TÌNH BẠN THEO QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO
Thích Minh Thành
Chia sẻ và có tấm lòng
Chớ thâncận bạn ác Chớ thân
kẻ tiểu nhân Hãy thân
người bạn lành Hãy thân
bậc thượng nhân.
(Kinh Pháp Cú, câu78)
Bạn bè ảnh
hưởng đến chúng ta rất nhiều. Vì vậy, việc chọn bạn để kết giao sẽ quyết định
đến sự tiến bộ của chúng ta. Qua kinh nghiệm của chính bản thân, chúng ta có
thể thấy được mức độ tác động của bạn bè đối với chúng ta như thế nào. Hãy nhớ
lại những khi chúng ta bị rơi vào tình trạng rối khổ và chiêm nghiệm xem những
lúc ấy do chúng ta kết thân với những người bạn không xứng đáng nên đã chuốc
lấy những rắc rối, đau khổ đó như thế nào. Tương tự như vậy, hãy nhìn lại những
hạnh phúc và những hiểu biết mà chúng ta có được do sự thân cận với những người
bạn có lòng.
Những phẩm
chất nào để nhận biết đó là người bạn tốt? Những người nào chúng ta nên tránh
né? Để ngắn gọn, chúng tôi xin trình bày một đoạn trích từ kinh Thiện Sanh nói
về tình bạn. Xem xét từng điểm và suy nghĩ trong mối liên hệ đến những sự việc
cụ thể trong cuộc đời, chúng ta sẽ có được một hiểu biết rõ ràng về những mối
quan hệ bè bạn của chúng ta.
Mặc dầu những
điểm sau đây chỉ cho thấy những phẩm cách mà chúng ta cần xem người bạn của
chúng ta có hay không; điều không kém quan trọng là chúng ta cũng phải kiểm tra
xem bản thân mình có hay không có những phẩm cách này. Đây là cách hướng dẫn
rất thực tiễn, chỉ cho chúng ta những tính cách nào tự thân chúng ta cần nên
diệt trừ và những phẩm cách nào tự thân chúng ta cần nên trau dồi. Nhờ vậy,
những người tốt sẽ tìm đến chúng ta để cùng làm bạn tốt với nhau.
Bạn xấu có
bốn hạng, những người này thật ra là kẻ cừu địch giả vờ làm bạn đó thôi:
1. Loại
bạn đến với chúng ta tay không và khi đi thì trong tay phải có. Đó là những
kẻ:
– Thăm chúng
ta với ý định lấy đi cái gì đó.
– Tặng chúng
ta ít thôi và mong muốn nhận lại nhiều.
– Chỉ giúp
chúng ta khi bản thân họ đang bị nguy hiểm.
– Liên hệ với
chúng ta chỉ vì những động cơ vị kỷ.
2. Loại
bạn đầu môi chót lưỡi và loại tình bạn mỏng như cánh chuồn. Đó là những kẻ:
– Niềm nở rồi
hoang phí thời gian của chúng ta bằng những câu chuyện về quá khứ.
– Niềm nở rồi
hoang phí thời gian của chúng ta bằng những câu chuyện về tương lai.
– Tìm cách
đạt được những lợi ích từ chúng ta bằng cách xung phong giúp đỡ những lúc chúng
ta không cần sự giúp đỡ.
– Những khi
chúng ta cần giúp đỡ thì họ nêu lên nhiều lý do để thoái thác và không chịu ra
tay.
3. Loại
bạn nịnh hót và giả vờ quan tâm, săn sóc chúng ta. Đó là những kẻ:
– Khích lệ
chúng ta khi chúng ta làm những điều không tốt.
– Ngăn cản
chúng ta khi chúng ta làm những điều tốt.
– Ở trước mặt
thì khen ngợi chúng ta.
– Ở sau lưng thì chỉ trích chúng ta.
4. Loại
bạn đưa chúng ta đến chỗ sa đọa. Đó là những kẻ:
– Làm người
đồng hành với chúng ta trong các buổi ăn chơi, hút sách.
– Lang thang
ngoài phố với chúng ta trong đêm hôm tăm tối.
– Cùng đi xem với chúng ta những buổi biểu diễn
không lành mạnh.
– Đi chơi cờ
bạc với chúng ta.
