ một tâm hành thiện nào cũng đều
có một nhân duyên gần của nó. Đó là một điều kiện cơ
bản làm phát khởi lên đức tánh ấy. Ví dụ, nhân duyên
gần của tâm từ, metta, là thấy được sự tốt lành trong
người khác. Vì vậy, tâm metta dễ phát khởi nhất khi ta nhìn
thấy những cái hay, cái đẹp của người chung quanh mình.
Tôi thì cứ tưởng nguyên nhân để làm phát sinh tâm định
phải là một sự căng thẳng, tranh đấu mãnh liệt. Nhưng
hoàn toàn ngược lại, tôi vô cùng ngạc nhiên vì nhân duyên
gần để làm phát khởi định lực chính lại là sự an lạc.
Sau
này tôi mới hiểu, cố gắng trói buộc tâm mình vào trong
một đối tượng sẽ không tạo điều kiện cho định lực
phát sinh. Và trái lại, khi tâm ta buông thả, tĩnh lặng và
hạnh phúc, ta sẽ có thể định tâm rất dễ dàng và tự
nhiên. Hạnh phúc tôi muốn nói ở đây không phải chỉ là
một cảm giác vui thú thoáng qua, mà tự nó chứa đựng một
sự lo âu vì ta sợ sẽ mất đi. Hạnh phúc làm điều kiện
cho định lực mà tôi muốn nói là một trạng thái tĩnh lặng,
khi tâm ta yên ổn, cởi mở và tự tin. Đây là một khu vườn
phì nhiêu cho cây Định đâm hoa, kết trái. Nhưng làm sao ta
có thể có được trạng thái an lạc ấy đây?
Theo
tôi nghĩ, muốn có một sự an lạc, trước hết ta cần phải
có một cái nhìn cho đúng. Một cái nhìn mà Joseph đã biểu
lộ trong giờ ăn hôm ấy nhiều năm trước đây. Trong hành
trình tu tập, bao giờ ta cũng sẽ có những kinh nghiệm mà
ta cho là sự thăng trầm. Thiền tập là một tiến trình tuần
hoàn, một vòng tròn, nó thách thức hết mọi sự phân tách
nhưng đòi hỏi một sự chấp nhận. Và càng tu tập, tôi lại
càng khám phá rằng khả năng chấp nhận và cho phép những
kinh nghiệm thay đổi, nó có liên hệ đến mức độ tự trọng
của mình.
Khi
đức tự trọng của tôi vững mạnh, tôi có thể trải qua
những giai đoạn khó khăn mà không hề nản lòng. Vấn đề
khó khăn không phản ảnh sự yếu kém của tôi. Và khi gặp
những lúc an vui, dễ chịu, tôi cũng không bị lệ thuộc vào
chúng, vì sợ chúng sẽ đổi thay hoặc mất đi. Đối với
tôi, đức tự trọng là một yếu tố chủ yếu trong việc
duy trì sự an lạc và từ đó dẫn đến định lực. Tôi cũng
hiểu, mức độ tự trọng của tôi còn được cắm rễ trong
những việc làm hằng ngày của tôi nữa, chứ không phải
chỉ giới hạn trong lúc ngồi yên trên tọa cụ sự thực
tập và nó cũng đã được ghi chép trong kinh điển.
Kinh
điển Phật có trình bày cho ta thấy một trạng thái tâm thức
sẽ giúp tạo nên điều kiện cho sự phát sinh của tâm thức
kế tiếp như thế nào, theo một thứ tự ngẫu nhiên. Trong
quyển Thanh tịnh đạo, Visuddhi-magga, một tác phẩm nổi tiếng
trong bộ Luận tạng của Phật giáo Nam tông, thì sự an lạc
là một phần tự nhiên của tiến trình đi từ giới luật
cho đến sự giải thoát tối thượng.
Mở
đầu, bộ luận ấy nói rằng giới luật là nền tảng của
sự phát triển định lực. Trong đạo Phật, giới luật không
phải được xem như là những điều lệ bắt buộc, cố định.
