TIỂU TRUYỆN TỰ GHI
Hòa thượng Thích Trí Quang
Truyện của tôi không đáng gì mà
phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có
liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi.
Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.
Sinh chính quán của tôi là làng
Diêm Điền, thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, nằm phía Bắc con đường cái quan
nối liền cổng Quảng Bình, trung tâm thành phố Đồng Hới, đến tận của Vũ Thắng,
ven chân dãy núi Hoành Sơn. Cả làng gốc Bắc, có lẽ di cư thời kỳ tiếp thu đất
sính lễ công chúa Huyền Trân, giọng nói đặc biệt, không như cả vùng Quảng Bình
gốc Nghệ Tĩnh. Gia đình theo Phật tử đời Cố. Cha pháp danh Hồng Nhật, mẹ pháp
danh Hồng Trí, cùng là đệ tử của ngài Đắc Ân, Quốc Ân Tự, Huế, nguyên người Đức
Phổ, đồng hương mẹ tôi. Cha tôi từng là nhân viên mật của một trong hai quân
thứ Phan Đình Phùng ở Quảng Bình.
Tôi sinh giờ thìn, ngày 14-11
Quí Hợi 2467 (21-12-1923). Xuất gia vào giờ giao thừa vía Đức Di Lặc năm Bính
Tý 2480 (1936). Bổn sư là ngài Hồng Tuyên, đồng sư với cha mẹ tôi, sáng lập và
trụ trì Phổ Minh Tự, nơi được kể như tổ đình của Phật giáo Quảng Bình mà ngày
nay hầu như không có gì.
Xuất gia một năm, năm sau Đinh
Sửu 2481 (1937) tôi nhập học Phật Học Viện của Tổng Trị Sự Hội Phật Học, Huế.
Thân giáo sư là ngài Trí Độ, trưởng giả Tâm Minh Lê Đình Thám cũng như một vị
giáo sư nữa. Ngài Trí Độ thọ giáo với ngài Phước Huệ, Thập Tháp Tự, Bình Định,
thọ Bồ tát giới với ngài Đắc Quang, Quốc Ân Tự, Huế – hai ngôi chùa này cùng do
ngài Nguyên Thiều, vị Tổ khai sơn Phật giáo Nam Hà thời Trịnh Nguyễn phân
tranh, sáng lập.
Nhập học Phật Học Viện từ năm
2481 (1937) đến năm 2487 (1943) thì có một kỳ thi khác thường. Phật Học Viện có
học trình 10 năm : ba năm sơ đẳng, ba năm trung đẳng, hai năm cao đẳng, hai năm
siêu đẳng. Mỗi năm có một kỳ thi, đề tài lấy trong kinh sách đã học năm đó. Kỳ
thi 2487 (1943) là tốt nghiệp trung đẳng, đột nhiên có quyết định thi hết kinh
sách đã học từ năm ấy trở lui. Có vài môn thi vốn không học như thi viết luận
Hoa văn, thi nói Nghi lễ mà các điệu tán là chính. Viện cho biết thi tuyển sẽ
khó khăn, và trúng tuyển kỳ thi này là trúng tuyển tốt nghiệp. Học trình hai
năm cao đẳng và hai năm siêu đẳng sẽ dồn lại làm một và không thi nữa. Kỳ thi
này tôi có số điểm cao nhất. Và hai năm sau, Ất Dậu 2489 (1945) tại Đại Tòng
Lâm Kim Sơn, cách một con sông sau chùa Thiên Mộ, cơ sở mới của Phật Học Viện,
lễ tốt nghiệp được tổ chức, chỉ vài ngày trước ngày Nhật đảo chính Pháp trên
toàn cõi Đông Dương.
