

(Thích Nhật Hiếu)
Một mùa Vu Lan báo hiếu nữa lại trở về, gợi nhắc cho
chúng ta gương hiếu hạnh của Tôn giả Đại Mục Liên cứu mẹ; nhất là hình ảnh của
đức Phật Bổn Sư đã báo hiếu cho song thân như lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp
cho thân mẫu, ân cần chăm sóc và thuyết cho phụ vương đang lâm trọng bệnh về
pháp lạc của thánh quả Dự lưu,… Kể từ ấy, đạo Phật đã đi vào lòng người, và
thật sự trở thành Đạo hiếu hạnh nhân luân; đạo lý ấy phát xuất từ nghi biểu bậc
thầy của trời người, một con người sống đời dung dị, nhưng tâm hồn thanh cao và
nghị lực siêu việt, trở thành những mẫu người giáo dục cho thế nhân ở nhiều góc
độ khác nhau; như thi sĩ dân gian từng ca ngợi:
Thật vậy, cũng là một con người bằng xương bằng thịt, không phải
dưới đất chui lên hay trên trời rơi xuống, mà là một con người cũng có cha mẹ,
có một cuộc sống rất đổi thông thường như bao con người khác, nhưng có khác
chăng cũng chỉ:
“Phàm đã là người xuất gia, đặt chân lên phương trời cao rộng, tâm
hình khác tục, nuôi lớn dòng thánh, chấn nhiếp ma quân, báo đáp bốn ân, giúp
cùng ba cõi”. (Văn Cảnh sách)
Cha mẹ là người đã cưu mang và trưởng dưỡng chúng ta nên vóc nên
hình, nên con người trưởng thành, cất bước vững vàng và hoà nhập vào cuộc đời
như ngày nay; nhất là với những người được mệnh danh là trưởng tử Như Lai, là
bậc xuất trần thượng sĩ, với sứ mạng “Tác Như Lai sứ và hành Như Lai sự”, hoàn
thiện nhân luân và viên mãn siêu thoát, thì không thể bỏ qua đạo lý cơ bản này.
Ngay cả, công đức cao vời của đức Phật Thế Tôn, cũng có phần đóng góp không nhỏ
của đấng dưỡng dục sinh thành.
Việc tri ân và báo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi
tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông
thường trong dàn nhạc giao hưởng, được trổi lên trong những buổi hoà nhạc trang
trọng, nhưng khi kết thúc là chỉ đọng lại trong lòng mọi thính giả một kí ức mơ
hồ man mác; mà nó chính là bản nhạc được tấu lên bằng những chuỗi âm thanh hoà
quyện êm đềm du dương từ dòng máu theo nhịp tim của mẹ như dòng suối réo rắt
chảy vào trong con, và những lời hát nỉ non hoà với tiếng kẻo kẹt võng đưa và
xen lẫn tiếng xạc xào gió lướt từ quạt mo trên tay cha hiền ru con giữa trưa hè
oi ả. Bản tình ca ấy mãi đệm theo bước chân con đi trên khắp nẻo đường nhân
thế. Bản tình ca ấy cho con sự hiểu biết nơi cha và thương yêu nơi mẹ, cho con
sức sống vượt chông gai gian khó để hướng đến thành công, cho con niềm tin yêu
đối với cuộc sống, dù gì vẫn vui vẻ khi đời đã ban tặng cho mình những cái tốt
đẹp hay đưa đến những điều xấu xa, dù được hay mất, dù buồn hay vui,… và dù gì
đi nữa, con vẫn phải thành người. Cha mẹ cho con đầy đủ nghị lực ý chí sống:
thất bại không thối chí, thành công không ngã lòng. Bởi, công cha và nghĩa mẹ
đã đổ ra quá nhiều vì con:
Với tinh thần hiếu đạo theo Phật giáo tri ân và báo ân là một vấn
đề cần phải lưu tâm. Đạo làm con phải biết hiếu dưỡng đối với song thân, nhưng
hiếu dưỡng thế nào mới thật là chân chánh và thiết thực nhất để tốt đẹp cho cha
mẹ cũng như lợi ích mọi người xung
quanh. Phật dạy có 2 cách báo hiếu là hiếu dưỡng và hiếu đức. Hiếu dưỡng là
phụng dưỡng và an ủi vỗ về cha mẹ; hiếu đức là giúp cha mẹ tịnh tu giới đức và
tác phước hành thiện.