Giới luật có nghĩa là sống với chủ ý phản ảnh tình thương
và tâm từ của ta ra đối với chính mình và người chung
quanh. Như triết gia George Santayana nói, “Giới luật là ước
muốn làm vơi bớt khổ đau cho cuộc đời”. Khi chúng ta sống
hòa hợp với chân lý muôn đời mà mọi vật trên thế giới
này đều có liên hệ với nhau, ta sẽ không bao giờ muốn
làm hại bất cứ một cái gì. Và, giới luật sẽ làm phát
khởi lên điều kiện tâm thức kế tiếp là sự câu thúc.
Câu
thúc tức là ngăn ngừa, kềm chế, là nền tảng của sự
phát triển một tâm không hối hận. Khi ta biết dừng lại
một sự thúc đẩy nhất thời, xúi giục ta hành động gây
hại, ta có thể thấy được cái tính chất vô thường và
vô ngã của ý muốn vừa khởi lên ấy. Tránh được những
hành động gây hại, ta sẽ tránh được mặc cảm tội lỗi,
sợ bị người khác biết, và nỗi bối rối, hối hận khi
ta khám phá rằng bất cứ hành động nào cũng đều đem lại
hậu quả.
Một
điều kiện tích cực phát sinh từ sự câu thúc là trạng
thái hỷ, tức vui mừng. Vì không hối hận chính là nền tảng
của sự phát triển tâm hỷ. Hỷ là một trạng thái nhẹ
nhàng và dễ chịu mà ta có trong cuộc sống, khi ta bắt đầu
biết lo cho chính mình và người chung quanh nhiều hơn. Khi chúng
ta thật sự cảm thấy một sự liên hệ với người chung
quanh, ta sẽ buông bỏ những hành động nào có tính cách gây
hại, và bớt làm những việc gì khiến ta cách biệt với
người khác. Từ đó, cái cảm giác cô đơn, xa cách của ta
cũng sẽ tan biến mất. Tâm hỷ lại là nền tảng cho sự
phát triển an lạc.
Và
ta có được sự an lạc qua phương cách đó – một sự an lạc
của vững chãi và thảnh thơi. Sự an lạc ấy sẽ không bao
giờ bị lay chuyển, cho dù vật đổi sao dời, con người có
làm cho ta thất vọng, hoặc ta không đạt được những gì
mình muốn. Hạnh phúc ấy dựa trên ý thức rằng mọi sự
sống đều có liên hệ với nhau, và hành động của ta bắt
nguồn từ một trạng thái nguyên lành và trọn vẹn nhất.
Nó bắt nguồn từ một tâm thư thái. Ta gọi đó là đức
tự trọng.
Tiếp
theo đó, như trong Thanh tịnh đạo ghi chép, an lạc lại là
nền tảng cho sự phát triển một tâm tĩnh lặng. Thay vì là
những sôi động, xôn xao mà ta thường kinh nghiệm khi mình
lo nghĩ và hối hận, tâm ta trở nên yên lặng hơn. Vì không
phải lo đối phó và tháo gỡ những rối rắm trong tâm hồn,
ta có thể an trú trong phút giây hiện tại này hơn. Tĩnh lặng,
phát khởi từ sự an lạc, là nền tảng của sự phát triển
định lực. Sự tĩnh lặng này chính là cái mà tôi đã thiếu
trong khóa tu ngày xưa, nhiều năm trước đây.
Định
là sự vững vàng của tâm, một cảm giác mà ta có khi sự
chú tâm của ta nhất điểm và mãnh liệt. Khi ta có định
lực, cánh cửa của tuệ giác sẽ mở rộng. Chừng ấy, ta
có thể nhìn thấy được sự việc như chúng thật sự là,
và không để bị méo mó qua những lăng kính của sự ưa thích
và ghét bỏ của ta. Chính nhờ bỏ đi những lăng kính này
mà ta bắt đầu biết tin tưởng vào khả năng cảm nhận sự
thật của mình. Một cái nhìn và hiểu biết đúng đắn, khi
đã thật sự trở thành một phần trong đời sống của ta,
sẽ là nền tảng cho sự phát triển một tâm bình thản.