Sau kỳ thi 2487 (1948), Phật
Học Viện tổ chức lễ phát nguyện cho Sa Di giới do ngày Đắc Quang chứng minh,
ngài Trí Độ cho mỗi người một pháp hiệu với chữ Trí đứng đầu. Cái tên Trí Quang
có từ đó. Mùa hè năm ấy, ngài Hồng Tuyên chính thức cho tôi pháp danh Nhật
Quang, pháp tự Trí Hải, lại tập chúng cử tôi làm Trú trì của Phổ Minh. Mùa hè
2489 (1945), sau khi làm lễ tốt nghiệp, tôi về Phổ Minh thì đến Vu Lan xảy ra
Cách Mạng Tháng Tám. Giao thừa vía Đức Di Lặc năm sau, Bính Tuất 2490 (1946),
ngài Hồng Tuyên tổ chức truyền thọ Tỷ Kheo giới và đắc pháp cho tôi với hiệu
Thiền Minh. Mùa xuân năm ấy, lần đầu tiên, tôi thảo đề án thống nhất Phật Giáo
VN, kèm theo một hiến chương cũng được dự thảo, gửi đến Chủ Tịch Hồ Chí Minh
qua đường bưu điện. Nhưng mùa hè năm ấy, ngài Trí Độ được Phật giáo Bắc mời ra
lập Phật Học Viện. Tôi cũng được mời đi với ngài. Khi ra Quán Sứ, việc đầu tiên
là thầy Tổ Liên cho tôi biết Chủ Tịch Hồ Chí Minh có mời thầy và trao đề án nói
trên. Nhưng lúc bấy giờ đang tiến hành thành lập Phật Học Viện nên chưa ai có
thì giờ và cơ hội làm gì về đề án đó.
Phật Học Viện của Phật giáo Bắc
thành lập cũng khá qui mô, đặc biệt tuyển sinh chu đáo, trên một tháng mà đã
khai giảng được hai lớp chính. Tăng Ni tu học thật đáng trọng. Nhưng không mấy
chốc mà đến tháng 9 kháng chiến toàn quốc. Tôi về quê nhà Quảng Bình, có tin
chắc chắn Pháp sẽ đổ bộ nên mồng 8 tháng 2 năm sau, Đinh Hợi 2491 (1947), tôi
xin ngài Hồng Tuyên truyền thọ Bồ tát giới. Bấy giờ đang tản cư, người chạy
giặc, đồ dấu giặc, nên một thầy một trò trước bàn Phật chỉ còn tượng Ngài với
bát nhang mà thôi, ngài Hồng Tuyên truyền thọ Bồ tát giới cho tôi, với lời kết
thúc buổi lễ như vầy : Nguyện rằng đời đời kiếp kiếp tôi với thầy được làm thầy
làm bạn với nhau, truyền thọ cho nhau Bồ tát giới của Phật.
Thọ Bồ tát giới rồi, không đầy
một tháng sau Pháp đổ bộ Đồng Hới, tôi tham gia kháng chiến. Nhưng tháng 10 năm
ấy, mẹ tôi bịnh nặng, bốn anh em tôi đều đi kháng chiến, người thứ ba tử trận
một tuần sau ngày Pháp đổ bộ, hai người thứ nhất và thứ tư ở xa, tôi ở gần nhà
nhất nên phải về nuôi mẹ. Hôm tôi về đúng vào ngày 23 tháng 10, mãn tang cha
tôi mất từ năm Ất Dậu. Năm sau, Mậu Tý 2492 (1948), tôi vào Huế, giảng dạy cho
Phật Học Viện Báo Quốc. Năm sau nữa, Kỷ Sửu 2493 (1949), lần đầu tiên có quyết
định Tăng sĩ đảm nhận Tổng trị sự Hội Phật Học, thầy Đôn Hậu hội trưởng, tôi
phó. Cuối năm ấy, lần đầu tiên tôi vào Sài Gòn, ăn Tết Canh Dần 2494 (1950) tại
đây. Dịp này cũng làm được vài việc : chung sức vận động hợp nhất ba Phật Học
Đường Liên Hải, Mai Sơn và Ứng Quang (sau đổi Ấn Quang), thành lập Phật Học
Viện Nam Việt, lại chung sức vận động thành lập Hội Phật Học Nam Việt. Rồi về
Huế, làm chủ bút tạp chí Viên Âm tái bản. Cuối năm ấy bắt đầu vận động thống
nhất Phật Giáo VN, có một phần do kích thích tố Phật Giáo Đồ Thế Giới Hữu Nghị
thành lập tại Tích Lan, Phật Đản Tân Mão 2495 (1951), Đại Hội Phật Giáo Toàn
Quốc, gồm cả hai tập đoàn Tăng sĩ và cư sĩ của ba miền, họp tại Từ Đàm , Huế,
và Tổng Hội này gặp đủ thứ ma chướng : trong nhà có ba tập đoàn thiếu hoan hỷ,
ở ngoài thì chính quyền Trần Văn Hữu làm khó, chính quyền Nguyễn Văn Tâm sau đó
càng làm khó hơn; bảng hiệu văn phòng bị hạ, ngài Hội chủ Thích Tịnh Khiết bị
buộc nạp khuôn dấu, nhân viên Quản Trị Trung Ương người phải lánh, người bị tù.