Đức Phật cũng đã dạy rất nhiều cho các thầy Tỳ kheo về việc hiếu
dưỡng đối với đấng sinh thành của mình. Tuy người xuất gia sống không gia đình,
tài sản, nhưng chừng mực nào đó vẫn có thể phụng dưỡng cha mẹ già yếu, nếu cha
mẹ không còn cháu con để nương tựa:
“Các thầy nên sớm hôm phụng dưỡng chăm sóc cơm nước và thuốc thang
cho cha mẹ già yếu”. (Luật tạng & Kinh tạng)
Đời cũng như Đạo, xưa cũng
như nay, lúc nào ở đâu, cũng có nhiều lời phê phán những đứa con thất trách
trong bổn phận đối với đấng sinh thành của mình về việc phụng dưỡng cha mẹ
trong lúc già yếu:
“Cha
mẹ nuôi con biển hồ lai láng, Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Với những hạng người con này, cho dù họ có công thành, danh toại,
có tiền tài và địa vị gì trong xã hội vẫn bị người đời mai mỉa; họ không đáng
cho đời trọng dụng. Tình cha nghĩa mẹ là thứ tình cảm thiêng liêng, khơi nguồn
cho mọi tình cảm nhân thế khác, vì còn gì quí báu hơn tình cốt nhục thâm ân;
thứ tình cảm được nuôi nấng bằng dòng máu thắm và nắm ruột rứt ra, bằng cả tính
mạng của chính cha mẹ, bằng cả tâm huyết trao cho con mình, vỗ về ấp ủ khi con
ngủ, để mắt dõi theo khi con bước vào đời, con là những gì cao quí nhất của cả
cha lẫn mẹ, vắt cạn cả sức sống của thân già cho con cháu có cuộc sống sung túc
để xứng mặt với đời, mà không nghĩ đến bản thân mình quê mùa dân dã. Nếu không
phải tấm lòng cao cả của mẹ cha, thì ai có thể chăm lo cho ta cuộc sống như
vậy? Với những hạng người vong bản vô ơn, sẽ bị người đời chê trách. Còn nữa,
có những người con nhiều tiền lắm của, nuôi cha mẹ với thái độ hững hờ theo
kiểu thi ân, không hề có lòng chân thành thương mến. Một thứ tình cảm thiêng liêng
cao cả như vậy mà họ còn đạp đổ, thử hỏi mối quan hệ giữa họ và ta có nghĩa lý
gì; nếu có thì cũng chỉ là thứ tình cảm man trá, dụng ý mưu mô. Mối quan hệ
tình cảm huyết thống thiêng liêng mà họ còn chà đạp, thì không còn một mối quan
hệ tình cảm xã hội nào họ thật lòng trân trọng.
Từ đó, chúng ta có thể nhận chân được, hiếu đạo là những gì được
phát xuất từ tấm lòng chân thành của ta đối với đấng sinh thành của mình. Với
khối óc hiểu biết và con tim yêu thương như vậy sẽ mách bảo cho chúng ta biết
phải làm gì để báo đáp một phần nào ân sâu nghĩa nặng này. Tinh thần hiếu nghĩa
này được phát xuất từ tấm lòng chân tình rất mực tôn kính ngay trong mỗi người
con. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, người ta vẫn thể hiện được hiếu đạo
của mình.
