KINH ÚC
GIÀ TRƯỞNG GIẢ [40]
Hán
dịch: Tào Nguy, Pháp Sư Khương Tăng Khải
Việt
dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như
vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại tinh
xá cấp Cô Độc trong rừng Kỳ Đà cùng Tỳ Kheo Tăng ngàn
hai trăm năm mươi người câu hội, Bồ Tát năm ngàn người:
Di Lặc Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đoạn Chánh Đạo
Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, chư
đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ.
Bấy
giờ đức Thế Tôn cùng vô lượng trăm ngàn đại chúng cung
kính vây quanh mà diễn thuyết pháp.
Úc
Già Trưởng giả cùng năm trăm quyến thuộc ra khỏi thành
Xá Vệ đến Kỳ Hoàn tinh xá lễ chưn Phật nhiễu ba vòng
rồi ngồi một phía.
Lại
có Ái Kính Trưởng giả, Danh Xưng Trưởng giả, Thiện Giữ
Trưởng giả, Gia Xa Đạt Đa Trưởng giả, Thiện Tài Trưởng
giả, Ái Hành Trưởng giả, Cấp Cô Độc Trưởng giả, Long
Đức Trưởng giả, Thiệt Hỉ Trưởng giả. Các Trưởng
giả này đều riêng cùng năm trăm Trưởng giả câu hội ra
khỏi thành Xá Vệ đến tinh xá Kỳ Hoàn lễ chưn Phật nhiễu
ba vòng rồi ngồi một phía.
Các
Trưởng giả ấy cùng các quyến thuộc tất cả đều hướng
Đại thừa trồng thiện căn dày, quyết định đến chánh
đạo vô thượng.
Bấy
giờ Úc Già Trưởng giả biết các Trưởng giả đã vân tập
xong, thừa Phật thần lực hướng Phật chắp tay bạch rằng
: Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn có chỗ thưa hỏi xin
thương mà hứa cho”.
Đức
Phật phán :”Nầy Trưởng giả ! Như Lai sẽ nghe, cho phép
ông hỏi, Phật sẽ theo chỗ ông hỏi mà diễn thuyết cho ông
hết nghi vui mừng”.
Úc
Già Trưởng giả bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn ! Nếu các
thiện nam thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề, hiểu Đại
thừa, tin Đại thừa, muốn tập họp Đại thừa, muốn ngồi
lên Đại thừa, biết Đại thừa hộ các chúng sanh an úy phủ
dụ, muốn an lạc trang nghiêm vững chắc tất cả chúng sanh,
muốn độ kẻ chưa độ, thoát kẻ chưa thoát, an úy kẻ không
được an úy, Niết bàn kẻ chưa Niết bàn, làm cầu đò lớn
chở vác tất cả, nghe Phật trí vô lượng muốn tu Phật trí,
phát đại trang nghiêm, biết trong sanh tử có vô lượng khổ
hoạn nơi vô lượng vô số kiếp không lòng ưu não, vô lượng
kiếp lưu chuyển sanh tử mà không lòng mỏi mệt. Nếu
trong đây có thiện nam thiện nữ an trụ Bồ Tát thừa hoặc
người xuất gia tu tập pháp hành, hoặc người tại gia tu
tập pháp hành.
Lành
thay đức Thế Tôn, vì thương chúng Thiên nhơn A Tu La mà đức
Thế Tôn thủ hộ Đại thừa chẳng dứt ngôi Tam bửu, vì
Nhứt thiết trí mà ở lâu thế gian.
Xin
đức Thế Tôn diễn nói chỗ giới đức tu hành của hàng
tại gia Bồ Tát.
Thế
nào là tại gia Bồ Tát ở bực tại gia, đức Như Lai truyền
dạy tùy thuận tu hành chẳng tổn hoại pháp trợ Bồ tát,
ở trong hiện pháp không có nghiệp trói che được công hạnh
tăng thắng.
Bạch
đức Thế Tôn ! Thế nào là xuất gia Bồ Tát xa bỏ trân
bửu ân ái mà đi xuất gia, nên bảo các vị ấy hành pháp
thế nào, tu thiện thế nào, nên trụ thế nào, chẳng nên
trụ thế nào”.
Đức
Phật phán : “ Lành thay, lành thay, nầy Úc Già Trưởng giả
! Như lời ông hỏi là chỗ phải làm của các ông. Các
ông lắng nghe khéo suy nghĩ. Nay Phật sẽ vì các ông mà
nói chỗ trụ học được công hạnh thù thắng của các Bồ Tát tại gia và Bồ Tát xuất gia.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia phải quy y Phật quy y Pháp quy
y Tăng. Đem công đức Tam bửu ấy hồi hướng đạo chánh
chơn vô thượng.
Thế
nào là Bồ Tát tại gia quy y Phật ?
Tôi
muốn được thành thân Phật đủ ba mươi hai tướng trang
nghiêm, nắm lấy căn lành ấy tập họp ba mươi hai tướng
đại trượng phu, vì tập họp mà siêng tu hành tinh tấn. Đây gọi là quy y Phật.
Thế
nào là Bồ Tát tại gia quy y Pháp ?
Bồ
Tát này cung kính Pháp và người thuyết pháp, vì pháp muốn
pháp ưa pháp, rất ưa trợ pháp, trụ pháp trì pháp hộ pháp,
ở vững nơi pháp, ca ngợi nơi pháp, trụ nơi pháp hạnh, tăng
thêm pháp, cầu được pháp, dùng pháp làm sức mạnh, dùng
pháp làm khí trượng, chỉ có pháp là công vụ, tôi thành
Vô thượng Bồ đề rồi sẽ đem chánh pháp bình đẳng ban
cho tất cả chúng sanh Trời Người A Tu La. Đây gọi là
quy y Pháp.
Thế
nào là Bồ Tát tại gia quy y Tăng ?
Bồ
tát này thấy bực Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán
và cùng phàm phu, thấy người Thanh Văn thừa thảy đều kính
thuận mau tiếp rước lời tốt tiếng hay đi nhiễu cung kính. Phải tự nghĩ rằng lúc chúng tôi được đạo chánh chơn
vô thượng vì thành công đức Thanh Văn mà diễn thuyết pháp. Dầu cung kính người Thanh Văn thừa mà không có tâm an trụ
trong ấy. Đây gọi là quy y Tăng.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp quy y Phật,
đó là chẳng bỏ tâm Bồ đề, chẳng phế khuyên phát tâm
Bồ đề, chẳng bỏ đại bi, ở trong các thừa khác trọn
chẳng sanh tâm.
Bồ
Tát tại gia thành tựu bốn pháp quy y Pháp, đó là ở nơi
chư Pháp Sư thời thân cận nương gá, nghe pháp rồi khéo suy
nghĩ, đem pháp được nghe nói lại cho người, đem công đức
thuyết pháp hồi hướng đạo chánh chơn Vô thượng.
Bồ
Tát tại gia thành tựu bốn pháp quy y Tăng, đó là nếu có
ai chưa nhứt định vào Thanh Văn thừa thì khuyên phát tâm
vô thượng đạo, hoặc dùng của vật để nhiếp hoặc dùng
chánh pháp để nhiếp người, nương gá Tăng Bồ Tát bất
thối mà chẳng nương gá Tăng Thanh Văn, cầu công đức Thanh
Văn mà tâm không an trụ trong ấy.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia thấy Như Lai rồi
tu tập niệm Phật đây gọi là quy y Phật, nghe chánh pháp
rồi tu tập chánh pháp đây gọi là quy y Pháp, thấy Tăng Thanh
Văn đệ tử Phật rồi mà chẳng quên mất tâm Bồ đề đây
là quy y Tăng.
Lại
nầy Trưởng giả ! Tại gia Bồ Tát thường muốn cùng
Phật câu hội mà thật hành bố thí thì gọi là quy y Phật,
thủ hộ chánh pháp mà bố thí thì gọi là quy y Pháp, đem
đức bố thí ấy hồi hướng đạo vô thượng thì gọi là
quy y Tăng.
Lại
này Trưởng giả ! Tại gia Bồ Tát làm công nghiệp thiện
trượng phu mà chẳng làm công nghiệp bất thiện trượng phu.
Thế
nào gọi là nghiệp thiện trượng phu chẳng phải nghiệp bất
thiện trượng phu ?