Tôi mạo hiểm nắm việc. Sau một năm xuôi ngược, đầu năm Quí T?2497 (1953), Tổng
Hội được thừa nhận và đúng 10 năm sau, chính Tổng Hội này là chủ chốt trong
Pháp nạn Quí Mão 2507 (1963). Trong khi vận động cho Tổng Hội Phật Giáo VN được
thừa nhận, có sự đề phòng không thành nên Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc được
thành lập bởi ba tập đoàn Tăng sĩ của ba miền, họp tại Quán Sứ, Hà Nội, năm
Nhâm Thìn 2496 (1952).
Giáp Ngọ 2498 (1954), kháng
chiến chống Pháp kết thúc. Miền Nam ông Ngô Đình Diệm đứng ra. Việc này được
biết rõ khi hội nghị Genève sắp kết thúc. Lần chót, trước khi Nam Bắc phân
cách, mẹ con tôi đã nói chuyện với nhau khá nhiều. Rốt cuộc mẹ tôi bảo, vậy là
miền Nam “quạ lang” vẫn hoành hành ! Thôi thì con đi mà lo báo bổ cho
Phật. Tôi đi, và Ất Mùi 2499 (1955), nhận chức vụ Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội
Phật Học, vận động đổi tên Phật Học ra Phật Giáo, đưa Tổng Hội Phật Giáo VN vào
đặt trụ sở ở Sài Gòn. Rồi nghỉ việc cho đến Quí Mão 2507 (1963) nhận lại chức
vụ nói trên. Với chức vụ này, Phật Đản năm ấy tôi phát động, và chung sức lãnh
đạo, việc chống chế độ Ngô Đình Diệm.
Ông Ngô Đình Diệm muốn Thiên
Chúa Giáo của ông độc tôn, muốn anh của ông là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục làm
Hồng Y giáo chủ, nên ông kỳ thị đàn áp Phật Giáo. Ấp chiến lược chỗ thì rào
chùa vào trong để hạn chế đi lại, chỗ thì rào chùa ra ngoài để tự do bắn phá.
Khu trù mật thì bắt cán bộ cơ sở của Phật Giáo phá nhà bỏ của mà đi. Quân địch
thì bắt Tăng sĩ Phật Giáo làm những chức vụ nguy hiểm mà vô quyền, để tu sĩ
Thiên Chúa ra mà nắm quyền chỉ huy ngay từ hạ tầng. Giải thưởng văn chương thì
thưởng cho cuốn văn chương bình dân nội dung cốt chống Phật Giáo. Chương trình
tú tài C thì đổi toàn lý thuyết thượng đế và nhân vị, lại thêm một bằng ban D
với cổ ngữ La Tinh. Sát hại Phật tử thì có tập thể lên đến 36 người ở một nơi
cùng một lúc, không cò lẻ tẻ nữa. Cả gan huy bỏ ngày Phật Đản trong danh sách
ngày lễ được nghỉ của công tư chức, và danh sách này bao giờ Thiên Chúa Giáo
cũng gấp đôi Phật Giáo cả ngày và giờ nghỉ. Dụ số 10 được thêm dụ bổ túc, tăng
cường sự hạ giá và kềm chế đối với Phật Giáo. Rồi sửa điện Thái Hòa của hoàng
thành Huế thì có lưỡng long mà không có nhật nguyệt để phòng cắm thành giá. Mọi
việc xuôi xả thì tòa Hồng Y giáo chủ sẽ đặt ở đó. Cái làm cho không xuôi là cờ
Phật Giáo. Vatican điều tra thấy Huế, địa phận của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục
sao mà Phật Giáo nhiều quá : Phật Đản thì cờ Phật Giáo đầy hai bên đường từ Huế
ra La Vang, kiệu đức Mẹ thì từ La Vang vào Huế không có cờ của Vatican. Ông Ngô
Đình Diệm bèn bắt công chức Huế kê tên cả nhà để đưa cho anh mình báo cáo là giáo
dân, và Phật Đản 2507 (1963) thì triệt hạ cờ Phật Giáo để Vatican thấy dân Huế
theo anh mình hết rồi. Phật Giáo thì suốt thời Pháp thuộc cho đến lúc đó chồng
chất bao nhiêu chịu đựng. Nay thì không chịu nữa. Ngay sau khi tuyên bố như
vậy, tôi gửi đến Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc một điệp văn nêu lên tình hình vi
phạm nhân quyền và kỳ thị tín ngưỡng của chế độ Ngô Đình Diệm. Từ đó cho đến
