CON ĐƯỜNG HOẰNG PHÁP CỦA TĂNG GIÀ VIỆT NAM TẠI MỸ
Thích Thông Hải
(Bài tham luận trình bày trong “Hội Luận 2012 – Phật giáo Việt Nam tại Mỹ –
Nhìn về Tương Lai, Cơ hội và Thách thức” của Hội Phật học Đuốc Tuệ tại California, ngày 16/12/2012)
I. Nhu Cầu Cần Thiết Để Tổ Chức Khóa Tu Dưỡng Giảng Sư
Nhu cầu cần thiết để tổ chức
khóa tu dưỡng giảng sư là để tạo điều kiện cho Tăng Ni và trụ trì các Tự Viện
có đủ năng lực phục vụ Đạo Pháp, mở ra và định hướng cho thế hệ trẻ tương lai,
đem Đạo Phật vào tận các nơi xa không có hình bóng chư tăng hoằng pháp.
Chư Tôn Đức giảng sư là những
người kế thừa tinh thần hoằng pháp của Chư Tôn Thiền Đức quá khứ, còn có một
hướng nhắm là hòa hợp, hội thông, liên kết qua hai chiều. Chiều dọc từ các bậc Tôn Đức Tăng Già tiền
bối trưởng thượng, đến thế hệ trưởng thành hiện tại, các thế hệ mầm non và
tương lai xa hơn. Chiều ngang gồm các
Tăng Sĩ của các hệ phái Phật Giáo Việt Nam có mặt nơi các nước Tây Phương,
những vị ấy có thể là Tăng Ni sinh trẻ, là Trụ Trì các Tự Viện. Các Thượng Tọa đã từng có mặt trong các công
tác hoằng pháp, giáo dục, dịch thuật. Các vị ấy có thể đang tu tập những pháp môn khác biệt, sinh trưởng và cư
trú trên các địa vực trong và ngoài đất nước Hoa Kỳ.
II. Bản Hoài của người Tăng Sĩ
Bản hoài của người Tăng Sĩ Việt Nam nơi hải
ngoại là mang tuệ giác của Đạo Phật thâm nhập thật sự vào xã hội và văn hóa Tây
Phương, để Đạo Phật tồn tại và phát triển.
Quá khứ lịch sử đã từng chứng minh sự
hội nhập của Đạo Phật vào các vùng văn hóa xa lạ, kỳ thị, đối kháng. Các bậc Thánh Tăng đã mất nhiều công sức, qua
các thế hệ, trải qua nhiều thế kỷ để làm cho Phật Giáo có mặt thật sự ở các
nước phương Đông. Hiện tại và tương lai
mục đích của hàng tăng sĩ nơi Hải Ngoại là cố gắng làm công việc mà lịch sử đã
vô tình giao phó như các bậc tiền bối đã từng làm: Mang tinh hoa giáo lý từ bi
giải thoát và tuệ giác vô ngã của Đức Thế Tôn hiến tặng được cho con người ở xã
hội mình đang sống, hầu xứng đáng với bản hoài của Trưởng Tử Như Lai. “Hoằng pháp vi gia vụ lợi sanh vi sự nghiệp”
và “chỗ nào chúng sanh cần con đến, chỗ nào Đạo Pháp cần con đi, không quản
gian lao không nề khó nhọc” như những bậc Thầy quá khứ đã từng thể hiện.
