1. Giải pháp trí tuệ
Theo cách hiểu thông thường, Trí tuệ là một tri thức uyên bác về một vấn đề gì, có thể phân tích trình bày vấn đề ấy một cách khúc chiết và triệt để. Theo cách hiểu của đạo Phật, Trí tuệ là một “Hệ thống hiểu biết mạch lạc liên quan đến các sự kiện, các vật thể hay biến cố chịu chung một số quy luật nào đó mà người ta có thể kiểm chứng được bằng các phương pháp thực nghiệm”.
Trong Trung bộ kinh I có dạy về Trí tuệ:
“Như thế nào được gọi là Trí tuệ? Vì có tuệ tri. Vì có tuệ tri, nên được gọi là Trí tuệ. Có Tuệ tri gì? Có Tuệ tri (Pajànàti): đây là khổ, có Tuệ tri: đây là khổ tập, có Tuệ tri: đây là khổ diệt, có tuệ tri: đây là con đường đi đến khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri nên được gọi là Trí tuệ.
(Trung bộ I)
Như vậy Trí tuệ là biết với tri tuệ, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt, biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Một định nghĩa nữa của Trí tuệ được đề cập đến. “Thế nào là tuệ lực? Ở đây, vị Thánh đệ tử có Trí tuệ, thành tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau”.
Trí tuệ cũng có nghĩa là thắng tri (abhinnàttha), có nghĩa là liễu tri (parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (pahànattha). Như vậy trí tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết với thiền định. Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn. Và cuối cùng có khả năng đoạn tận được các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham sân si, chấm dứt khổ đau.
Trong kinh Tứ thập nhị chương, chương 30, Đức Phật dạy: “Là người tu hành phải coi mình giống như kẻ mang cỏ khô, thấy lửa đến phải tránh, người học đạo thấy các đối tượng dục lạc phải tránh xa”, có thể nói đây là giải pháp phát huy trí tuệ hữu hiệu nhất, nhưng chỉ có thể thực hiện được khi mỗi vị Tăng Ni trẻ nhận thức trung thực về những tồn tại nơi bản thân để sớm thức tỉnh, qua đó tự mình điều phục bản thân, khép mình trong quy củ thiền môn, giữ gìn giới luật, tinh tấn tu hành.
Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần VIII đề ra chủ trương hành động “Trí tuệ – Kỷ cương – Hội nhập – Phát triển”, đã cho thấy tầm nhìn chiến lược trước yêu cầu phát triển bền vững và chất lượng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Liên hệ thực trạng một bộ phận Tăng Ni trẻ đánh mất mình khi đến với MXH, chúng ta sẽ thấy tầm nhìn chiến lược này không chỉ ưu việt trong chiến lược vĩ mô của Giáo hội, mà còn rất tinh tế sâu sắc trong chiến lược vi mô, nhằm phát triển từng con người Phật giáo trên mọi khía cạnh sinh hoạt. Như vậy, để Tăng Ni trẻ nhận thức về những tác hại khi sử dụng MXH sai mục đích, thì yếu tố trí tuệ cần phải đặt hàng đầu, bởi đạo Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp, trí tuệ chính là nguồn tuệ giác soi sáng con đường giác ngộ giải thoát mà tất cả hành giả Phật môn đều phải nương theo.
Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, trí tuệ là yếu tố hàng đầu và căn bản cho mọi hành dụng của tu sĩ Phật giáo; không có trí tuệ, mọi việc làm sẽ lệch lạc và nguy cơ dẫn đến sự phá sản đối với sự nghiệp tu hành giải thoát; khi có trí tuệ, chúng ta sẽ linh động chắt lọc và tùy duyên sử dụng các phương tiện của xã hội văn minh, mượn đó làm phương tiện tu hành và hoằng pháp để hướng đến chân trời giác ngộ giải thoát; qua đó cho thấy, trong sự hòa nhập, Phật giáo luôn thích nghi với văn minh thời đại, không chỉ để phục vụ cho sự nghiệp tu hành giác ngộ giải thoát mà còn hướng đến sứ mạng độ sanh cao cả.