Có những quan hệ bằng hữu cởi mở và thân thiết với
những hạng người như trên thì chúng ta sẽ gặp những khó khăn, rắc rối. Tốt hơn
là chúng ta nên giữ một khoảng cách an toàn nhưng không nên chỉ trích họ. Mặc
dầu có thể cho rằng một hành động nào đó là không tốt, chúng ta không thể nói
người đã làm hành động đó là một người độc ác, không thể dung thứ. Vẫn có lòng
bi mẫn và có những mong ước tốt đẹp đối với người đó, nhưng chúng ta nhất định
không chịu đồng hành vì chúng ta biết rằng nếu đồng hành với người như
vậy chúng ta sẽ phải đi về một hướng mà chúng ta không muốn đi.
Cũng theo cách trên, Đức Phật miêu tả những phẩm
chất của người bạn tốt. Đó là những người mà chúng ta có thể tin tưởng và nương
tựa. Nhờ vào việc kết thân với những người như vậy, chúng ta sẽ có hạnh phúc và
sẽ tiến bộ. Điều quan trọng không kém việc tìm những người bạn có những phẩm
chất cao thượng là chúng ta cũng phải tự tu tập những phẩm chất cao thượng nơi
tự thân.
Bốn dạng bạn
có lòng tốt là:
1. Người
bạn giúp đỡ chúng ta. Đó là những người:
– Nhắc nhở
mỗi khi chúng ta cẩu thả hoặc lơ đễnh.
– Bảo vệ tài
sản của chúng ta.
– Che chở và
an ủi chúng ta trong những lúc chúng ta sợ hãi.
– Giúp đỡ
nhiều hơn mức độ mà chúng ta yêu cầu.
2. Người
bạn quan tâm tới chúng ta trong mọi thăng trầm của cuộc sống. Đó là những
người:
– Tin cẩn
chúng ta.
– Giữ kín
những tâm sự riêng tư mà chúng ta đã thố lộ.
– Không bỏ
rơi chúng ta khi chúng ta lâm nạn.
– Có thể hy
sinh thân mạng cho chúng ta.
3. Người
bạn khích lệ chúng ta đi theo đường chánh đạo và làm cho chúng ta trở nên người
tốt hơn. Đó là những người:
– Phản đối
khi chúng ta làm những việc quấy ác.
– Khích lệ
khi chúng ta làm những việc lành thiện.
– Tạo điều
kiện cho chúng ta nghe những lời dạy hữu ích.
– Chỉ cho
chúng ta con đường đi đến hạnh phúc.
4. Người
bạn có lòng bi mẫn và cảm thông. Đó là những người:
– Cảm thông
cho chúng ta những khi chúng ta thất bại.
– Hân hoan
đối với những thành công và phát đạt của chúng ta mà không ganh tỵ.
– Phản bác
những ai nói xấu chúng ta.
– Tán thưởng
những ai nói tốt chúng ta.
Mặc dầu những điều được trình bày ở trên rất sơ
lược và chúng ta có thể có cảm giác rằng đó là những điều chúng ta đã học từ
lâu rồi, từ khi còn bé; nhưng điều quan trọng là hãy suy xét lại những mối quan
hệ bằng hữu, những hành động của chúng ta đối với tình bằng hữu để đánh giá lại
mức độ mà chúng ta đã thực hiện những lời khuyên ở trên như thế nào. Nhờ vào
việc ghi nhớ và áp dụng những lời dạy ở trên vào những hoàn cảnh cụ thể trong
đời sống, chúng ta sẽ biết rõ ràng hơn về bản thân của mình và sẽ có được một
định hướng rõ ràng hơn để tu tiến.
Thương yêu và chấp thủ
Người ta
không hiểu làm sao mà hai lời dạy có vẻ trái ngược – lời dạy về không chấp thủ
và lời dạy về lòng thương yêu của Đức Phật – không bị mâu thuẫn với nhau. Làm
sao chúng ta có thể yêu mến một người mà không cảm thấy dính mắc với người ấy?