III. Nền Tảng Căn Bản
Một Tăng Sĩ của Đạo Phật
trưởng thành từ nền tảng căn bản của Tam Vô Lậu Học vững chắc thì tự thân đã là
một “Sứ Giả Như Lai”. Tuy nhiên, tùy
theo văn hóa từng địa vực khác biệt, hoàn cảnh sống và trình độ tri thức của
con người trong xã hội từng thời mà yêu cầu cho một Sứ Giả Như Lai được biểu
hiện cụ thể qua ba yếu tố có mặt ở tự thân thật vững chãi. Ấy là pháp học, pháp hành và phương tiện
hoằng pháp. Có được ba yếu tố nầy và
được trui rèn vững chắc mới có thể làm cho Đạo Phật có mặt ở chiều rộng và
chiều sâu trong xã hội mình đang sống. Do vậy, yêu cầu đặt ra cho chính tự thân mỗi vị Sứ Giả Như Lai rất
nặng. Vị ấy ngoài khả năng nội điển thâm
sâu, tri thức thế gian khá rộng, phẩm chất đạo hạnh ưu tú, còn phải bén nhạy để
cập nhật hóa phương pháp truyền đạt nhịp nhàng với bước phát triển xã hội Tây Phương. Tất nhiên vai trò nặng hơn vẫn thuộc về ban
giảng huấn. Bằng tất cả tấm lòng của các
bậc Thầy lớn đã trải nghiệm tu học, Quý Thầy sẽ truyền trao tất cả kinh nghiệm
tu học và hành đạo của mình đến các vị Sứ Giả Như Lai.
IV. Chương
Trình Tu Học và Hoằng Pháp.
a. Tu Học –
Nội
điển là trọng tâm của chương trình đào tạo một vị Giảng Sư, do vậy một vị giảng
sư cần phải am tường những kinh điển của hai hệ Tam Tạng Thánh Điển Nam và Bắc
truyền. Ngoài ra, còn được nâng cao tri
thức bằng các môn lịch sử Phật Giáo, tâm lý xã hội, nghệ thuật thuyết giảng,
phương pháp sư phạm nghi lễ, hành chánh cộng với những buổi sinh hoạt ngoại
khoá, thỉnh giảng … Song song đó Anh
Ngữ được đặc biệt quan tâm vị giảng sư cần phải sử dụng lưu loát hai ngôn ngữ
Anh và Việt.
Dù
rằng trong học đã có tu, pháp hành được triển khai và truyền đạt cùng thời với
pháp học. Tuy nhiên, phẩm chất của vị
Như Lai Sứ Giả không chỉ biểu hiện ở khả năng thuyết giảng, mà phải nằm sâu
hơn, nền tảng vững chắc hơn ở chỗ tâm hành và thân giáo. Vì vậy, những tuần lễ thu xếp hết các Phật
Sự, sách Kinh để tỉnh tu được đặt ra, hầu chư tăng ni có cơ hội củng cố định
lực.
b. Hoằng Pháp –
Chương
trình hoằng pháp của một vị tăng sĩ rộng, hẹp, cạn, sâu tùy theo mức độ tu học
và hành trì tu học của từng cá nhân của mỗi vị tăng sĩ, cộng thêm vào đó nhu
cầu học Phật của Phật Tử ở các trú xứ. Có thể mở ra các hướng thuyết giảng được thỉnh mời như sau:
– Giảng dạy tại các
trú xứ, trung tâm, chùa, viện, tịnh xá….
– Mở những khóa tu
cho các em thanh thiếu niên.
– Mở khóa tu gieo
duyên.
– Mở những khóa tu
định kỳ.
– Những ngày quán
niệm tập trung lớn, hoặc nhỏ.
– Đáp ứng nhu cầu
thỉnh giảng tại các nơi khác.
– Tổ chức các buổi
pháp thoại công cộng.
– Tổ chức các
chương trình trao đổi, tiếp xúc thảo luận với sinh hoạt học đường để tiếp cận
và thâm nhập vào môi trường giáo dục nhân gian.
Ngoài ra chương trình hoằng pháp còn
có thể mở vào các hướng văn học, nghệ thuật … truyền hình, truyền thanh, mạng
internet … hầu đáp ứng nhu cầu tu học ngày một rộng của nhiều tầng lớp người
trong xã hội.