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia theo đúng pháp mà chứa họp
tiền của đất nhà, cầu tìm chơn chánh đúng giá mà chẳng
phải cầu tìm thô ác hay bức hiếp người. Được sản
nghiệp đúng pháp, quan niệm vô thường chẳng có ý tưởng
bỏn xẻn, ưa thích thí xả, đem tiền của đúng pháp để
dâng cho cha mẹ và cung cấp cho vợ con quyến thuộc, các người
giúp việc rồi sau đó dùng chánh pháp bố thí.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia mang vác gánh nặng
phát đại tinh tấn. Đó là gánh nặng ngũ ấm của tất
cả chúng sanh, bỏ gánh Thanh Văn Duyên Giác, giáo hóa chúng
sanh mà không mỏi mệt. Tự bỏ sự vui của mình để
vì chúng sanh, tám sự lợi suy hủy dự xưng cơ khổ lạc không
làm khuynh động được, vượt khỏi thế pháp giàu có vô
lượng mà không kiêu mạn phóng dật, mất lợi danh xưng mà
không lo buồn, khéo quan sát hành nghiệp giữ gìn chánh hạnh,
thấy người phá giới mà không giận, có đi qua đâu thì khéo
an trụ giác sát trừ bỏ khinh tháo đầy đủ trí huệ, giúp
nên việc người mà bỏ việc mình, không hi vọng gì, có làm
việc chi không hề bỏ giữa chừng, biết ơn nhớ ơn, làm
giỏi tốt, ban lộc cho kẻ nghèo, với kẻ thế lực thì dẹp
đại kiêu mạn, với kẻ không thế lực thì khuyến dụ họ,
trừ tên nhọn lo buồn cho người, nhịn người hạ liệt,
trừ bỏ kiêu mạn và tăng thượng mạn, cung kính tôn trọng
thân cận người đa văn, thưa hỏi bực minh huệ, chỗ thấy
chánh trực, chỗ làm vô vi không có huyễn hoặc, với chúng
sanh không ái nhiễm, tu lành không chán, học hỏi không nhàm,
chỗ làm vững chắc đồng với hiền thánh, với người không
phải thánh thì sanh lòng đại bi, thân hữu vững chắc, oan
thân bình đẳng, tâm bình đẳng đối với chúng sanh, với
tất cả pháp lòng không tham lẫn, khai thị như chỗ đã được
học, suy gẫm chỗ đã nghe học, với các dục lạc tưởng
là vô thường, chẳng mến luyến thân, xem sanh mạng như giọt
sương, xem tài vật như mây như ảo, với con cái tưởng như
lao ngục, với quyến thuộc tưởng như cảnh khổ, với ruộng
nhà tưởng là tử thi, với chỗ cầu tiền tài tưởng là
phá hư thiện căn, tại nhà mình tưởng là trói buộc, nơi
thân tộc tưởng như lính ngục, nơi đêm nơi ngày tưởng
không sai khác, với thân chẳng bền tưởng bố thí chỗ bền
đó là làm giúp công việc cho người cần giúp, với sanh mạng
chẳng bền tưởng bố thí chỗ bền đó là chẳng mất bổn
thiện và thêm thiện căn hiện tại, với của cải chẳng
bền tưởng là bố thí chỗ bền đó là hàng phục lòng tham
lẫn mà thật hành bố thí !
Này
Trưởng giả Úc Già ! Đó gọi là Bồ Tát tại gia tu tập
công hạnh thiện trượng phu, với chư Như Lai không tất cả
lỗi, gọi là lời nói tương ưng là pháp ngữ, không có dị
tưởng hướng đến đạo vô thượng.
Lại
này Trưởng Giả ! Bồ Tát tại gia phải thọ thiện giới,
đó là ngũ giới. Bồ Tát này luôn chẳng sát sanh buông
bỏ dao gậy hổ thẹn kiên thệ chẳng giết hại tất cả
chúng sanh, chẳng não nhiễu tất cả chúng sanh, với tất cả
chúng sanh lòng thường bình đẳng thường từ bi. Bồ
Tát này luôn chẳng trộm, với của cải mình thì biết đủ,
với của cải người thì chẳng hi vọng, bỏ lòng tham chẳng
khởi ngu si, với phong lộc của người chẳng tham lam, nhẫn
đến lá cây chẳng cho chẳng lấy. Bồ Tát này rời lìa
tà dâm, tự vừa đủ vợ mình chẳng mong vợ người, chẳng
có nhiễm tâm nhìn nữ sắc khác, lòng luôn nhàm sợ coi là
khổ não nên thường trái bỏ, nếu đối với vợ mình sanh
ý dục nhiễm thì phải có ý tưởng bất tịnh kinh sợ, đó
là sức kiết sử nó làm dục chẳng phải là ta nên làm, phải
tưởng vô thường khổ vô ngã bất tịnh, phải suy nghĩ rằng
tôi chẳng nên có ý nghĩ dâm dục huống là hai thân thể hòa
hiệp rờ rẫm. Bồ Tát này phải rời vọng ngữ, phải
nói chắc nói thiệt nói như chỗ làm, chẳng dối người,
thành tựu tâm lành, suy nghĩ trước rồi mới làm, theo chỗ
đã thấy nghe mà nói thiệt, giữ gìn chánh pháp, thà bỏ thân
mạng trọn chẳng vọng ngữ. Bồ Tát này phải rời lìa
uống rượu, chẳng say chẳng loạn, chẳng hư vọng nơi lời
nói, chẳng tự khinh tháo cũng chẳng cợt đùa dọa nạt, phải
an trụ chánh niệm rồi sau mới xét biết, lúc muốn xả thí
tài vật thì kẻ cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, lúc bố
thí nên có quan niệm rằng nay lúc làm Đàn Ba la mật này tùy
người muốn chi tôi đều thí cho, khiến họ được đầy
đủ, nếu đem rượu cho người phải nhiếp người ấy nơi
chánh niệm chớ để cuồng say. Tại sao ? Vì thỏa
mãn hết chỗ muốn của người là Đàn Ba la mật vậy, nên
Bồ Tát đem rượu cho người đối với Phật không có lỗi.
Này
Trưởng giả ! Nếu Bồ Tát tại gia đem công đức thọ
trì ngũ giới này hồi hướng Vô thượng Bồ đề, khéo giữ
gìn ngũ giới lại thêm rời lìa lưỡng thiệt nếu có tranh
tụng thì nên hòa hiệp, rời lìa ác khẩu thốt lời dịu
hòa hỏi thăm trước, chẳng hủy nhục người, nói lời lợi
ích người, lời pháp ngữ thời ngữ thiệt ngữ, lòi cởi
mở, lời điều phục, lời chẳng đùa chơi, lời đúng hành
động, chẳng sanh tham si, thường làm an vui tất cả chẳng
có ý hủy hoại, thường tu sức nhẫn nhịn để tự trang
nghiêm, phải luôn chánh kiến, rời lìa tà kiến, chẳng thờ
lạy các Thiên thần khác mà khiến cúng dường Phật.
Lại
này Trưỏng Giả Úc Già ! Bồ Tát tại gia nếu ở trong
đại chúng thành ấp quận huyện nên thường vì mọi người
mà thuyết pháp. Chúng sanh bất hiếu chẳng biết cha mẹ,
Sư Trưởng, Sa Môn, Bà La Môn, chẳng biết người lớn trẻ
nhỏ, chẳng thuận giáo hối chẳng biết kiêng nể thì khuyên
dạy họ hiếu thuận. Chúng sanh thiếu học thì làm cho
họ được học, tham lẫn thì dạy bố thí, phá giới thì
khuyên giữ giới, sân hận thì khuyên nhẫn nhục, giải đãi
thì khuyên tinh tấn, tán loạn thì khuyên tu niệm định, không
trí huệ thì khuyên tu trí huệ, với kẻ nghèo thì cấp tiền
của, kẻ bịnh cho thuốc, không được giúp đỡ thì giúp
đỡ, không chỗ về thì làm chỗ về, không chỗ nương thì
làm chỗ nương, Bồ Tát tại gia này phải tùy chỗ sở nghi
mà lợi ích chúng sanh chớ để một người đọa vào ác đạo.
Này
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia này với mọi người khuyến
đạo như vậy cho đến bảy lần khiến họ an trụ nơi đức
hạnh, nếu vẫn chẳng khiến an trụ được thì phải sanh
lòng đại bi đối với chúng sanh ấy mà phát tất cả trí
huệ trang nghiêm rằng nếu tôi chẳng điều phục ác chúng
sanh này thì tôi quyết chẳng thành đạo vô thượng chánh
chơn. Tại sao ? Vì tôi do cớ này mà phát thệ trang
nghiêm, không siểm không ngụy chẳng phải chuyện đùa, đủ
hạnh giới đức phát đại trang nghiêm, tôi phải siêng phát
tinh tấn như vậy khiến việc làm chẳng uổng công, chúng
sanh thấy tôi thì liền tin kính.
Này
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia ở trong thôn xóm thành
ấp mà chẳng giáo hóa chúng sanh để họ đọa ác đạo thì
bị chư Phật quở trách. Nên Bồ Tát phải trang nghiêm
đại trang nghiêm như vậy, nay tôi phải tu hành công hạnh
ấy, ở trong thành ấp tụ lạc, chẳng để một người sa
đọa ác đạo.
Này
Trưởng giả ! Như trong thành ấp có thầy thuốc giỏi
mà để một người bị bịnh độc chết thì quần chúng quở
trách. Cũng vậy Bồ Tát này ở chỗ nào mà chẳng giáo
hóa chúng sanh để phải đọa ác đạo thì bị chư Phật quở
trách.
Lại
này Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia khéo tu học hạnh
lành.
Gia
là gì ? Là giết căn lành, là chẳng bỏ lỗi, là hại
nghiệp trợ thiện, do đó mà gọi là gia.
Sao
gọi là ở tại tất cả kiết sử ? Vì ở trong ấy nên
gọi là ở tại. Lại vì ở tại giác sát bất thiện,
ở tại chẳng điều phục, ở tại không hổ thẹn, hàng phàm
phu ngu tiểu ở tại bất thiện các ác tội lỗi nên gọi
là gia.
Lại
tại gia thì tất cả khổ não đều hiện trong ấy, nó hại
căn lành trước, nên gọi là gia.
Lại
gia ấy, ở tại đó thì không điều ác gì chẳng làm. Ở trong đó thì chẳng kính thuận tốt với cha mẹ Sư Trưởng
nên gọi là gia.
Lại
gia ấy, nó làm lớn nhánh lá, ưu bi khổ não đều sanh trong
đó, chiêu họp sự giết hại trói buộc đánh đập giận
mắng, phát sanh tiếng ác, nên gọi là gia.
Lại
nơi ấy, các căn lành chưa làm thì hững hờ chẳng làm, căn
lành đã làm thì bỏ hư, bị bực trí quở trách, bực trí
là chư Phật Thanh Văn, nếu ở trong ấy thì đọa ác đạo,
nếu ở trong ấy thì đọa tham sân si, do đó mà gọi là gia.
Lại
nếu ở trong ấy thì ngại bỏ khối giới khối định khối
huệ khối giải thoát khối tri kiến giải thoát, nên gọi
là gia.