Không chấp
thủ là một trạng thái thăng bằng của tâm thức, nhờ đó chúng ta không phóng đại
những phẩm chất của những người mà chúng ta thương mến. Nhờ một cách nhìn chính
xác hơn về người thân mà những vọng tưởng phi thực tế và cả sự chấp thủ của
chúng ta tan dần đi. Như vậy, chúng ta thương yêu người khác vì họ là họ chứ
không phải vì những điều mà họ đã làm được cho chúng ta. Tấm lòng không còn
tính chất thiên vị của chúng ta sẽ mở rộng đến tất cả mọi người, mong rằng mọi
người đều có hạnh phúc chỉ vì mọi người là những con người cụ thể như vậy. Tình
cảm ấm áp trước kia chỉ dành cho một số người nào đó bây giờ có thể mở rộng cho
nhiều người.
Tuy nhiên,
những người có nhiều điểm giống nhau sẽ dễ dàng trò chuyện hay trao đổi quan
điểm với nhau. Chúng ta dễ hiểu biết và dễ giúp nhau tiến bộ. Có lẽ chúng ta
dành nhiều thì giờ với những người này hơn là với những người khác. Vì vậy, họ
là bạn của chúng ta mà không cần đến sự vướng mắc hay chấp thủ. Cần nhắc rằng,
điểm trọng tâm của tình bạn như vậy là để cùng nhau tiến bộ chứ không phải để
làm thỏa mãn những mong muốn vị kỷ của chúng ta.
Không phải dễ
gì mà chúng ta thoát khỏi thói quen chấp thủ. Vì vậy, thoạt đầu, tình bạn của
chúng ta là một hợp thể gồm sự chấp thủ và tình thương yêu chân thật. Nhưng khi
chúng ta nhận thức được rằng sự chấp thủ là lỗi lầm thì chúng ta sẽ cố gắng
loại trừ nó. Sự chấp thủ lúc ấy không còn tạo nên những rắc rối trong tình bằng
hữu giữa chúng ta. Phẩm chất của tình bằng hữu như vậy sẽ càng lúc càng được
nâng cao.
Giúp đỡ bạn bè
Điều quan
trọng là chúng ta cần phải nhạy cảm đối với những nhu cầu và những mong muốn
của bạn. Điều này phải gắn liền với việc tôn trọng phẩm cách riêng của cá nhân
người ấy. Chúng ta cũng phải từ bỏ thói quen vị kỷ và thói quen mệnh lệnh sau
mỗi khi làm được điều gì cho người khác. Ngay khi chúng ta suy nghĩ nhiều về tư
lợi và lơ là với lợi ích chung của tình bạn thì những rắc rối bắt đầu phát
sinh.
Đôi khi chúng ta rơi vào trạng thái tâm lý “ta
được gì? ta được gì?” và nhìn bất cứ người nào và bất cứ vật gì cũng theo chiều
hướng là ta được gì từ người ấy, vật ấy. Lơ đễnh hay vô ý thức đối với những
tác động tốt hay xấu của chúng ta đối với người khác, nhưng chúng ta lại có ý
thức rất mạnh mẽ đối với những lợi ích hay những tai hại mà người khác có thể
làm cho mình. Thái độ tâm lý như vậy luôn luôn tạo nên những rắc rối giữa ta
với người; dù người khác có tốt cách mấy và làm bao nhiêu việc cho chúng ta thì
chúng ta cũng không cảm thấy thỏa mãn. Chúng ta sẽ trở nên cáu kỉnh, không thỏa
mãn và làm cho mình, cho những người chung quanh trở nên khốn khổ.
Trạng thái
tâm lý “ta được gì? ta được gì?” trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta bước vào một
gian phòng có nhiều người lạ mà ta chưa từng biết mặt. Khi ấy phải chăng chúng
ta thường suy nghĩ: “Ta cần làm gì để những người này được lợi lạc? Những người
này cần những gì? Ta có thể giải tỏa được những đau khổ nào cho họ?” Chúng ta
cần trung thực để nhận ra rằng, thông thường, cách nhìn vị tha như vậy rất mờ
nhạt trong tâm mình, thay vào đó chúng ta bị đắm chìm vào những tính toán: “Ai
là người có thể giúp cho mình? Những người
này có làm hại và hạ bệ ta không? Ồ, người trông rất sang trọng đằng kia sẽ ưa
thích ta không?”.