V. Bổn Phận và Trách Nhiệm của Sứ Giả Như
Lai.
a. Vai trò giáo dục của Sứ Giả Như Lai – Định hướng gần là xây
dựng một phần cho nền tảng giáo dục nhân
bản của xã hội hiện tại. Định hướng xa
là thành tựu giải thoát cho mỗi con người. Chắc hẳn sự phát triển của xã hội hôm nay và con người còn giữ gìn được
ít nhiều di sản văn hóa của tiền nhân để lại đều nhờ sự có mặt của nền giáo
dục. Tuy nhiên ở góc độ nào đó giáo dục
xã hội đã không đóng được vai trò định hướng nhân bản cho loài người, nên có
lúc thiên tai dịch họa không đáng sợ bằng nhân họa. Tính chất bạo hành hủy diệt của con người làm
cho cả hành tinh run sợ. Đã đến lúc nhân
loại tiến bộ đang tìm cách thúc đẩy nền văn minh đi vào hướng nhân bản. Trong định hướng nầy công tác truyền giáo của
Đạo Phật sẽ đóng vai trò quan trọng nhất cho xã hội. Bằng vào giáo lý duyên sinh vô ngã Đạo Phật
có khả năng gỡ bỏ niềm tin mù quáng của con người, loại trừ tính chất độc tôn
giáo điều, độc tôn chân lý của tôn giáo. Hóa giải bạo hành bằng từ bi, dẹp nhân họa bằng trí tuệ. Pháp hành Phật dạy nâng phẩm chất hạnh phúc
con người vượt khỏi thú vui ngũ dục phù du, làm cho đời sống có chiều cao và
chiều sâu. Cuối cùng Đạo Phật trao cho
con người cơ hội chứng nghiệm trọn vẹn giác ngộ tự tâm. Đây chính là nền giáo dục nhân bản nhất đang
có mặt trên hành tinh này. Dĩ nhiên
những công trình ấy tùy thuộc vào cơ chế tổ chức và phẩm chất, nội dung của sự
truyền đạt, để hình thành định hướng nhân bản tất yếu cho xã hội. Trong quá khứ vai trò giáo dục từng đặt nền
tảng cho sự phát triển tôn giáo, xã hội. Các tôn giáo đã đi qua con đường nầy để mở rộng thế lực củng cố quyền
uy. Tuy nhiên khi có mặt uy quyền và thế
lực hoạt động tôn giáo dễ bị thế tục hóa và rơi dần vào thế tự hủy diệt bản chất
tôn giáo của mình. Tự thân nền tảng giáo
lý vô ngã của Đạo Phật, xóa mất con đường thế tục hóa khi Tăng Già đi vào lĩnh
vực giáo dục. Giáo chế của Đức Phật,
pháp qui của Tăng Đoàn quá khứ cho đến tổ chức Tăng Già hiện tại chưa hề có mặt
tính chất áp đặt và pháp quyền. Đây là
niềm tự hào lớn nhất của Đạo Phật. Lịch
sử từng chứng minh tính chất trong sáng trên con đường truyền giáo của các bậc
Thánh Tăng.
b. Gánh lấy trách nhiệm trước lịch sử – Đạo Phật đã theo chân những đợt
người di dân từ Á Châu đi vào các nước Phương Tây rất sớm. Các bậc Đạo Sư lớn phương Đông từng đặt chân
du hóa các nơi này, các Ngài đã từng vỡ đất gieo hạt mầm Phật Pháp trong lòng
người bản địa. Và không phải ngẫu nhiên
có mặt hai triệu người Việt bỏ nước ra đi để hình thành một cộng đồng Phật Tử
lớn làm chân đế cho chư Tăng Ni thiết kế công trình vật chất ngắn hạn tầm
thường. Lịch sử nghiệt ngã bắt người
Việt rãi nhiều xương trắng máu đào trên quê hương, trên con đường vượt trùng
dương sinh tử, thì người Việt có quyền đòi lịch sử trả lại mình quà tặng cao
quí hơn. Nếu con đường tơ lụa mở ra cho
thượng giới thì con đường ấy cũng mở ra cho Đông Tây văn hóa giao lưu và các
bậc Thánh Tăng mang Đạo Phật thâm nhập vào Trung Thổ. Con đường đỏ xâm lăng vào đất Tạng thì con
đường khác tức khắc mở ra để Mật Thừa – vốn được bảo trì cẩn mật – chảy vào các
quốc gia phương Tây. Trong khi Phật Giáo
tại chính quốc gia Ấn Độ bị bức hại từ thế kỷ thứ 13 thì Đạo Phật Đại Thừa đã
phát triển rực rỡ trên các quốc gia lân cận. Vận hội lịch sử nào cũng trao cho người con Phật những cơ may để truyền
đạo. Điều quan trọng còn lại là các
trưởng tử Như Lai có chịu nghiêng vai nhận lấy sứ mệnh lịch sử giao phó cho
mình không.