Lại
nếu ở trong ấy thì bị thâu nhiếp bởi sự tham ái cha mẹ
vợ con anh em chị em thân hữu quyến thuộc, thương nhớ nghĩ
của cải tham dục không chán như biển nuốt chứa trăm sông
không đầy, nên gọi là gia.
Nếu
ở tại gia như lửa cháy củi, chỗ lo nghĩ vô định như gió
chẳng dừng, ở tại gia tiêu thân như uống độc dược, tất
cả khổ não đều quy tụ về, vì thế nên lìa bỏ như xa rời oan gia.
Nếu
ở tại gia thì chướng pháp thánh sanh nhiều duyên đấu tranh
thường trái nghịch nhau.
Ở
tại gia trong ấy duyên thiện duyên ác lộn lạo nhiều sự
vụ.
Tại
gia vô thường chẳng còn lâu, là pháp chẳng tạm dừng.
Tại
gia rất khổ, vì cầu gìn giữ nên nhiều lo rầu, là chỗ
của oan và thân.
Tại
gia vô ngã lầm chấp là ngã sở hữu.
Tại
gia dối trá không có thiệt sự mà hiện tợ thiệt.
Tại
gia ly biệt, là chỗ nhiều người ở.
Tại
gia như ảo, chứa nhiều tụ họp không có chúng sanh thiệt.
Tại
gia như mộng, vì hưng suy thay nhau.
Tại
gia như giọt sương, vì mau tan vỡ.
Tại
gia như giọt mật, vì là vị ngọt chốc lát.
Tại
gia như lưới gai nhọn, vì tham ưa sắc thanh hương vị xúc.
Tại
gia như loài côn trùng miệng nhọn tợ kim, vì chẳng khéo giác
sát ăn uống.
Tại
gia như rắn độc, vì xâm hại lẫn nhau.
Tại
gia nhiều hy vọng, vì trong lòng bồn chồn.
Tại
gia nhiều kinh sợ, vì là chỗ cướp đoạt của vua giặc lửa
nước. Tại gia nhiều nghị luận, vì nhiều sai trái.
Này
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia gọi là khéo biết tại
gia như vậy.
Lại
này Trưỏng giả Úc Già ! Bồ Tát ở tại gia khéo điều
phục bố thí phân biệt nhu nhuyến. Phải quan niệm rằng
nếu của đem bố thí cho người rồi đó là của tôi, của
còn lại trong nhà thì chẳng phải của tôi, của đã bố thí
thì vững chắc, của chưa thí thì chẳng vững chắc, của
đã thí thì vui ngày sau, của chưa thí thì vui hiện tại, của
đã thí khỏi giữ gìn, của còn lại phải giữ gìn, của
đã thí thì khỏi bị tham ái trói buộc, của còn lại thì
thêm tham ái. của đã thí chẳng phải bận lòng, của còn
lại bận lòng, của đã thí chẳng lo sợ, của còn lại phải
lo sợ, của đã thí là cột chánh đạo, của còn lại là
cột ma, của đã thí thì vô tận, của còn lại thì hữu tận,
của đã thí thì vui, của còn lại phải gìn giữ nên khổ,
của đã thí thì lìa gút trói, của còn lại thì thêm gút
trói, của đã thí là lộc. của còn lại chẳng phải lộc,
của đã thí là sự nghiệp đại trượng phu, của còn lại
chẳng phải sự nghiệp đại trượng phu, của đã thí được
chư Phật khen, của còn lại được phàm phu khen. Vì thế
nên Bồ Tát phải bền vững bố thí.
Lại
này Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia nếu thấy người
xin phải có ba ý tưởng : một là ý tưởng thiện tri thức,
hai là ý tưởng đời khác giàu có, ba là ý tưởng nên Bồ
đề. Lại có ba ý tưởng : một là thuận lời dạy của
Phật, hai là quả báo cõi dục, ba là hàng phục ma. Lại
có ba ý tưởng : với người xin có ý tưởng thân thuộc,
với bốn nhiếp pháp có ý tưởng nhiếp lấy, với vô biên
sanh có ý tưởng xuất ly. Lại có ba ý tưởng : trừ
tham dục, trừ sân hận, trừ ngu si.
Này
Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia này đều được kém mỏng
tham sân si: lúc bố thí của cải thì lòng không tham trước
nên tham kém mỏng, với kẻ xin thì lòng thương nên sân kém
mỏng, bố thí rồi hồi hướng đạo vô thượng chánh chơn
nên si kém mỏng.
Lại
này Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia thấy người xin phải
có ý tưởng tu tập đầy đủ sáu Ba la mật: với vật sở
hữu Bồ Tát này đều có tâm xả thí đây gọi là tu tập
đến đủ Đàn Ba la mật. Y nơi tâm Bồ đề mà bố thí
đây gọi là tu tập đến đủ Thi Ba la mật. mà bố thí đây
gọi là tu tập đến đủ Thi Ba la mật. Chẳng giận trách
kẻ cầu xin đây là tu tập đến đủ Nhẫn Ba la mật. Lúc bố thí chẳng có ý nghĩ mình sẽ thiếu thốn đây là
tu tập đến đủ Tinh tấn Ba la mật. Lúc bố thí rồi
lòng chẳng lo tiếc mà càng vui mừng hơn đây gọi là tu tập
đến đủ Thiền Ba la mật. Lúc bố thí rồi chẳng thấy
có pháp được và chẳng hy vọng quả báo đây gọi là tu
tập đến đủ Bát Nhã Ba la mật.
Lại
này Trưỏng Giả ! Bồ Tát tại gia đối với tám pháp
thế gian phải phóng xả. Đối với nhà cửa của cải
vợ con chẳng lo chẳng mừng, giả sử hư mất chẳng có lòng
buồn lo, Bồ Tát ấy nên quan niệm hữu vi như ảo, là tướng
vọng tưởng, cha mẹ vợ con thân thuộc đều chẳng phải
sở hữu của tôi, tôi chẳng vì đó mà gây tạo nghiệp bất
thiện, đó là bạn lữ hiện tại chẳng phải bạn lữ đời
khác, là bạn lữ lúc vui chẳng phải bạn lữ lúc khổ, tôi
chẳng lo gìn giữ họ. Chỗ tôi gìn giữ là trí huệ
bố thí điều phục người tinh tấn chẳng phóng dật pháp
trợ Bồ đề các thiện căn v.v…, những thứ này là sở
hữu của tôi luôn theo sát bên tôi. Cha mẹ vợ con thân
thuộc chẳng cứu được tôi chẳng phải là nơi tôi quy y
chẳng phải là nhà ở của tôi chẳng phải là đất liền
của tôi, chẳng phải chỗ che mát tôi, chẳng phải là ngã
ngã sở. Thân ngũ ấm này còn chẳng phải ngã ngã sở
huống là cha mẹ vợ con thân thuộc mà lại là sở hữu của
tôi. Cha mẹ vợ con là do nghiệp nhơn của họ. Nghiệp
thiện ác của tôi thì tôi thọ báo theo đó. Họ cũng
theo nghiệp của họ mà thọ lấy quả báo thiện ác.
Bồ
Tát tại gia lúc đi đứng ngồi nằm thường quan niệm như
vậy chẳng vì cha mẹ vợ con thân thuộc mà gây tạo nghiệp
ác bất thiện dầu rất nhỏ như phần sợi lông.
Đối
với vợ nhà, Bồ Tát tại gia phải có ba ý tưởng là vô
thường, biến đổi và hư hoại. Lại có ba ý tưởng
là bạn vui chơi chẳng phải là bạn đời khác, là bạn uống
ăn chẳng phải bạn nghiệp báo, là bạn lúc vui chẳng phải
bạn lúc khổ. Lại có ba ý tưởng là oan gia xẻo thái
và trá thân. Lại có ba ý tưởng là la sát tì xá giá
và quỉ mị. Lại có ba ý tưởng là chẳng phải sở hữu
chẳng phải nhiếp thọ là kẻ xin cầu. Lại có ba ý
tưởng là gìn thân ác hành gìn khẩu ác hành và gìn ý ác
hành. Lại có ba ý tưởng là tham dục giác sân khuể
giác và tổn hại giác. Lại có ba ý tưởng là đen tối
ô giới và huệ phược. Lại có ba ý tưởng là chướng
giới chướng định và chướng huệ. Lại có ba ý tưởng
là dua nịnh lưới rập và mèo rình. Lại có ba ý tưởng
là tai họa nhiệt não và bịnh hoạn. Lại có ba ý tưởng
là yêu mị suy hao và sương giá. Lại có ba ý tưởng
là già bịnh và chết. Lại có ba ý tưởng là ma ma nữ
và đáng sợ. Lại có ba ý tưởng là lo khóc và khổ. Lại có ba ý tưởng là sói cái lớn cá ma kiệt và mèo cái
lớn. Lại có ba ý tưởng là rắn độc đen cá thi thủ và
ma đoạt tinh khí. Lại có ba ý tưởng là không cứu không
quy không hộ. Lại có ba ý tưởng là mẹ chị và em gái. Lại có ba ý tưởng là giặc là giết và lính ngục. Lại
có ba ý tưởng là nước mạnh lượn sóng và nước xoáy. Lại có ba ý tưởng là sình lầy lún sìng và lộn đục. Lại
có ba ý tưởng là đui mù xiềng xích gông cùm. Lại có
ba ý tưởng là hố lửa hố dao và lửa đuốc cỏ. Lại
có ba ý tưởng là bén nhọn và độc. Lại có ba ý tưởng
là nhốt ngục hình phạt và dao gươm. Lại có ba ý tưởng
là đấu tranh kiện cáo và trói nhốt. Lại có ba ý tưởng
là oán thù hội họp ân ái biệt ly và bịnh tật. Tóm
lại nhẫn đến có tất cả ý tưởng đấu tranh tất cả
ý tưởng cặn dục tất cả ý tưởng gốc bất thiện. Bồ Tát tại gia đối với vợ nhà phải có những ý tưởng
quan niệm như vậy.