Vả lại, tinh thần hiếu đạo này còn cảnh báo cho chúng ta biết về
đạo lý nhân quả tương tác tất yếu, nếu gieo thiện nhân thì gặt hái thiện quả,
và ngược lại. Bài học đạo lý gia phong này, mang tính đặc thù truyền thừa giữa
các thế hệ ông bà, cha mẹ và cháu con trong mỗi gia đình:
Đức Phật khuyên, một trong những điều hiếu đạo cao cả nhất cần
phải lưu tâm, giúp cho cha mẹ tránh xa con đường ác nghiệp, khả dĩ tạo ác nhân,
để rồi lãnh lấy khổ đau cho hiện tại và mai sau, là giúp cho cha mẹ có cuộc
sống thanh cao bằng qui hướng Tam bảo và tác phước hành thiện, để rồi gặt hái
hạnh phúc và an lạc trong hiện tại và mãi mãi về sau. Trong kinh Tăng chi bộ
tập 1, tr. 75, đức Phật dạy về cách tri ân và báo ân cha mẹ như:
“Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các
của cải, vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này
các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an
trú vào thiện giới, đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích , hướng dẫn an trú
vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, khuyến khích an trú vào thiện trí
tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là làm đủ và trả đủ công ơn cho mẹ và
cha”.
Hơn nữa, làm con cũng phải thực hiện những kỳ vọng của cha mẹ đặt
nơi con, nếu không đồng nghĩa với đại nghịch bất hiếu. Đó là mong cho con được
thành nhân, mong cho con thành danh, mong cho con nên cơ nghiệp để mở mặt mở
mày với người. Vì những hoài bảo và kỳ vọng này mà cha mẹ không quản nại khó
khổ, không ngại mình quê mùa, ra sức bươn chải nuôi con ăn học, dạy dỗ và
khuyên lơn cho con phải sống cho xứng đáng đạo làm người.
Cũng vậy, tình cha và nghĩa mẹ đã cưu mang tôi trong thời thơ ấu;
ngày tôi đi xuất gia còn bé lắm, cha mẹ nén nỗi đau phải xa con thơ mà nhìn
nhau gượng cười, riêng tôi ngấn lệ suy nghĩ mông lung, tình cha nghĩa mẹ và
tình cảm anh chị em gia đình đang chất chứa ngổn ngang trong lòng tôi. Tất cả
với tôi như đang lưu luyến và không nỡ chia ly, nếu không có sự động viên của
cha mẹ thì tôi khó bề rứt áo ra đi. Giờ này, suy nghĩ kĩ lại, cha mẹ nào lại không
thương con thơ, nếu không phải vì tình thương cao cả, vì sự hy sinh cho ý nghĩa
lớn lao thì cha mẹ tôi đâu nở xa đứa con bé nhỏ của mình. Ngày nay, tôi không
dám tự phụ mình là đã hoàn thành tâm nguyện của cha mẹ, nhưng chừng mực nào đó
tôi cũng đã làm cho cha mẹ mình vui lòng. Có lẽ đây chính là món quà nho nhỏ mà
người xuất gia có thể dâng lên cho đấng sinh thành của mình. Nó không sang
trọng hay cao quí trên phương diện vật chất, nhưng đây chính là món quà mà cha
mẹ tôi hằng đợi mong.
Mong con thành danh, phải nỗ lực hết sức trong việc kiến tạo sự
nghiệp bằng học tập, rèn luyện và làm việc, tự đứng trên đôi chân với khả năng
chính mình để đi vào đời; không lêu lổng, bê tha, trác táng, hư đốn. Thật vậy,
khi thấy con mình thành đạt trong cuộc sống, thì cha mẹ rất hài lòng, cảm thấy
toại nguyện trong tuổi già. Đây cũng được xem là một nguồn hạnh phúc, an ủi
tinh thần đối với bậc sinh thành. Do đó, lòng hiếu đạo đối với song thân là một
đạo lý hết sức tế nhị và sống động vô cùng, chỉ có cái đầu hiểu biết và tấm
lòng thương yêu chân thành cùng với ý chí quả cảm chúng ta mới có thể thực hiện
được đạo lý thâm trầm ấy bằng cách này.