Quá
khứ Đạo Phật đã thấm vào các vùng văn hóa đa dạng, đặc thù phương Đông như nước
thấm vào lòng đất. Đạo Phật đến để dâng
tặng tuệ giác, nâng cao phẩm chất văn hóa bản địa mà chưa hề hủy diệt, bôi xóa
hay gây thương tổn gì cho bất cứ nền văn minh của dân tộc nào trên hành tinh
này. Con đường truyền giáo tự ngàn xưa
nhiều bậc Thầy đã mở ra và các thế hệ Tăng Già đều kế thừa để hình thành một
dòng chảy chưa bao giờ tắt. Thế hệ Tăng
Ni trẻ có mặt hôm nay trên các đất nước Phương Tây này, đương nhiên là những
người gánh lấy sứ mệnh lịch sử trao cho nối liền dòng chảy tuệ giác vượt vạn
dặm trùng dương thấm vào vùng đất mới. Có như vậy, mới xứng đáng với sứ mệnh lịch sử của cộng đồng người Việt
đã đặt chân trên quê hương thứ hai này.
c. Công trình của tập thể – Muốn chuyển hóa và nâng cao tâm thức một
con người đạt được chân thiện mỹ, không đơn giản như quy hoạch xây dựng một
thành phố lớn trên đất Mỹ. Huống chi
gieo hạt mầm trí huệ chuyển hóa tâm thức một xã hội; hẳn tâm nguyện công sức
đầu tư phải to lớn. Công trình tổ chức
và hoạt động của Phật Giáo không phải là công trình cá nhân. Thế giới chưa hề có công trình vật chất, tinh
thần nào do một cá nhân làm nên cả. Các
bậc Thầy lớn trên con đường hoằng pháp cũng chưa bao giờ thành đạt được bằng tư
cách cá nhân. Tất nhiên một cá nhân hoàn
thiện là yếu tố tiên quyết để hình thành những thuận duyên hỗ trợ. Tuy nhiên phải trùng trùng thuận duyên,
nghịch duyên hỗ trợ để hình thành các Bậc Đạo Sư, các vị Thiền Sư lỗi lạc ở
trong quá khứ và đương thời.
d. Xây
dựng nền tảng Đạo Phật cho thế hệ tương lai – Tương lai không ở phía xa mà
được biểu hiện ngay trong hiện tại. Nhìn
tổ chức sinh hoạt của các già lam tự viện chỉ thấy thuần các bậc “cổ lai hy”
thì ước đoán được sự tàn lụi của Đạo Phật trong vài thập kỷ tới. Quá khứ đã có nhiều cộng đồng Phật Tử, Tăng
lữ Đông phuơng đến Hawaii – hoặc các tiểu bang khác trên đất Mỹ – xây dựng tự
viện nguy nga từ hơn 100 năm nay, nhưng sự suy tàn đã đến vào thế hệ thứ hai
hoặc thứ ba của những người di dân. Và
hầu hết các sinh hoạt Phật Giáo từ truyền thống Á Châu có mặt trên đất Mỹ đang
đi trên vết xe này. Dường như đối với số
đông người Tây Phương theo Đạo Phật vẫn còn là một chậu bonsai đẹp dùng làm món
trang trí mà thôi. Tất nhiên đem một Tôn
Giáo xa lạ nhiều hình thái tín ngưỡng và nghi lễ nặng nề thâm nhập vào vùng đất
văn minh, có nền tảng tín lý đối nghịch lại mình là việc làm cực khó. Và khó khăn được gia cố với nhiều yếu tố tiêu
cực khác như kiến trúc lòe loẹt cung đình, văn hóa đa thù phức tạp, giáo lý
trừu tượng siêu hình, tâm thức nặng cảm tính, gây nên phản ứng nghịch ban đầu
khi người Mỹ tiếp xúc Đạo Phật. Đặc biệt
là cộng đồng Tăng lữ không thể truyền đạt, triển khai, phổ biến giáo lý Đức
Thích Tôn trực tiếp bằng Anh Ngữ. Từ các
điều kiện bảo thủ ấy, vô tình đã làm nên sự tàn lụi của Đạo Phật mà cộng đồng
Phật tử Á Châu đã đầu tư rất nhiều công sức xây dựng.