Tâm
bình thản không phải là một thái độ lãnh đạm và dửng
dưng, mà là một tâm thức bao la, trong đó ta cảm thấy trọn
vẹn và đầy đủ, cho dù hoàn cảnh cuộc đời có thăng trầm
đến đâu. Nó là một sự trầm tĩnh trước những biến động
của cuộc đời mà ta phải liên tục đối diện. Cho dù ta
có đạt được những gì mình muốn hay không, chúng ta vẫn
thấy được vấn đề trong đúng phối cảnh của nó. Ta vẫn
có thể làm những gì cần làm, để làm vơi bớt khổ đau
của mình và của kẻ khác, nhưng hành động ấy sẽ phát
xuất từ một hạnh phúc nội tại. Đó chính là Joseph trong
giờ ăn trưa hôm ấy, mặc dù lúc đó tôi cho rằng anh ta quá
tầm thường, vì anh đã không tự hành hạ mình giống như
tôi.
Sự
bình thản là nền tảng cho sự phát triển một tâm bớt tham
lam và giận dữ. Một khi chúng ta đối diện với cuộc đời
bằng một tâm quân bình và hạnh phúc, ta sẽ không còn bị
phản ứng máy móc theo thói quen và tập quán của mình nữa,
như là lúc nào cũng chạy theo lạc thú và trốn tránh đớn
đau. Những tập quán lâu đời ấy sẽ thôi không còn cắm
rễ vào tâm ta như xưa. Và nếu chúng có khởi lên cũng sẽ
rất là mềm yếu, ta không cần phải sợ hãi vì biết mình
có một sự chọn lựa và không để chúng sai sử như trước.
Sự
phai mờ của tâm tham lam và sân hận là nền tảng của giải
thoát. Giải thoát chính là một sự hiểu biết chân lý mãnh
liệt đến nỗi ta không còn có thể quay trở lại được
nữa. Khi ta tiếp xúc với những kinh nghiệm của mình không
bằng thành kiến, không cố gắng dùng chúng để khỏa lấp
một sự trống vắng nào trong ta, ta sẽ thấy được rõ ràng
những gì đang có mặt. Chúng ta có thể cởi mở ra với sự
sống và học hỏi nó, vì chân lý của cuộc đời bao giờ
cũng có mặt trong mỗi kinh nghiệm của mình. Khi ta có chánh
niệm, ý thức rõ ràng và không phê phán, ta sẽ khám phá được
nguyên nhân của khổ đau cũng như sự chấm dứt của khổ
đau.
Sự
tiếp nối này, như đã được diễn tả trong Thanh tịnh đạo
– giới luật, ngăn giữ, hỷ, lạc, tĩnh lặng, định, bình
thản, sự phai mờ của tham lam và sân hận, và giải thoát
– chúng tiếp theo nhau thật tự nhiên như sự chuyển động
của một làn gió. Và an lạc, khi được nhìn dưới ánh sáng
của tiến trình này, sẽ trở thành một phần của con đường
tu tập. Ta sống với tình thương, lòng từ bi, tâm bất hại,
và chúng sẽ dẫn ta đến một khung trời giải thoát.
Mặc
dù an lạc tự nó là mục đích, là quả trái của thiền tập,
nhưng nó cũng là một phương tiện, một trạng thái tâm thức
mà ta có thể có ngay bây giờ và ở đây, chỉ cần ta biết
tự trọng và sống với tình thương. Và niềm an lạc ấy
là một nguyên tố chủ yếu giúp ta giải thoát khỏi mọi
khổ đau trong cuộc đời này.
Sharon
Salzberg – Nguyễn Duy Nhiên chuyển dịch
Trung
tâm thiền tập Insight Meditation Society
Discussion about this post