Sẽ thú vị nếu
chúng ta dừng lại một phút trước khi bước vào những nơi đang có nhiều người để
quán niệm: “Trong kiếp sống này và trong nhiều kiếp sống trước, tất cả mọi
người đã có lòng tốt đối với ta. Giờ đây ta có cơ hội để đối xử tốt lại với họ.
Gương mặt của những người này dù có khác nhau như thế nào đi nữa thì họ đều
giống nhau ở chỗ là nhiều lần họ cảm thấy bất an và muốn được người khác nhận
ra phẩm chất đích thực của họ. Họ mong muốn được thừa nhận rằng họ là những cá
nhân xứng đáng. Giờ đây ta sẽ sử dụng thời gian này hiện diện với họ và làm cho
họ tất cả những gì mà ta có thể làm được”. Những cảm giác mà chúng ta có được
trong những cuộc phỏng vấn, trong những buổi tiệc vui và trong những buổi họp mặt
sẽ rất khác so với những giai đoạn trước đây, nếu chúng ta siêng năng thực tập
quán niệm như thế.
Dần dần chúng ta sẽ hình thành nên thái độ tâm lý
“cho và cho”, tức là thường hay suy nghĩ về những gì mà chúng ta có thể cho
người khác. Khi có thái độ như vậy, những vấn đề khó khăn sẽ không có vẻ to lớn
nữa, và chúng ta cảm thấy hạnh phúc với bất cứ người nào hiện diện. Do đó,
những người khác cảm thấy có hạnh phúc và mến mộ chúng ta và chúng ta có một sự
an vui tận tâm hồn, thấy đời sống trần gian có nhiều ý nghĩa.
Nhạy cảm đối
với những vui buồn của người khác phải bao hàm việc ý thức được khi nào mới nên
nói và nên nói chuyện gì. Đừng hoang phí thì giờ của người khác bằng những câu
chuyện quàng xiên vô bổ. Điều này tưởng chừng như dễ làm nhưng thật sự không dễ
như chúng ta tưởng. Coi chừng trường hợp chúng ta tự nghĩ rằng chuyện gì đó là
quan trọng và thú vị, trong khi người kia lại không nghĩ như vậy. Có ý tứ về
những tính cách riêng, tư ý và khuynh hướng của người khác khiến chúng ta trở
nên chín chắn hơn.
Trở nên chín
chắn và rộng lượng không nhất thiết có nghĩa là kiềm hãm sự phát triển cá nhân
của chúng ta để chỉ làm những điều mà người khác muốn. Chúng ta phải nhận ra
được sự khác biệt giữa một bên là thái độ tử tế với người khác phát xuất từ
lòng lân mẫn chân tình đối với họ và một bên
là phủ nhận giá trị của tự thân, làm điều mà người ta muốn chúng ta làm với mục
đích là được lòng mọi người. Trước khi có được một tấm lòng lân mẫn, chúng ta
phải có được một tư cách biết tự trọng.
Mặt khác,
lòng tự trọng không giống tánh vị kỷ. Trong khi lòng tự trọng giúp chúng ta
nhận ra được nhân vị của bản thân thì lòng vị kỷ khiến chúng ta đeo đuổi theo
những hạnh phúc của cá nhân mình, xem chúng là quan trọng hơn tất cả hạnh phúc
của người khác. Muốn tìm một điểm thăng bằng giữa sự tự phủ nhận bản thân và
tánh vị kỷ thì hãy thiết lập lại sự bình đẳng cơ bản của chúng ta với tất cả
những người khác: Tất cả đều tìm kiếm hạnh phúc và tránh xa những rối khổ. Tất
cả đều có những phẩm chất tốt đẹp và những nhược điểm. Tất cả mọi người trên
đời đều đáng được tôn trọng vì tất cả mọi người đều là những sinh thể có linh
tánh.
Áp lực trang lứa
Áp lực trang
lứa có nghĩa là đông đảo người cùng độ tuổi với chúng ta đều làm một điều gì đó
và họ yêu cầu chúng ta làm giống như họ, khiến chúng ta bị áp lực phải nghe
theo để tránh tình trạng bị cô lập hay bị xem là lập dị hoặc bị số đông chống
đối, ghét bỏ. Đó là ý nghĩa của từ ‘áp lực trang lứa’ được dùng ở đây.