Lại
này Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia đối với con của
mình chẳng nên quá yêu thương, nếu quá yêu thương con mình
mà chẳng yêu thương con người thì thì tự hủy hoại. Phải dùng ba pháp để tự răn trách : một là đạo Bồ đề
là tâm bình đẳng chẳng phải là tâm bất bình đẳng, hai
là đạo Bồ đề từ chánh hạnh mà được chẳng phải từ
tà hạnh, ba là đạo Bồ đề do vô dị hạnh mà được chẳng
phải do tạp hạnh được. Răn trách rồi đối với con
mình phải có ý tưởng là oan gia, là ác tri thức, trái nghịch
đức từ bình đẳng trí huệ của Phật, hại căn lành của
ta. Bồ Tát tại gia nên tùy theo chỗ mà điều phục tâm
mình, như yêu thương con mình với tất cả chúng sanh cũng
yêu thương như vậy, như yêu thương thân mình với tất cả
cũng vậy.
Bồ
Tát tại gia phải quan niệm tôi từ chỗ khác đến, con từ
chỗ khác đến. Tại sao ? Vì tất cả chúng sanh
đã từng làm con tôi, tôi cũng từng làm con của tất cả
chúng sanh, trọn chẳng có ý nghĩ con tôi chẳng phải con tôi. Tại sao ? Vì đến sáu loài làm oán thù lại làm con cái,
tôi phải bình đẳng với kẻ thân kẻ sơ. Tôi lấy cớ gì
nơi kẻ thân thì yêu thương cấp cho mà nơi người sơ thì
tất cả chẳng cấp cho. Nếu tôi có lòng yêu chẳng yêu
nơi người sơ tất cả chẳng cấp cho thì chẳng có thể đến
pháp được. Tại sao ? Vì hạnh bất đẳng thì đến
chỗ bất đẳng, hạnh bình đẳng thì đến chỗ bình đẳng. Tôi chẳng nên làm hạnh bất bình đẳng ấy. Tôi học
tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh mau đến Nhứt thiết
trí.
Này
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia đối với của cải chẳng
có ý tưởng ngã sở, ý tưởng nhiếp hộ, chẳng bận lòng
nơi của cải chẳng tưởng chẳng mến, chẳng sanh kiết sử.
Lại
này Trưỏng giả ! Nếu có kẻ đến xin chỗ Bồ Tát
tại gia để cầu xin, khi đem của cho người, Bồ Tát ấy
phải chí tâm nhớ rằng của cải chẳng đem cho đều sẽ
tan mất, nếu chẳng làm tròn đầy sở nguyện rồi cũng phải
chết. Tôi chẳng xả bỏ của cải, của cải ấy cũng
sẽ bỏ tôi, nay tôi phải xả thí để làm của vững chắc
rồi sẽ chết. Xả thí của cải này rồi lúc chết vui
vẻ không hối hận. Nếu chẳng thể bố thí được thì
nên đem bốn sự thưa với kẻ xin rằng nay tôi sức lực kém
yếu, căn lành chưa thành thục, tôi là kẻ sơ cơ trong Đại
thừa, tâm tôi chưa kham tự tại bố thí, tôi là kẻ trước
tướng chấp ngã ngã sở. Thưa Ngài thiện đại trượng
phu, nay tôi sám hối cùng Ngài chớ hờn ghét tôi. Tôi sẽ
siêng tu tinh tấn để có thể làm đầy đủ sở nguyện của
tất cả chúng sanh.
Lại
này Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia nghe chư Phật quá
khứ dạy rằng nếu người chưa gặp Phật và Thánh Tăng thì
phải kính lễ chư Phật mười phương, đối với bổn hạnh
của chư Phật cho đến chư Phật đắc đạo đều sanh lòng
tùy hỉ. Ngày đêm đều ba thời thanh tịnh thân khẩu
ý gìn lòng từ thiện, đầy đủ tàm quý mặc y phục sạch
sẽ, bao nhiêu thiện căn đã tập họp dùng tâm Bồ đề mà
sanh lòng tùy hỉ nhu thuận cung kính dứt ngã mạn mà tu hành,
ba thời tụng đọc, ba thời tác pháp, chuyên lòng hối cải
những nghiệp bất thiện chẳng tạo ác mới, tất cả phước
nghiệp đều tùy hỉ, chứa họp đầy đủ tướng hảo, khuyến
thỉnh chư Phật chuyển pháp luân, pháp chư Phật dạy đều
thọ trì, xin Phật ở lâu thế gian thêm lớn thiện căn, khiến
quốc độ tôi cũng được như vậy.
Lại
này Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia thọ trì bát quan trai
giới tu hạnh Sa Môn thì phải thân cận Sa Môn Bà La Môn đức
hạnh trì giới thanh tịnh, y chỉ cung cấp hầu hạ chẳng
nhìn thấy lỗi của thầy. Nếu thấy Sa Môn trái vượt
giới hạnh chẳng nên chẳng cung kính. Lại y ca sa được
xông ướp với giới định huệ giải thoát giải thoát tri
kiến của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Biến Chánh Giác, không
cặn đục, đều bỏ rời tất cả kiết nhiễm, là tràng của
bực tiên thánh, vì thế nên phải cung kính gấp bội. Đối với Tỳ Kheo trái vượt giới hạnh ấy nên có lòng
thương xót mà nghĩ rằng họ chẳng nên phạm ác hạnh như
vậy. Chư Phật Thế Tôn là bực tịch tịnh điều phục
thấy biết tất cả, mặc lấy tướng thánh tràng mà chẳng
điều phục chẳng tịch tịnh, chẳng thấy chẳng biết phạm
sự phi pháp ấy. Như đức Thế Tôn từng dạy chẳng
khinh khi người chưa học. Đây chẳng phải lỗi của
họ mà do nơi kiết sử. Do nơi kiết sử mà hiện tại
phạm tội ác. Trong Phật pháp có pháp xuất ly, họ có
thể xuất ly được. Nếu họ cởi mở gút cột ấy mà
tu hành chánh quán được đến bực sơ quả thì quyết định
thẳng đến đạo chánh chơn vô thượng. Tại sao ? Vì trí quán hay phá hại kiết sử. Lại đức Thế Tôn
còn có lời dạy làm người chớ nên vọng khinh lượng định
người, nếu vọng khinh người thì chính là tự hại tự tổn
lấy mình. Chỉ đức Như Lai biết rõ, chớ chẳng phải
là ta biết được. Vì thế chẳng nên giận ghét khinh hại
họ.
Lại
này Trưỏng giả ! Bồ Tát tại gia nếu vào Tăng phường,
nên dừng tại ngõ kính lạy rồi sau sẽ vào. Phải quan
niệm rằng nơi đây là chỗ không hành, là chỗ vô tướng
hành, là chỗ vô tác hành, là chỗ từ bi hỉ xả bốn phạm
hạnh, là chỗ an trí chánh hạnh chánh trụ. Lúc nào tôi
sẽ rời bỏ nhà cầu uế, lúc nào tôi sẽ ở chỗ chánh hạnh
này. Phải có lòng muốn xuất gia như vậy. Không
có ở tại gia mà tu thành đạo chánh chơn vô thượng, thẩy
đều xuất gia đến rừng vắng vẻ tu tập được thành Phật
đạo. Tại gia nhiều trần nhiễm, xuất gia đẹp tốt. Tại gia đủ sự trói buộc, xuất gia vô ngại. Tại gia
nhiều cầu uế, xuất gia xả ly. Tại gia bị nhiếp nơi
ác, xuất gia được nhiếp nơi thiện. Tại gia ngập sâu
trong sình lầy ái dục, xuất gia viễn ly ái dục. Tại
gia chung cùng phàm tình, xuất gia chung cùng trí huệ. Tại
gia tà mạng, xuất gia chánh mạng. Tại gia nhiều lấm dơ,
xuất gia không dơ. Tại gia suy diệt, xuất gia không diệt.
Tại gia buồn lo, xuất gia vui mừng. Tại gia là bực thang những
sự ác, xuất gia xa lìa. Tại gia trói buộc, xuất gia cởi
mở. Tại gia kinh sợ, xuất gia vô úy. Tại gia bị quở phạt,
xuất gia không quở phạt. Tại gia nhiều họa hoạn, xuất
gia không họa. Tại gia phiền nhiệt, xuất gia không phiền
nhiệt. Tại gia nhiều mong cầu nên khổ, xuất gia không mong
cầu nên vui. Tại gia rung động, xuất gia không động.
Tại gia khổ vì nghèo, xuất gia không khổ vì nghèo. Tại gia
khiếp nhược, xuất gia không khiếp. Tại gia hạ tiện, xuất
gia tôn quí. Tại gia phiền rộn, xuất gia tịch tịnh. Tại
gia lợi tha, xuất gia tự lợi. Người tại gia không nhuận
tinh khí, người xuất gia tư nhuận. Tại gia vui nơi kiết
sử, xuất gia vui nơi tịch diệt. Tại gia thêm gai nhọn, xuất
gia không gai nhọn. Tại gia thành tiểu pháp, xuất gia thành
đại pháp. Tại gia không điều phục, xuất gia điều phục.
Tại gia xa lìa giới, xuất gia hộ trì giới. Tại gia thêm
lớn biển lệ mủ máu, xuất gia cạn khô biển lệ mủ máu.