Và Phật pháp cũng đã cảnh báo cho chúng ta, nếu không nỗ lực thật
tu, thật học, thật hành trì và thật thân chứng giác ngộ giải thoát, hoàn thành
đạo nghiệp cho chính mình và thực thi sự nghiệp lợi lạc cho thế nhân bằng dùng
đuốc tuệ chánh pháp soi sáng thế gian u tối, thì cũng chỉ là kẻ tội đồ núp bóng
cửa Phật mà thôi.
“Cha mẹ còn sống vẫn không thể nào nuôi dưỡng, cha mẹ quá vãng cũng
không bạt độ nổi vong linh; tội bất hiếu như vậy sẽ không nơi nào dung thứ”.
(Phát Bồ Đề Tâm Văn)
Thế nên, người xuất gia đúng nghĩa, phải nhập vai sứ mạng giáo hoá
tha nhân, chính là mẫu người đạo đức, giữ cán cân đạo lý cho đời. Người xuất
gia là người rất coi trọng hiếu đạo, nhưng cách thể hiện so với người đời có
khác, đều hướng về đạo lý “Cội nguồn”. Tình yêu thương của người xuất gia không
chỉ với cha mẹ trong hiện đời, mà còn xem “Chúng sinh trong tam giới đều từng
là cha mẹ”. Chính vì lẽ đó, hiếu đạo đối với người xuất gia có phần mở rộng
hơn, ứng biến hơn, thâm trầm và cao cả hơn rất nhiều so với người đời. Cũng bắt
nguồn từ hiếu đạo ấy, nhưng từ phạm vi gia tộc huyết thống, bước sang lãnh vực
pháp giới chúng sinh, mà trong tứ ân của người xuất gia đã dạy rõ. Phải là đoá
hoa phạm hạnh ngát hương lan tỏa khắp các loài cỏ cây hoa lá trong ngôi vườn
chánh pháp.
Tháng bảy lại trở về, thêm rộn ràng lễ hội hiếu hạnh, làm thổn
thức con tim của mọi người dù Phật tử tại gia hay xuất gia hướng về ơn nghĩa
sinh thành. Đây cũng là cách làm trong muôn ngàn cách thức của những người con
hiếu hạnh hướng về song thân. Cho dù ân sâu nghĩa nặng ấy không thể nào đáp trả
trong một sớm một chiều, nhưng cũng là tấm lòng chân thành báo đáp trong muôn
một của người con hướng về cha mẹ. Nhưng thật ra cha mẹ mình có đòi hỏi gì đâu,
chỉ cần thấy con cháu ngoan hiền hiếu thảo là hạnh phúc lắm rồi; mà làm cho cha
mẹ hạnh phúc, cũng chính là cách tri ân và trả ân tốt đẹp và ý nghĩa nhất.
Với hiếu đạo, chúng ta phải có một cách nhìn toàn diện hơn. Chừng
mực nào đó, người xuất gia có đời sống nặng về tinh thần hơn, nên khả năng
“hiếu dưỡng” về cơm áo và gạo tiền cho cha mẹ rất hạn chế, nhưng không vì thế
mà cho rằng người xuất gia không làm tròn hiếu đạo, mà hoàn thành một cách rất
có hiệu quả nữa là khác, xuyên qua “hiếu nghĩa” và “hiếu đức” trong vai trò
xuất thế, bằng trau dồi giới đức và tịnh tu phạm hạnh của mình, kiến tạo phước
điền cho đời, trong đó có cha mẹ thân bằng quyến thuộc; giúp mọi người trút bỏ
mọi ưu phiền khổ lụy, ngay phút giây hiện tiền giác ngạn đồng đăng; như cổ nhân
đã từng xác chứng: “Nhứt nhơn đắc quả cửu huyền siêu thăng”.
[1] Thơ
nhân gian: Nam
Hải Quan Âm
Discussion about this post