Mặc dầu chúng ta thường nghĩ rằng, áp lực của
những người cùng một thế hệ hay đồng song chỉ xảy ra trong giới trẻ, thật ra nó
tác động tới chúng ta bất kể tuổi tác và bất kể chúng ta kết giao với ai. Không
ai cảm thấy vui vẻ khi bị chê trách hay bị hiểu lầm; bất kỳ ai cũng đều muốn
người khác nghĩ tốt về mình. Mặc dầu biết rằng không nên chú ý tới khi có người
giễu cợt hay chỉ trích, chúng ta vẫn cảm thấy lo lắng về những điều mà người
kia có thể đã nói về mình. Để ngầm tự bảo vệ, chúng ta tham gia vào
những hoạt động của tập thể những người cùng trang lứa để tạo mối dây thân hữu
và tránh được sự đối chọi của số đông.
Cốt lõi vấn
đề là lòng tự tin của chúng ta. Khi dựa vào lời khen của người khác để cảm thấy an ổn thì tình trạng tâm lý
của chúng ta cứ phải dao động theo những điều gì mà người ta khen hay chê.
Chúng ta trở nên rất dễ bị tổn thương và rất dễ bị tác động vì không biết rõ chúng ta nương tựa vào cái gì, tin vào cái gì và có
biết rõ đi nữa thì chúng ta cũng không có đủ tự tin và dám bộc bạch trước mặt
mọi người.
Chúng ta cần
phải suy nghĩ sâu sắc một sự thật là người ta khen chúng ta tốt thì lời khen
ngợi đó thật ra không làm cho chúng ta tốt, người ta chê chúng ta xấu thì lời
chê bai đó thật ra cũng chẳng làm cho chúng ta xấu. Khen ngợi và chê bai chỉ là
những ảnh tượng và những tư ý của người khác; chúng không thuộc về chúng ta.
Chúng ta cần phải tự xem xét thái độ và hành vi mà chúng ta đã thể hiện để có
được một cái nhìn chân thực về cá nhân mình. Bằng cách đó, chúng ta có thể tự
thẩm định những ưu thế và những nhược điểm của bản thân.
Nếu một người
nào đó chỉ chính xác được những chỗ yếu kém và sai lầm của mình thì cũng chẳng
có gì phải căng thẳng. Chuyện đó không khác gì chuyện người ta nói rằng: “Có
cái mũi nằm giữa khuôn mặt của bạn”. Thật ra, cái mũi đã nằm đó tự thuở nào
rồi, ai cũng thấy. Cố gắng giấu đi những sai lầm của mình là điều sai lầm và vô
ích. Khi người nào đó nói ra sự thật mà ai cũng thấy, thế mà chúng ta cảm thấy
bị xúc phạm thì quả thật vô lý. Việc đơn giản là thú nhận rằng chúng ta phạm
sai lầm và thành thật xin lỗi, thế thôi.
Ngược lại,
nếu một người nào đó giễu cợt rằng có một cái lỗ tai lừa mọc trên đầu thì chúng
ta cũng không nên cảm thấy bị xúc phạm, vì rõ ràng rằng người đó phạm sai lầm.
Tương tự như vậy, nếu chúng ta bị chỉ trích về một chuyện mà mình thật sự không
làm hoặc là ai đó thổi phồng điều sai trái mà chúng ta thật sự có làm ở mức độ
nhỏ hơn thì cũng không cần phải tức giận. Điều mà người ấy nói là không đúng,
thế thôi.
Tất cả chúng
ta đều có những phẩm tính tốt đẹp, và điều quan trọng là hãy phát huy nó. Tuy
nhiên, ngạo mạn về những tài năng và những thành tựu của chúng ta là phi lý, vì
những tài năng và những thành tựu đó có được là do lòng tốt của nhiều người.
Nếu không ai dạy bảo cũng không ai giúp đỡ thì chúng ta đã không thành công như
thế. Khi chúng ta có khả năng thừa nhận những sai lầm của mình mà không bực
phiền thì chúng ta cũng có khả năng tiếp nhận lời khen ngợi mà không kiêu ngạo.
Đức Phật đã dạy:
đá kiên cố, Không gió
nào lay động; Cũng vậy,
giữa khen chê, Người trí
không lay động.