Tại gia bị chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác quở rầy, xuất
gia được chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác tán thưởng. Tại
gia không đủ, xuất gia biết đủ. Tại gia ma mừng, xuất
gia ma lo.Tại gia chẳng hàng phục, xuất gia hàng phục. Tại
gia nô bộc, xuất gia chủ nhơn. Tại gia ở mé sanh tử, xuất
gia ở mé Niết bàn. Tại gia đọa lạc, xuất gia khỏi đọa
lạc. Tại gia tối tăm, xuất gia sáng soi. Người tại
gia sáu căn chẳng tự tại, người xuất gia sáu căn tự tại. Tại gia cuồng dật, xuất gia chẳng phóng dật. Tại gia chẳng
tương ưng, xuất gia tương ưng. Tại gia ngó xuống, xuất gia
nhìn lên. Tại gia nhiều kinh doanh, xuất gia ít kinh doanh. Tại
gia ít sức lực, xuất gia sức lực lớn. Tại gia siểm khúc,
xuất gia chánh trực. Tại gia nhiều lo, xuất gia không lo. Tại
gia cùng chung với tên nhọn, xuất gia không tên nhọn. Tại
gia bịnh tật, xuất gia không bịnh tật. Tại gia là già nua,
xuất gia là trai tráng. Tại gia sống phóng dật, xuất gia tu
huệ mạng. Tại gia lừa phỉnh, xuất gia không phỉnh. Tại
gia nhiều gian trá, xuất gia không gian trá. Tại gia là bình
rượu độc, xuất gia là bình cam lồ. Tại gia tai hoạn, xuất
gia không tai hoạn. Tại gia chẳng phóng xả, xuất gia phóng
xả. Người tại gia lấy quả độc, người xuất gia
lấy quả không độc. Tại gia tương ưng với sự chẳng đáng
thích, xuất gia chẳng tương ưng với sự chẳng đáng thích.
Tại gia nặng nề ngu si, xuất gia nhẹ nhàng trí huệ. Tại
gia mất phương tiện, xuất gia phương tiện thanh tịnh. Tại
gia mất chánh ý, xuất gia chánh ý thanh tịnh. Tại gia mất
chí ý, xuất gia chí ý thanh tịnh. Người tại gia chảng
làm chỗ cứu vớt được, xuất gia hay làm chỗ cứu vớt.
Tại gia tạo cùng liệt, xuất gia chẳng tạo cùng liệt. Tại
gia chẳng phải chỗ ngụ ở, xuất gia là chỗ ngụ ở. Tại
gia chẳng phải chỗ về, xuất gia là chỗ về. Tại gia nhiều
sân nộ, xuất gia nhiều nhân từ. Tại gia mang gánh, xuất
gia bỏ gánh. Tại gia chẳng hết những tranh tụng, xuất gia
không tranh tụng. Tại gia có lỗi, xuất gia không lỗi. Tại
gia công việc bận rộn, xuất gia rảnh việc. Tại
gia nhiệt não, xuất gia rời nhiệt não. Tại gia nhiều cừu
thù, xuất gia không thù.
Tại
gia chứa tụ, xuất gia không tụ chứa. Tại gia của cải kiên
cố, xuất gia đức hạnh kiên cố. Tại gia cùng chung với
lo rầu, xuất gia không lo rầu. Tại gia tốn hao, xuất gia thêm
lợi ích. Tại gia là dễ được, xuất gia là ức kiếp khó
được. Tại gia là dễ làm, xuất gia là khó làm. Tại gia
thuận dòng, xuất gia ngược dòng. Tại gia ở giữa dòng, xuất
gia ngồi thuyền bè. Tại gia ở sông kiết sử, xuất gia qua
khỏi sông. Tại gia ở bờ này, xuất gia ở bờ kia. Tại
gia triền phược, xuất gia không phược. Tại gia hiềm hận,
xuất gia không hận. Tại gia pháp vua, xuất gia pháp Phật.
Tại gia nhiễm ô vì tham ái, xuất gia lìa ô nhiễm. Tại gia
sanh khổ, xuất gia sanh vui. Tại gia thiển cận, xuất gia thâm
viễn. Tại gia dễ làm bạn, xuất gia khó làm bạn. Tại gia
vợ làm bạn, xuất gia tâm làm bạn. Tại gia nhiều việc,
xuất gia lìa việc. Tại gia bức người nên khổ, xuất gia
lợi người nên vui. Tại gia tài thí, xuất gia pháp thí. Tại
gia cầm tràng ma, xuất gia cầm tràng Phật. Tại gia ổ hang,
xuất gia lìa hang ổ. Tại gia phi đạo, xuất gia lìa phi đạo.
Tại gia rừng rậm, xuất gia lìa rừng rậm.
Này
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia lần lượt suy tưởng
như vậy, lại nghĩ rằng tôi thiết lễ đồng với hằng ha
sa vì các chúng sanh một ngày đều bố thí, khéo điều thuần
trong chánh pháp phát tâm xuất gia, đây là chắc thiệt bố
thí đã trọn đủ. Nay tôi phải nên vững chắc tu giới
hạnh và nghe học chánh pháp.
Bồ
Tát ấy vào Tăng phường lễ tháp Phật nên có ba ý tưởng
: tôi cũng sẽ được cúng dường như vậy, tôi cũng sẽ được
thương xót tất cả chúng sanh mà để Xá lợi lại, tôi học
như vậy, làm như vậy, tinh tấn như vậy, mau chứng Vô thượng
Bồ đề, giả sử làm tất cả Phật sự xong thì như chư
Phật Thế Tôn nhập vào Niết bàn.
Bồ
Tát ấy vào Tăng phường quan sát tất cả công đức của
chư Tỳ Kheo : ai là đa văn, ai là thuyết pháp, ai là trì luật,
ai trì a hàm, ai trì Bồ Tát tạng, ai tịch tịnh, ai thiểu
dục khất thực mặc y phấn tảo ở riêng ly dục, ai siêng
tu hành, ai tọa thiền, ai chấp tác, ai là chủ chùa. Quan
sát hết công hạnh của chư Tỳ Kheo, tùy theo chỗ muốn của
các thầy chẳng có ý nghĩ chê trách.
Bồ
Tát ấy nếu ở tại chùa miễu và lúc qua tụ lạc có nói
năng phải khéo gìn khẩu nghiệp. Nếu có Tỳ Kheo thiếu
y bát thuốc men đồ vật cần dùng nên tùy theo chỗ đáng
cho mà cung cấp chớ để họ sanh lòng bực tức. Tại
sao ? Vì chư Thiên và loài người có phiền não tật đố,
phải giữ gìn gấp bội cho họ. Lòng người phàm phu chẳng
phải A La Hán. Phàm phu phạm lỗi chẳng phải A La Hán. Bồ Tát ấy gần bực đa văn để tu tập học hỏi, thân người
thuyết pháp để tu hành quyết định, gần người trì luật
để điều phục kiết sử chẳng sa vào trong chỗ phạm tội,
thân cận người trì Bồ Tát tạng để học tu hành sáu Ba
la mật và học phương tiện, gần người tịch tịnh để
tu học ở một mình, thân cận người tu hành để tu học
đoan tọa.
Nếu
có Tỳ Kheo chưa định địa vị, Bồ Tát ấy thấy họ cần
y thì cho y, cần bát thì cho bát, khuyên Tỳ Kheo ấy phát tâm
vô thượng đạo, tại sao ? Vì dùng tài và pháp nhiếp Tỳ
Kheo ấy hướng đến chỗ tối thắng vậy.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia khéo biết hạnh Sa Môn
như vậy. Nếu có các Sa Môn đấu tranh thưa kiện thì
hòa hiệp họ dầu phải xả bỏ thân mạng để thủ hộ chánh
pháp.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia thấy Tỳ Kheo bịnh thì
chăm sóc cho được lành dầu phải thí xả máu thịt nơi thân
mình.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia chưa mở tâm bố thí thì
chẳng trước mời thỉnh người để bố thí, lúc thí rồi
thì hối hận. Tất cả gốc lành đều lấy tâm Bồ đề
làm thượng thủ.
Nầy
Trưởng giả ! Tại gia Bồ Tát lúc ở địa vị tại
gia thì thật hành theo đúng lời Phật dạy chẳng quên chẳng
mất pháp trợ Bồ đề, pháp hiện tại không ô nhiễm, được
tăng thêm pháp thù thắng”.
Bấy
giờ Trưỏng giả Úc Già cùng các Trưởng giả đồng thanh
khen ngợi vui mừng rằng : “Đức hi hữu Thế Tôn khéo nói
lỗi họa tại gia, nhưng chúng tôi chưa biết giới hạnh xuất
gia, công đức xuất gia.
Bạch
đức Thế Tôn ! Chúng tôi cũng quan sát tại gia nhiều
lỗi, xuất gia đức lớn. Xin đức Thế Tôn thương xót,
chúng tôi nguyện được xuất gia”.
Đức
Phật bảo : “Này các trưởng giả ! Xuất gia rất khó,
phải hoàn toàn tịnh hạnh”.
Các
Trưởng giả bạch rằng : “Thiệt như lời Phật dạy, Xin
đức Thế Tôn cho chúng tôi xuất gia, chúng tôi sẽ thật hành
đúng như lời Phật dạy”.
Đức
Thế Tôn liền cho xuất gia bảo Di Lặc Bồ Tát rằng : “Này
thiện trượng phu tất cả Bồ Tát thanh tịnh làm cho các Trưởng
giả này được xuất gia”.
Di
Lặc Bồ Tát và chư Bồ Tát khiến chín ngàn Trưởng giả
đều xuất gia thọ giới xuất gia.