Do
đó, chúng ta cần phải có những sự thay đổi những chương trình hoằng pháp cho
được thích nghi với nền văn hóa tại bản địa như là:
1. Chuyển toàn bộ nghi lễ, tụng tán, pháp chế,
pháp quy, Bố Tát, giảng dạy, pháp thoại, sinh hoạt trại, đoàn, gia đình Phật Tử
… và các công tác giáo dục thanh thiếu niên bằng Anh Ngữ.
2. Nghiên cứu, khảo sát và chiêm nghiệm hoàn
cảnh, xã hội, nhu yếu tâm thức con người hôm nay trên đất nước này; rồi chỉnh
lý, bổ sung, cắt giảm những gì không cần thiết trong hình thái và nội dung sinh
hoạt của Đạo Phật, hầu làm cho Đạo Phật tươi mát, trẻ trung có nội dung sống
động thật sự. Trong quá khứ, Đạo Phật từ
Ấn vào Hoa Hạ đã trở thành Phật Giáo Trung Hoa. Từ Hoa, Phật Giáo vào Nhật đã trở thành Phật Giáo Nhật Bản. Việt Nam
tiếp nhận hai nguồn Nam Bắc truyền, Phật Giáo đã hình thành Phật Giáo Việt Nam. Đến bất cứ nơi nào Đạo Phật phải chuyển mình
để hội nhập, tồn tại và phát
triển. Bao giờ Đạo Phật trở thành Đạo
Phật Mỹ. Tăng sĩ trở thành Tăng sĩ Mỹ
thì Đạo Phật mới thật sự sống, có mặt và bước tới tương lai.
3. Hình thành những trung tâm tu tập và đào tạo
Tăng tài là nhu yếu tồn tại
cho tự thân Đạo Phật; củng cố những già lam tự viện có đủ điều kiện tu học cho Phật tử là nhu
yếu gìn giữ phẩm chất và phát triển của Đạo Phật. Hiện tại chùa
viện đang đi dần vào con đường tư hữu, và có lắm chùa thiếu không gian sinh hoạt, pháp lý chưa ổn định, không biểu lộ được tính cách
một ngôi chùa. Trong quá khứ chùa viện là biểu tượng của nét
văn hóa xã hội. Một danh lam thắngcảnh có không gian thanh bình, và
một cộng đồng Tăng Lữ hòa hợp tu tập tỏa sáng năng lượng thanh thoát an lạc. Ấy cũng là nơi đào tạo giáo dục phẩm chất cho con người
từ cạn đến thâm sâu hơn. Vì vậy, hồi phục lại những gì đã từng có
trong Đạo Phật là việc làm cần thiết để xây dựng nền tảng phát triển cho các thế hệ tương lai.