(Kinh Pháp Cú, câu 81)
Dù cho bị người chê trách hay được người khen
ngợi, nếu giữ được sự quân bình tâm lý thì chúng ta đều có thể đánh giá và học
hỏi từ những điều mà người ta khen chê. Và nhờ đó chúng ta có được một hình ảnh
thực sự và rõ ràng hơn về bản thân. Được như vậy, chúng ta sẽ vững vàng hơn
trong việc đối phó với những áp lực trang lứa vô bổ. Một yếu tố khác nữa giúp
chúng ta thêm tự tin là sự nhạy bén về những giá trị đạo đức. Khi nhạy bén về
mặt đạo đức thì chúng ta không bị mù mờ và nhận ra được những tình huống có chứa
mầm mống sa đọa. Và như vậy, chúng ta sẽ không là nạn nhân của những áp lực
nguy hại của người khác, dù họ là số đông. Nếu suy nghĩ sâu xa về những điểm ưu
thắng và những điểm bại hoại của một hành động nào đó, chúng ta sẽ rạch ròi
trong những quyết định để bảo vệ những giá trị đạo đức. Ngay cả khi người ta
chỉ trích hay bêu riếu vì chúng ta không tham gia vào những hoạt động không
lành mạnh của họ thì trạng thái tâm lý của chúng ta vẫn vững vàng, vì biết rằng
điều mà chúng ta đang làm là đúng đắn. Để có được một sức tự tin vững chắc và
có chiều sâu về những giá trị đạo đức, chúng ta phải suy tư và quán xét rất
nhiều.
Giãi bày những giận hờn
Đôi khi chúng ta cần phải giãi bày những giận hờn
đối với bạn bè. Làm sao chúng ta có thể làm được việc này một cách tốt đẹp mà
không làm nặng nề bạn bè với những khó khăn, bực dọc và những cảm giác có hại
cho chúng ta. Đôi khi chúng ta cần phải “Tuôn hết ra,” và một người bạn tốt sẽ
là người biết lắng nghe với một tấm lòng rộng mở và thương yêu.
Trình bày
những nỗi khó khăn của mình cho những người thân yêu nghe thì tốt. Nhưng chẳng
tốt chút nào nếu chúng ta tống một mớ bòng bong những cảm xúc của mình lên tấm
lòng bạn khiến cho bạn hoang mang và rối mù. Chúng ta cũng chẳng nên kể lể
những khổ sở của mình cho bạn bè chỉ để họ thông cảm và đồng ý rằng ai đó đã
bất nhẫn và tệ bạc đối với chúng ta. Làm như vậy chỉ khiến cho sự tự thương cảm
của chúng ta thêm trầm trọng và vấn đề vẫn còn y nguyên!
Bước đầu là thừa nhận và chấp nhận rằng chúng ta
có nỗi khổ, có cảm giác buồn khổ hay bị mất định hướng; bước thứ hai là giải
tỏa chúng. Một trong những phương sách là tìm đến bạn bè tâm sự để được những
lời khuyên chân thật và có tính cách xây dựng. Chúng ta sẽ đón nhận những lời
bình luận của bạn bè ngay cả khi bạn bè nói rằng chúng ta đã phạm sai lầm và
chính chúng ta là người gây nên nỗi khổ đó. Bạn bè giúp chúng ta bằng cách nói
cho chúng ta biết mỗi khi chúng ta thổi phồng câu chuyện, thổi phồng một chi
tiết nào đó, hay mỗi khi chúng ta cố chấp. Người bạn chân thật sẽ không nói
rằng chúng ta đúng đắn khi sự thật là chúng ta đã sai lầm và qua đó sẽ giúp
chúng ta trong việc xác định đâu là vấn đề và giải quyết chúng.
Biết được giá trị của việc kết
giao bằng hữu tốt, chúng ta sẽ chọn lựa những người bạn có ảnh hưởng tốt đối
với bản thân. Hơn nữa, chúng ta cũng phải cố gắng làm giảm tối đa những điều
sai quấy của bản thân và rèn luyện để thăng tiến những phẩm chất tốt đẹp để có
thể trở thành người bạn tốt đối với người khác. n
(Theo Thupten Chodron – Taming the Monkey Mind)
Nguyệt San Giác Ngộ 184
Discussion about this post