Lại
có ngàn Trưởng giả phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Trưỏng
giả Úc Già bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đức Thế Tôn đã nói tội lỗi và công đức của tại gia
rồi. Lành thay đức Thế Tôn, xin nói đức hạnh giới
văn của Bồ Tát xuất gia. Ở trong diệu pháp, Bồ Tát
điều phục xuất gia lễ bái ngồi đứng đến đi như thế
nào ?”
Đức
Phật bảo : “Trưởng giả khéo suy gẫm ghi nhớ, sẽ vì ông
mà nói Bồ Tát xuất gia phải học phải đứng đi như vậy”.
“Bạch
đức Thế Tôn ! Chúng tôi xin kính lắng nghe.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia phải học như vầy :
Do duyên cớ gì mà tôi bỏ sự nghiệp xuất gia ? Do vì tu trí
huệ, nên tôi siêng tinh tấn như chữa đầu bị cháy.
Lại
phải quan niệm nay tôi phải an trụ nơi bốn thánh chủng thích
thật hành đầu đà.
Thế
nào là Bồ Tát xuất gia tu bốn thánh chủng ?
Bồ
Tát xuất gia tùy theo y phục đã có nên tri túc, ca ngợi tri
túc, chẳng vì cớ y phục mà vọng ngữ. Nếu chẳng được
y phục thì chẳng tưởng chẳng nhớ chẳng lo rầu. Giả
sử được y phục thì lòng chẳng tham trước, dầu mặc y
phục mà lòng chẳng ràng buộc chẳng tham chẳng luyến, biết
lỗi của nó biết xuất ly. Tùy nơi sự tri túc ấy chẳng
tự khen tặng, chẳng khinh chê người.
Bồ
Tát xuất gia tùy theo khất thực được đồ uống ăn, tùy
theo bịnh được thuốc men, nhẫn đến tùy theo tọa cụ giường
phòng đã được đều nên tri túc và ca ngợi tri túc, chẳng
vì tọa cụ mà vọng ngữ. Nếu chẳng được thì chẳng
tưởng chẳng nhớ chẳng lo rầu. Nếu được thì chẳng
nhiễm trước, chẳng chứa để với nhiễm tâm, chẳng tham
chẳng luyến, biết lỗi của nó, biết hạnh xuất ly. Tùy theo sự tri túc ấy chẳng tự khen tặng, chẳng khinh chê
người. Ưa dứt ưa lìa ưa tu tập. Ở nơi sự ưa
dứt ưa lìa ưa tu tập ấy cũng chẳng tự khen tặng và chê
người.
Đây
gọi là Bồ Tát xuất gia an trụ nơi bốn thánh chủng.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia dùng mười công
đức để gìn và mặc y nơi thân : vì tàm quí, vì che thân,
vì muỗi mòng, vì gió dữ, chẳng vì êm dịu, chẳng vì tốt,
vì tiêu biểu giới tướng của Sa Môn, y hoại sắc ấy khiến
Trời Người A Tu La v.v… sanh ý tưởng kính thờ mà thọ trì
vậy, vì giải thoát mà nhuộm hoại sắc chẳng phải vì tham
dục mà nhuộm, vì tịch tịnh Niết bàn chẳng phải vì kiết
sử sanh tử, mặc y ấy chẳng sanh điều ác tu các sự lành,
chẳng vì đẹp tốt mà mặc y ấy, biết thánh đạo rồi tôi
làm đúng như vậy, chẳng để phiền não ô nhiễm dầu chừng
một niệm. Đây gọi là Bồ Tát xuất gia mười sự công
đức gìn mặc y nơi thân.
Lại
nầy Trưởng giả ! Vì thấy mười sự nên Bồ Tát xuất
gia trọn đời chẳng xả bỏ khất thực !
Nay
tôi tự sống chẳng do người mà sống, nếu có ai thí cho
tôi ăn phải khiến họ an trụ nơi ba pháp quy y rồi sau mới
ăn, với người không thí cho tôi ăn thì tôi sanh lòng đại
bi đối với họ, vì chúng sanh ấy mà tôi siêng tu tinh tấn
khiến họ việc làm xong rồi sau mới ăn món ăn của họ cho,
lại tôi chẳng trái lời truyền dạy của đức Phật, vì
trồng đầy đụ nhơn căn bổn, vì y cứ nơi hàng phục ngã
mạn để chứa nhóm nhơn duyên tướng vô kiến đảnh, vì
chẳng bị cùng hòa hiệp với đàn bà đàn ông gái trai, bình
đẳng khất thực sanh lòng bình đẳng đối với các chúng
sanh, vì họp nhơn duyên trang nghiêm Nhứt thiết trí vậy. Thấy mười sự lợi ích ấy, Bồ Tát xuất gia trọn đời
chẳng bỏ pháp khất thực.
Nếu
có ai chí tâm kính tin đến thỉnh mời thì nên đi. Nếu
người thỉnh mời chẳng chí tâm, nhưng quan sát có nhơn duyên
tự lợi và lợi cho họ thì nên đi.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia thấy mười sự
lợi ích nên trọn chẳng bỏ chỗ tịch tịnh :
Vì
tự tại trừ bỏ, vì gìn vô ngã, vì bỏ ái luyến ngọa cụ,
vì tịch tịnh không ái nhiễm, vì ở không có gì đáng cầu
lợi, vì bỏ thân mạng nơi tịch tịnh, vì lìa đông người
ồn ào, vì làm việc làm trong pháp của Như Lai, vì tịch định
thích ý, vì chuyên niệm không bị chướng nạn vây. Đây
là ý thấy mười công đức lợi ích nên Bồ Tát xuất gia
trọn đòi chẳng bỏ rời ở chỗ tịch tịnh.
Nầy
Trưởng giả ! Nếu Bồ Tát ở chỗ tịch tịnh vì muốn
nghe pháp, vì có nhơn duyên Hòa Thượng A Xà Lê, vì thăm bịnh
mà phải vào tụ lạc thì nên nghĩ rằng : Tối nay tôi sẽ
trở về. Nếu vì đọc tụng mà ở phòng xá, thì nên
quan niệm rằng : Nay tôi vốn ở chỗ tịch tịnh, chỗ tịch
tịnh tương ưng với chánh pháp, với tất cả vật không có
ý tưởng cạnh tranh, với tất cả pháp không có ý tưởng
chướng ngại, thường tập hợp pháp lành không hề mỏi chán.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh, quan
niệm rằng : Duyên cớ gì mà tôi ở tại chỗ tịch tịnh,
chẳng phải chỉ ở chỗ vắng vẻ mà gọi là Sa Môn, nơi
đây cũng có những thứ chẳng điều phục, chẳng tịch tịnh,
chẳng vững chắc, chẳng tương ưng cùng ở, đó là loài hươu
nai, khỉ vượn, chim thú sư tử, cọp sói, giặc cướp, chúng
nó không có công đức Sa Môn. Vì thế nên tôi phải có
đầy đủ tư cách người ở tịch tịnh thật hành công hạnh
nghĩa lợi Sa Môn, đó là nhiếp niệm chẳng loạn được đà
la ni tu đại từ đại bi ngũ thông tự tại đầy đủ sáu
Ba la mật chẳng rời bỏ tâm Nhứt thiết trí, tu hành phương
tiện, thường dùng pháp thí nhiếp lấy tất cả chúng sanh
giáo hóa tất cả chúng sanh chẳng rời bỏ nhiếp pháp, tu
hành sáu chánh niệm siêng học hỏi suy gẫm tu tập chánh hạnh
chẳng lấy trí chứng quả, hộ trì chánh pháp, tin nghiệp
báo đây gọi là chánh kiến, dứt tất cả vọng tưởng phân
biệt đây gọi là chánh tư duy, tùy theo chánh pháp đã hiểu
biết mà giải thuyết cho mọi người đây gọi là chánh ngữ,
trừ hết nghiệp hữu lậu đây gọi là chánh nghiệp, dứt
trừ kiết sử phiền não đây gọi là chánh mạng, siêng thẳng
đến chánh định đây gọi là chánh tinh tấn, chẳng quên
các pháp đây gọi chánh niệm, được Nhứt thiết trí đây
gọi là chánh định, giải không chẳng kinh, vô tướng chẳng
sợ, vô nguyện chẳng khiếp, tâm chẳng chấp có, y nghĩa chẳng
y ngữ, y trí chẳng y thức, y pháp chẳng y người, y kinh liễu
nghĩa chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa.
Đây
gọi là Bồ Tát an trụ pháp Sa Môn.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia chẳng nên thân cận
trong chúng đông người, phải nghĩ rằng tôi phải rời xa
họ, thiện căn của tôi vì trọn chẳng bỏ tất cả chúng
sanh mà tu tập thiện căn.
Xuất
gia Bồ Tát có bốn chỗ thân cận được đức Như Lai hứa
khả : Bồ Tát xuất gia thân cận nghe chánh pháp, thân cận
thành thục tất cả chúng sanh, thân cận cúng dường Như Lai,
thân cận chẳng bỏ tâm Nhứt thiết trí. Bồ Tát nên
thân cận nơi đây chớ thân cận chỗ khác.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh
phải quan niệm rằng : Do cớ gì mà tôi đến chỗ nầy ? Tôi
đến đây vì sợ sự gì, sợ ai ? Vì sợ đông người
ồn náo, vì sợ thân cận, vì sợ tham sân si, vì sợ cuồng
mạn, vì sợ não nhiệt, vì sợ san tham, vì sợ sắc thanh hương
vị xúc, vì sợ ấm ma phiền não ma tử ma và thiên ma, vì
sợ vô thường cho là thường, vô ngã chấp ngã, vui trong khổ,
trong dơ thấy sạch, vì sợ tâm ý thức, vì sợ sự đánh
đập hiện tại, vì sợ ngã kiến, vì sợ ngã ngã sở, vì
sợ ác tri thức, vì sợ lợi dưỡng, vì sợ phi thời ngũ,
vì sợ chẳng thấy nói thấy, chẳng nghe nói nghe, chẳng nhớ
nói nhớ, chẳng biết nói biết, vì sợ Sa Môn cấu nhiễm,
vì sợ ba cõi Dục Sắc và Vô Sắc, sợ tất cả các loài
sanh tử, vì sợ địa ngục súc sanh ngạ quỉ, vì sợ các
thứ đáng sợ ấy mà tôi đến ở chỗ tịch tịnh này chẳng
ở trong chúng tại gia ốn ào. Nếu tôi chẳng tu hành
chẳng tu niệm xứ thời chẳng tương ưng vì thoát khỏi các
sự đáng sợ ấy mà đến ở đây.