Mặt khác, trí tuệ phản ảnh tầm nhìn và khả năng quan sát cũng như tiên liệu trước mọi tình huống sắp và sẽ xảy ra, quan trọng hơn, trí tuệ sẽ giúp chúng ta đi đúng hướng, tránh được sai sót rủi ro, đạt hiệu quả chất lượng, chính vì vậy sự phát triển bền vững của Phật giáo nói chung và sự thăng tiến trên con đường tu học của mỗi vị Tăng Ni trẻ nói riêng, rất cần đến yếu tố trí tuệ. Trên tinh thần hòa nhập, thích nghi và trên căn bản của trí tuệ Phật giáo, nếu mỗi vị Tăng Ni có nhận thức và biết vận dụng một cách trí tuệ vào việc sử dụng MXH sao cho phù hợp với nhu cầu chánh đáng của người xuất gia học Phật, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái nhiều thành quả, nhưng vẫn giữ vững truyền thống thiền lâm qui củ trong quá trình tu học và hoằng pháp lợi sanh trong bối cảnh thời đại.
2. Giải pháp kỷ cương
Trước khi là tu sĩ chúng ta là một công dân, do vậy điều đầu tiên chúng ta phải là những công dân tốt, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật mà Nhà nước đã quy định; nhận thức được điều này Tăng Ni trẻ sẽ tự giác chấp hành kỷ cương phép nước, cụ thể là sẽ nói “không” với những trang mạng độc hại, không sử dụng MXH khi không có nhu cầu chánh đáng, điều này sẽ góp phần ổn định trật tự xã hội.
Tiếp đến, chúng ta là một tu sĩ, dầu ở vị trí nào trong Giáo hội thì điều đầu tiên chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật đã thọ, phải tuân thủ theo Hiến chương của Giáo hội, vì đây là khuôn phép, là mực thước nói lên thái độ và tư cách của một tu sĩ, có như vậy thì kỷ cương Giáo hội mới được thực hiện.
Riêng với bộ phận Tăng Ni trẻ, trong sinh hoạt thiền môn, chúng ta phải luôn tuân thủ theo những quy định riêng của từng trú xứ, nhằm duy trì giềng mối sinh hoạt đạo pháp tại các cơ sở tự viện, đây là trách nhiệm của mỗi vị tu sĩ, sẽ giúp cho đại chúng trong tự viện luôn được hòa hợp, đoàn kết, Phật sự được hanh thông, đây là cơ sở quan trọng để nền móng Giáo hội ngày càng được củng cố, có như vậy thì kỷ cương thiền môn mới được thừa hành. Trong đời sống sinh hoạt tu học của từng thành viên trong ngôi nhà Giáo hội, nhất là đối với những vị Tăng Ni trẻ, càng đòi hỏi ở mỗi vị ý thức trách nhiệm và bổn phận của một người xuất gia đang hướng đến chân trời giác ngộ giải thoát, do vậy cần phải nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, đồng thời phát tâm phụng sự đạo pháp và dân tộc một cách vô điều kiện, vì đây chính sứ mạng cao cả của một sứ giả Như Lai, có như vậy thì kỷ cương giới luật của Phật môn mới được duy trì và thực thi triệt để.
Thế hệ Tăng Ni trẻ là rường cột của Phật giáo nước nhà, một khi tự giác chấp hành mọi quy định của pháp luật, nghiêm túc chấp hành kỷ cương và tuân thủ giới luật, thì sẽ dễ dàng nhận thức về việc bổn phận phải thừa hành của một người xuất gia tu theo hạnh Phật, đồng thời cũng sẽ nhận thức về sự nguy hại khi sử dụng MXH khi không có nhu cầu chánh đáng và không đúng mục đích. Nếu vận dụng trí tuệ, luôn sáng suốt trước mọi hành vi trong đời sống, đồng thời chấp hành kỷ cương Giáo hội và tuân thủ giới luật với tinh thần trách nhiệm cao nhất, tức là chúng ta không những thăng hoa trên con đường đạo pháp, mà còn chung tay góp sức một cách đắc lực nhất trong sự nghiệp xương minh Phật pháp, cũng như sự nghiệp phát triển ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam một cách bền vững.
Nếu tất cả chúng ta có trí tuệ, có kỷ cương thì khi vào đời chúng ta không bị chi phối, không bị lôi cuốn theo dòng chảy tiêu cực của MXH, của sự hội nhập.
Như lời dạy của Đức Phật dạy trong kinh Pháp cú:
Bàn tay không thương tích,
Cầm thuốc độc không sao.
Người không làm việc ác,
Không bị ác nhiễm vào.
Xem thêm:
Discussion about this post