e. Thành tựu bản hoài và tâm
nguyện –
Chắc hẳn đệ tử đức Điều Ngự không quan niệm “xử thế nhược đại mộng, hồ vi lao kỳ sinh” (1), mà coi
nhân gian là đạo tràng hoằng pháp. Các
bậc Thầy quá khứ cũng từng coi mình là kẻ nợ phải nhả hết tơ mềm đền ơn những
chiếc lá dâu. Mang hạnh nguyện Bồ Tát
vào đời với bản hoài độ sinh, nhưng chưa thành tựu đạo hạnh tự thân là một tai
họa cho chính Đạo Phật và cuộc đời. Những kẻ thiếu năng lực trí tuệ mà lãnh đạo quốc gia với nhiệt tình cuồn
cuộn là những kẻ sát nhân, đưa cả dân tộc vào lầm than, đói nghèo, tụt hậu. Ở lĩnh vực giáo dục tùy mức độ dốt nát của
con người làm công tác truyền đạt mà mức độ hủy hoại tâm thức nhân sinh một thế
hệ hay nhiều thế hệ. Do vậy, hành trang
của một vị Tăng Sĩ phải được định nghĩa trước tiên là đủ năng lực trí tuệ với
bản hoài thành tựu giác ngộ tự thân, mang hạnh phúc và an lạc đến cho con người
bằng chánh pháp.
Quá khứ từng có nhiều chi
nhánh tu trong truyền thống Phật Giáo hoặc thiên trọng pháp học, hoặc thiên
trọng pháp hành, hoặc chỉ biết con đường hoằng pháp. Dĩ nhiên đã gây ra nhiều khó khăn cho riêng
tự thân và chung cho dòng chảy Đạo Phật. Vì thế, pháp học, pháp hành và phương tiện hoằng pháp là kim chỉ nam cần
phải có trên con đường hoàn thiện phẩm chất giác ngộ tự thân mới thành tựu bản
hoài và hạnh nguyện.
Các bậc Bồ Tát đăng địa
thường “lưu hoặc nhuận sanh” (2), xuống lên trong thế trần hằng sa kiếp để giáo
hóa con người, thệ rằng chưa chứng quả giác ngộ viên mãn chưa rời bản hoài và
hạnh nguyện độ sinh. Trong tứ chúng đệ
tử của Như Lai là những người được sinh ra từ giáo pháp Đức Thích Tôn, ở nhà
đấng Pháp Vương, thừa tự sự nghiệp tu học, hoằng pháp của các vị Bồ Tát, nên
nguyện “mang an lạc và hạnh phúc đến cho chư thiên và loài người” là việc làm
tất yếu.
Thích Thông
Hải
______________________________________________________________________________
Chú thích:
(1) Câu nói của Lý Bạch
trong bài “Tương Tiếu Tửu” ý nói rằng: Cuộc đời như giấc mộng, làm gì cho nhọc mệt tấm thân.
(2) Lưu hoặc nhuận
sanh: Giữ lại một chút mê lầm để sinh trở
lại nhân gian.
thượng Thích Thông Hải sinh năm 1951 tại Bến Tre, Việt Nam. Xuất gia năm 11 tuổi với Hòa Thượng Thích
Thanh Từ, viện trưởng Thiền Viện Trúc Lâm, Đà Lạt. Thọ Cụ Túc giới năm 1976.
-
Tốt nghiệp Cử nhân Tôn Giáo Tỷ Giảo năm 1989 và Cao học Public Health năm
1997 tại Hawaii University, Hoa Kỳ. -
Tốt nghiệp Cử nhân Acupuncture tại Oriental Medical University, Hawaii,
Hoa Kỳ, năm 1993. -
Thành lập bệnh viện dưỡng lão Paradise Nursing Home tại Honolulu,
Hawaii, từ năm 1997 đến năm 2004. -
Viện trưởng Thiền Viện Chân Không – Honolulu, Hawaii, Tu Viện An Lạc –
Ventura, California, Thiền Viện Chân Không – Chatsworth, California. -
Hiện là Tổng Vụ
Trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội của GHPGVNTN Hoa Kỳ. -
Tác phẩm dịch thuật đã xuất bản: Thiền và Sự Thể Nghiệm Tâm Linh, Học Thuật và Tư Tưởng Thiền, Thiền Tại
Phật Học Trung Quốc; Truyện tranh màu song ngữ Việt Anh dành cho thiếu
nhi: Truyện Cổ Tích Phật Thích Ca, Truyện
Cổ Tích Chàng Vô Não Angulimala.
Discussion about this post