ngày ông bị lật đổ, mọi hoạt động trong và ngoài nước ai cũng biết không nhiều
thì ít, không thể kể cho hết được. Có điều phải nói, trước và sau 1963, cho đến
1975, Phật Giáo VN không bao giờ nằm trong túi ai cả, mặc dầu suốt thời gian
này việc gì nổi lên mà không có sự khai thác theo ý riêng. Như bản thân tôi
đây, vì ngài Quảng Đức tự thiêu nên ông Ngô Đình Diệm phải mời phái đoàn Phật
Giáo mở hội nghị với phái đoàn chính phủ, tôi phải vào Sài Gòn để cùng quyết
định tại chỗ những gì phái đoàn họp, theo tư thế của tôi và theo sự ủy nhiệm,
phải chung quyết thay ngài Hội Chủ. Chuyến đi có ngài, có thầy Thiện Minh và
tôi, đi xe từ sân chùa Từ Đàm thẳng xuống sân bay Phú Bài. Ai cũng nghĩ tôi đi
tiễn, khi máy bay sắp cất cánh mới biết tôi đi thì phản ứng không kịp, và việc
này chỉ do sự sắp đặt khéo léo một chút của một Phật tử. Nhưng phi cơ thay vì
vào Sài Gòn lại lên Kontum, đậu ở đó đến ba tiếng. Nhân viên phi hành đoàn bí
mật cho tôi hay vì tôi, và đang chờ Sài Gòn quyết định. Sài Gòn đã quyết định
để bay về đây, coi như không có việc gì. Đại hoại như thế, chưa bao giờ tôi
thoát hiểm bởi ai mà tôi không quen biết. Ngay như tài liệu tôi gởi Liên Hiệp
Quốc, nhiều đến một valy phải vài người khiêng, nhưng từ Xá Lợi đi ra và qua
thấu Liên Hiệp Quốc là do chính ông Bửu Hội, người của ông Ngô Đình Nhu, khi
gặp tôi thì tình nguyện giúp bất cứ việc gì giúp được.
Nhưng ông Ngô Đình Diệm đổ rồi,
đúng như tôi dự đoán, vấn đề Phật Giáo không phải kết thúc mà là bắt đầu. Từ
đây sắp đi, Phật Giáo ở trong tình trạng cây muốn lặng mà gió không ngừng ; mặt
khác, cường độ chiến tranh khiến Phật Giáo phải chống chiến tranh. Chỉ nói vắn
tắt hai câu như vậy cũng thừa để thấy vấn đề Phật Giáo ngang trái đến mức nào.
Những cái gọi là Thượng Hội Đồng Quốc Gia, Quốc Hội Lập Hiến hay thành phần đối
lập, cùng những sự lên xuống của bao chính phủ, toàn không có gì đáng nói. Công
bình mà nói thì cũng có sự toan họa hổ mà lại loại cẩu. Cho đến Bính Ngọ 2510
(1966), vấn đề đã lên cao độ. Sau một cuộc họp của Phật Giáo, tôi nói với người
Mỹ rằng Phật Giáo phải chính thức vận động hòa bình, người Mỹ nói với tôi rằng
hòa bình là chiến tranh tàn rụi dần đi. Quan điểm tương phản đến mức đó nên
phải có vụ 1966 ; có vụ ám sát thầy Thiện Minh (mà không chết) ; có vụ âm mưu
lừa tôi ra đi mà từ 1965 đã được bàn lén ; có vụ cầm tù tôi ở dưỡng đường Duy
Tân ; có vụ Viện Hóa Đạo của Việt Nam Quốc Tự ; có vụ hủy bỏ hiến chương Phật
Giáo ; có vụ ra giá nếu tôi chịu cho thu thanh một lời lên án việc tấn công
nhân Tết Mậu Thân thì trả hiến chương, bỏ Tâm Châu, biếu tặng quyền lợi thật
hấp dẫn ; có vụ bắt tôi sau đó ; có vụ ly gián Phật Giáo lần nữa theo kế hoạch
Thiệu Trung ; có vụ một viên tướng tưởng mình đàn áp được Phật Giáo năm 1966
nhưng sau nhờ một viên tướng đàn anh đến vận động tôi ủng hộ cho ứng cử Tổng
Thống, vì, cho đến nay, vẫn cho rằng mình làm Tổng Thống thì miền Nam không bại
trận mà còn chiến thắng. Tuy có lắm vụ mà có vụ chỉ là trò bắng nhắng như vậy,
nhưng từ tháng 9-1966, tôi đã biết đích xác Hoa Mỹ sẽ quan hệ bình thường, cuộc
chiến Việt Nam sẽ thương thuyết kết thúc, mọi cường độ quân sự chỉ là áp lực
tranh thắng.