Quá
khứ vô lượng đại Bồ Tát đều ở chỗ tịch tịnh thoát
khỏi bố úy được vô úy Bồ đề Vô thượng. Vị lai
chư Bồ Tát cũng ở nơi tịch tịnh thoát khỏi bố úy được
vô úy Bồ đề Vô thượng. Hiện tại chư Bồ Tát cũng
ở nơi tịch tịnh thoát tất cả bố úy tu hành vô úy được
Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên nay tôi muốn được
vô úy thoát tất cả bố úy mà ở chỗ tịch tịnh này.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh
không bố không úy phải học như vầy: Nếu người có bố
úy là do chấp ngã đều do trước ngã, ngã là đầu mối,
đều do yêu ngã, khởi ngã, thấy ngã, tưởng ngã, trì ngã,
vọng tưởng nơi ngã, thủ hộ nơi ngã. Nếu ở chỗ tịch
tịnh mà chẳng bỏ chấp ngã thì mất lợi lành.
Nầy
Trưởng giả ! Nếu ở chỗ tịch tịnh mà không có ngã tưởng
là thiệt ở tịch tịnh, nếu không có thấy chấp ngã là
thiệt ở tịch tịnh, nếu không trụ ngã ngã sở là thiệt
ở tịch tịnh.
Nầy
Trưởng giả ! Nói rằng chỗ tịch tịnh là chẳng y trước
nơi tất cả pháp, chẳng trụ các pháp, với các pháp vô ngại,
chẳng y sắc thanh hương vị xúc mà trụ, an trụ tất cả
pháp bình đẳng vô cấu, an trụ khéo điều phục tâm, bỏ
tất cả bố úy an trụ vô úy, an trụ thoát tất cả dòng
sông lớn kiết sử, an trụ thánh chủng, an trụ thiểu dục,
an trụ tri túc, dễ đủ dễ nuôi, an trụ đầy đủ trí, an
trụ đúng như chỗ học mà tu hành, an trụ giải thoát vì
quán môn không vô tướng vô tác, an trụ giải thoát tri kiến
vì dứt hệ phược, an trụ biên tế vì thuận nhơn duyên,
an trụ việc làm đã xong vì cứu cánh thanh tịnh vậy.
Nầy
Trưởng giả ! Như chỗ trống không những rừng cây cỏ thuốc
không kinh không sợ, Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh phải
tự sanh tâm niệm coi mình như cỏ cây tường vách, như
ảo huyễn, trong đây có ai kinh ai sợ. Phải dùng vô úy
mà quan niệm thân mình : thân thể này không ngã không ngã
sở, không chúng sanh, không thọ mạng, không người, không
trượng phu, không niên thiếu. Nói rằng kinh sợ đó chỉ
là danh từ trống rỗng không sự thiệt. Nay tôi chẳng
nên lấy không sự thiệt để sanh kinh sợ. Như chỗ trống
kia những rừng cây cỏ thuốc không an trụ, không hộ trợ,
tôi phải biết tất cả pháp như vậy rồi mới là khéo ở
chỗ tịch tịnh. Tại sao ? Vì dứt lo dứt tranh nên
gọi là tịch tịnh, vì không sanh không hộ nên gọi là tịch
tịnh.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh
phải học như vầy : trước thuận giới tụ, kế tu định
tụ, tập họp huệ tụ, tu hành giải thoát, phát sanh giải
thoát tri kiến, mở bầy pháp trợ Bồ đề, siêng mưòi hai
công đức đầu đà. Ở chỗ tịch tịnh là để biết
chắc phương tiện, vì khéo biết ngũ ấm, vì đồng pháp giới,
vì phục trừ các nhập, vì chẳng quên tâm Bồ đề, vì quán
không vô úy, vì chẳng mất tất cả căn lành, vì là chỗ
Phật Bồ Tát và thánh nhơn khen tặng, vì là chỗ nương dựa
của người muốn giải thoát. Người muốn Nhứt thiết
trí phải an trụ chỗ tịch tịnh.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh
dùng chút ít sự việc có thể đầy đủ sáu Ba la mật. Tại sao ? Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh chẳng
tiếc thân mạng, đây gọi là tu tập đầy đủ Đàn Ba la
mật. Bồ Tát này giữ giới đầu đà gìn thân khẩu
ý, đây gọi là tu tập đầy đủ Thi Ba la mật. Bồ Tát
nầy ở nơi chúng sanh không có lòng sân hận mà nhẫn thọ
nhứt thiết trí, đây gọi là tu tập đầy đủ Nhẫn Ba la
mật. Bồ Tát nầy có ý nghĩ rằng tôi ở đây cần phải
được vô sanh pháp nhẫn, đây gọi là tu tập đầy đủ Tinh
tấn Ba la mật. Bồ Tát nầy xả thiền định để giáo
hóa chúng sanh tu tập các thiện căn, đây gọi là tu tập đầy
đủ Thiền Ba la mật. Bồ Tát nầy thường quan niệm
: Thân thể này của tôi thế nào thì hư không cũng vậy. Thân thể này của tôi thế nào thì Bồ đề cũng vậy, như
chơn như không vọng tưởng, như hư không không vọng tưởng,
đây gọi là tu tập đầy đủ Bát Nhã Ba la mật.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia thành tựu bốn pháp
thì biết ở chỗ tịch tịnh, đó là giới thanh tịnh, học
hỏi nhiều, suy gẫm tương ưng và tu hành đúng như pháp.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nếu kiết sử tăng
thượng thì chẳng nên gần gũi chỗ tịch tịnh mà phải dẹp
phục kiết sử.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh
phải tu ngũ thần thông để giáo hóa hàng Thiên, Long, Dạ
Xoa, Càn Thát Bà.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh
phải như lòi đức Phật dạy mà ở chỗ tịch tịnh, tôi
phải đầy đủ tất cả công đức lành thanh tịnh, được
pháp lành huân tập rồi đến thành ấp tụ lạc thuyết pháp.
Đây
gọi
là Bồ Tát xuất gia có bốn pháp như vậy mà ở chỗ tịch
tịnh.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia từ chỗ tịch tịnh
đứng dạy thọ pháp đọc tụng đến chỗ Hòa thượng A Xà
Lê thượng trung hạ tọa quan niệm rằng đây là phước điền
của tôi chẳng nên giải đãi, đây là hạnh nghiệp của tôi
chẳng ganh với người tôi phải hầu hạ người. Đức
Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác là phước điền cúng dường
của tất cả Trời, Người, Ma Vương, Phạm Vương, Sa Môn,
Bà La Môn, là cha của tất cả chúng sanh, Phật chẳng móng
tâm cầu tìm người hầu. Nay tôi muốn học tập, tôi
chẳng cầu người hầu hạ tôi mà tôi sẽ làm kẻ hầu hạ
cho tất cả chúng sanh. Tại sao ? Nầy Trưởng giả
! Nếu Tỳ Kheo trọng sự hầu hạ thì mất pháp công đức. Nếu dùng của để nhiếp thọ sẽ bảo rằng vì muốn sai
bảo tôi nên dùng tiền của nhiếp tôi chớ chẳng phải vì
pháp, do đó mà mất sự tin tưởng đối với mình. Nếu
dùng tiền của nhiếp kẻ hầu hạ thì không có quả báo lợi
ích lớn. Nếu biết rõ ý muốn của Hòa thượng A Xà
Lê thì theo đó mà làm chớ để Hòa thượng A Xà Lê chẳng
tin mình chẳng kính ái mình. Vì tán tụng pháp mà xả
bỏ thân mạng, vì tán thán nơi pháp mà thí xả lợi dưỡng
để vừa ý người để được lợi ích công đức.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nếu từ nơi người mà
được thọ trì đọc tụng một kệ bốn câu tương ưng với
thí giới nhẫn tấn định huệ trợ đạo Bồ đề, thọ trì
văn tự chương cú kệ tụng, thì phải vì pháp mà cung kính
như là bực Hòa thượng A Xà Lê, trong vô lượng kiếp hầu
hạ người ấy, cúng dường tất cả chẳng sanh lòng dua dối. Như vậy còn chẳng báo được ơn huống là còn cần phải
kính trọng nơi pháp.
Nầy
Trưởng giả ! Nếu được lòng tin phát khởi niệm lành
: niệm Phật Pháp Tăng, niệm nơi vô lậu, niệm tịch diệt
điều phục, thì trong vô lượng kiếp hầu hạ cúng dường
còn chưa báo hết ơn của Hòa Thượng. Phải quan niệm
rằng nếu được nghe pháp rồi thì có vô lượng phước báo
được vô lượng trí huệ, tôi phải cúng dường Hòa Thượng
vô lượng kiếp.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia phải an trụ đúng
như pháp xuất gia. Thế nào là an trụ đúng như pháp
xuất gia ? Bồ Tát xuất gia ấy nghe tịnh giới rồi phải
học bốn tịnh giới : đó là an trụ thánh chủng, thích hạnh
đầu đà, chẳng thân cận hàng tại gia xuất gia, chẳng dua
dối mà ở chỗ tịch tịnh.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi
phải học bốn tịnh giới như vầy : thân giới thanh tịnh
mà chẳng thấy có thân, khẩu giới thanh tịnh mà chẳng thấy
có khẩu, lìa rời thân kiến, phát tâm Nhứt thiết trí.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi
phải học bốn tịnh giới như vầy : rời lìa ý tưởng ngã,
vứt bỏ ngã sở, xa đoạn thường kiến, hiểu pháp nhơn duyên.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi
phải học bốn tịnh giới như vầy : ấm không chỗ có, giới
đồng pháp giới, nhập như hư không, chẳng ở nơi giả danh.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi
phải học bốn tịnh giới như vầy : biết ngã bất khả đắc,
tôi khai ngộ cho người khiến tâm thanh tịnh, tâm chẳng thích
an trụ nơi tất cả pháp, không có dao động.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi
phải học bốn tịnh giới như vầy : hiểu không, chẳng sợ
vô tướng vô tác, với tất cả chúng sanh khởi lòng đại
bi, nhập vào vô ngã.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh tam muội
rồi phải học tịnh tam muội như vầy : tất cả pháp đều
vô sở hữu, không có hai tâm, tâm chánh nghiệp, tâm nhứt
xứ, tâm không dao động, tâm không hí luận, tâm không loạn
náo, tâm không y chỉ, tâm tự tại, tâm không trì tán, chẳng
an trụ tâm giới, thấy tâm như ảo, xem tất cả pháp đồng
như pháp giới không hành không trụ cũng không khởi, chẳng
có được trong ngoài trung gian, tam muội đồng đẳng, an trụ
pháp như vậy gọi là tam muội. Đây gọi là Bồ Tát
xuất gia quán định tu thanh tịnh.
Lại
nầy Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh huệ tụ,
nghe rồi phải quan sát những gì gọi là thanh tịnh huệ tụ. Bồ Tát ấy phải tu học như vầy : biết rõ các pháp nhơn
duyên, trí sai biệt, trí biện tài, trí tốc tật, trí biết
chúng sanh, trí nhiếp phục ngoại chúng sanh.
Nầy
Trưởng giả ! Bồ Tát xuất gia lại phải học như vầy
: huệ tụ thanh tịnh cũng gọi là không hệ phược vì không
có thân, không có chỗ chấp trì không động không dừng không
hình không tướng không sanh không hành, ví như hư không vậy. Nếu quan niệm như vậy thì gọi là Bồ Tát an trụ nơi xuất
gia”.
Lúc
đức Phật nói pháp trên đây, có tám ngàn chúng sanh phát
tâm Vô thượng Bồ đề, chư Trưởng giả được vô sanh pháp
nhẫn, ba vạn hai ngàn chúng sanh xa lìa trần cấu được pháp
nhãn tịnh.
Úc
Già Trưởng giả vui mừng hớn hở đem y giá trị trăm ngàn
dưng cúng đức Phật mà bạch rằng : “Nguyện đem căn lành
này thí cho khắp tất cả chúng sanh, khiến các Bồ Tát tại
gia thành tựu đầy đủ giới pháp mà đức Phật đã dạy,
cũng nguyện chư Bồ Tát xuất gia đầy đủ tất cả pháp
mà đức Phật đã dạy.
Bạch
đức Thế Tôn ! Thế nào Bồ Tát tại gia ở tại nhà
mà tu học giới xuất gia ?”
Đức
Phật phán : “Nầy Trưởng giả ! Bồ Tát tại gia đủ
năm pháp thì ỏ tại nhà mà tu học giới xuất gia.
Bồ
Tát ở tại nhà chẳng tiếc tất cả tài vật sở hữu tương
ưng với tâm Nhứt thiết trí chẳng mong quả báo.
Bồ
Tát ở tại nhà đủ phạm hạnh thanh tịnh chẳng có ý tưởng
dâm dục huống là hai hòa hiệp.
Bồ
Tát tại gia đến chỗ vắng vẻ tu tập tứ thiền dùng sức
phương tiện chẳng nhập vào chánh vị.
Bồ
Tát tại gia ở tại nhà phải tột tinh tấn học trí huệ
tương ưng đức từ đối với chúng sanh.
Bồ
Tát ở tại nhà gìn giữ chánh pháp cũng khuyên bảo mọi người.
Trên
đây là Bồ Tát ở tại nhà đủ năm pháp tu học giới xuất
gia”.
Úc
Già Trưởng giả bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn
! Tôi ở tại gia sẽ giữ đúng như Phật dạy làm thêm
rộng Phật đạo, các giới xuất gia tôi cũng phải học.”
Bấy
giờ đức Thế Tôn liền mỉm cười. Theo lệ thường
của chư Phật lúc mỉm cười có nhiều tia sáng màu xanh vàng
đỏ trắng từ diệm môn phóng ra chiếu khắp vô lượng vô
biên thế giới, trên đến trời Phạm Thế che khuất ánh sáng
mặt nhựt mặt nguyệt rồi trở về quanh thân Phật ba vòng
sau đó rót vào đảnh đầu đức Phật.
Thấy
vậy Ngài A Nan rời chỗ ngồi chỉnh y phục trịch y vai hữu
gối hữu chấm đất bạch đức Phật rằng : Duyên cớ gì
đức Thế Tôn cười ? Chư Phật Thế Tôn không bao giới
không duyên cớ mà mỉm cười”.
Đức
Phật dạy : “Này A Nan ! Ông có thấy Trưởng giả Úc Già
cúng dường Như Lai muốn tu hành giáo pháp làm sư tử hống
chăng ?
-Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy.
-“Này
A Nan ! Trưởng giả Úc Già ở tại đây, trong Hiền kiếp
này chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian, ông ấy thường
ở tại gia cúng dường cung kính hộ trì chánh pháp. Ông
ấy ở tại gia mà an trụ giới xuất gia rộng học Vô thượng
Bồ đề của chư Phật Như Lai”.
Đại
đức A Nan nói với Trưởng giả Úc Già : “Ngài thấy lợi
ích gì mà thích ở tại nhà, Ngài có thánh trí chăng ?”.
Trưởng
giả Úc Già nói : “Bạch Ngài A Nan ! Người chẳng thành
tựu đại bi chẳng nên tự nói tôi là an lạc. Bạch Đại
đức A Nan ! Đại Bồ Tát nhẫn tất cả khổ chẳng bỏ chúng
sanh”.
Đức
Phật phán : “Này A Nan ! Trưởng giả Úc Già đây ở
tại gia hóa độ rất nhiều chúng sanh trong Hiền kiếp chẳng
phải Bồ Tát xuất gia trăm kiếp trăm ngàn kiếp làm được. Tại sao ? Vì, nầy A Nan ! Công đức của trăm ngàn Bồ Tát
xuất gia chẳng bằng công đức Úc Già Trưởng giả”.
Ngài
A Nan bạch đức Phật : “Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy tên
gì phải thọ trì thế nào ?”.
Đức
Phật dạy : “Này A Nan ! Kinh này tên là Úc Già Trưởng
giả Sở Vấn. Cũng tên là kinh Tại Gia Xuất Gia Bồ Tát
Giới. Cũng tên là kinh Ân Trọng Cấp Sự Sư Trưởng
Phẩm.
Nầy
A Nan ! Nếu có Bồ Tát được nghe kinh này thì là đại tinh
tấn chớ chẳng phải hạ tinh tấn. An trụ nơi phạm
hạnh trăm ngàn muôn lần chẳng bằng đưọc. Muốn tự
an trụ tinh tấn, muốn khuyên người an trụ tinh tấn, muốn
tự an trụ tất cả công đức, muốn khuyên người an trụ
tất cả công đức, thì nên nghe kinh này rồi thọ trì đọc
tụng rộng giảng thuyết cho người và tu hành đúng như lời.
Này
A Nan ! Ta đem kinh pháp này giao phó cho ông thọ trì đọc
tụng. Tại sao ? Vì pháp này đầy đủ tất cả
công đức. Nếu có Bồ Tát tương ưng với pháp này thì
chẳng rời lìa tương ưng với Như Lai. Nếu Bồ Tát rời
pháp này thì là rời Phật. Nếu Bồ Tát rời pháp này,
rời lìa thọ trì đọc tụng rộng tu hành như lời thì là
rời lìa thấy tất cả chư Phật. Tại sao ? Vì sự
việc xuất gia của chư Phật đều hiển thị trong kinh này.
Này
A Nan ! Giả sử lửa cháy lớn cả Tam Thiên Đại Thiên
thế giới, vì chánh giác nên phải đi ngang qua để đến nghe
kinh này thọ trì đọc tụng tu hành đúng như lời.
Này
A Nan ! Nếu vì chư Phật quá khứ mà xây tháp bảy báu
dùng tất cả đồ cúng để cúng dường bửu pháp, với chư
Phật hiện tại và Thanh Văn Tăng dùng các đồ cúng để cúng
dường trọn đời, với chư Phật và chư Bồ Tát vị lai đều
làm nô bộc và làm đệ tử để cúng dường các Ngài, nếu
chẳng nghe kinh này chẳng thọ trì chẳng đọc tụng chẳng
giảng thuyết chẳng tu hành, rời lìa kinh pháp này thì chẳng
gọi là cúng dường chư Phật Như Lai. Nếu có nghe kinh
này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ
Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi. Tại
sao ? Vì tu hành đúng như lời chính là pháp điều phục
của chư Phật Như Lai vậy”.
Đức
Phật nói kinh này rồi, Đại Đức A Nan, Trưởng giả Úc Già,
Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, tất cả thế gian nghe lời
đức Phật dạy đều rất vui mừng tin nhận vâng làm
[40]
HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Đại Bảo Tích – Pháp Hội Úc Già
Trưởng Giả 19
Discussion about this post