Ấy thế, mọi việc diễn ra có lúc
đến chóng mặt. Cho đến mùa xuân 2519 (1975) thì một ngày mà có người ba lần đến
vận động tôi đừng chống việc ông Dương Văn Minh đứng ra, “vì chính quyền
của ông ấy sẽ có bảy phần mười là người tiến bộ”. Tôi không nói lại gì cả,
chỉ quan tâm lời thầy Trí Thủ nói, rằng chim cá còn mưa mà phóng sinh, lẽ nào
đồng bào mà không hy sinh cấp cứu. Rồi ông Dương Văn Minh gặp tôi, đưa ra hai
mảnh giấy báo cáo mật cho thấy ngân hàng trống rỗng và quân sự nguy ngập, và
nói ông không vụ lợi vì lợi không còn gì, không cầu danh vì danh đến quốc
trưởng là cùng, ông chỉ không nỡ ngồi nhìn chết chóc. Tôi nói, nếu lòng ông như
thế là ông làm như lời thầy Trí Thủ nói, và có nghĩa ông thay người khác mà vác
cờ trắng ! Sau đó mấy tháng, tôi trả lời một thầy Phật Giáo cấp Tỉnh, rằng nay
Phật Giáo VN bước qua một giai đoạn khác.
Tổng chi, tôi có tham vọng
không ? Có, mà có đến nỗi có người đã nói hơi chướng nữa. Tham vọng của tôi
không mơ mộng Phật Giáo trở lại vị thế quốc giáo như thời xa xưa, càng không
mong muốn Phật Giáo thành một Thiên Chúa Giáo thứ hai. Tôi chỉ mong ước, trong
cơn nghiêng ngửa của đất nước, ai nhìn vào Phật Giáo cũng nghĩ rằng đất nước
này còn có cái ấy.
Nhưng tôi không chế ngự nỗi
hoàn cảnh đó, sự mong ước như vậy thể hiện cho thật vừa ý. Truyện của tôi là
truyện buồn cho tôi, ở chính cái điểm này. Truyện của tôi đúng là
thâm tâm hải đề tẩu mã : ngựa phi dưới nước, thuyền chèo trên non.
(Trích
từ Bài Tiểu Truyện Tự Ghi của Hòa thượng Thích Trí Quang , nguyên là Phụ lục 3
trong bản thảo của cuốn Bồ Tát Giới của Hòa thượng in sau năm 1975 tại Việt
Nam)
Bài viết liên quan đến chủ đề:
●TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN – Tác gỉa: Thích Trí Quang (sách dạng Ebook)
●
TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN: Không vẫn hoàn không – Trần Kiêm Đoàn
●
TIỂU TRUYỆN TỰ GHI Hòa thượng Thích Trí Quang ●
TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN: phác thảo về cuộc đời và sự nghiệp của một danh Tăng -Tâm Đăng ●
THÍCH TRÍ QUANG VÀ VIỆT NAM – James Mc Allister – Trần Ngọc Cư dich ●
Thich Tri Quang and the Vietnam War – JAMES McALLISTER (Nguyên tác tiếng Anh – PDF) ●
CON NGƯỜI THẬT CỦA THƯỢNG TỌA THÍCH TRÍ QUANG – Đào Văn Bình ●
PHẬT GIÁO VIỆT NAM NĂM 1963 – Phóng viên Neil Sheehan – Ảnh của © Bettmann/CORBIS ●
PHẬT GIÁO VIỆT NAM NĂM 1967 Bài: Trọng Hoàng – Ảnh của nhiếp ảnh gia: Co Rentmeester (Life)
●
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG và Một Chặng Đường Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam – Huỳnh Kim Quang
Discussion about this post