Hiện tượng Duy Tuệ và “thiền Minh triết”
Từ biến thái đến bệnh thái
Duy Thức
Lời
người viết: Gần đây dư luận trong và ngoài Giáo hội
những ý kiến về hiện tượng “đạo sư Duy Tuệ” với những tuyên bố và quan điểm
báng bổ giáo lý các tôn giáo, trong đó có đạo Phật. Để rõ hiện tượng biến thái
này, người viết thấy cần góp một tiếng nói khiêm tốn qua hiện tượng mang sắc
màu “bệnh thái”, cụ thể là Duy Tuệ với thiền Minh triết.
Từ biến thái Phật pháp ở
trời Âu…
Nếu như trong Tây du ký có một hồi xuất hiện đến hai
Đường Tăng gây bối rối cho cả một kẻ nhiều tài phép như Tôn Ngộ Không hay có
lúc bản thân bác Tôn nhà ta cũng hoang mang vì “một gã Giả Hành Tôn tự xưng
mình mới là Tề Thiên đích thực”. Chỉ bằng Phật nhãn, chân lý mới làm sáng tỏ.
Thực tế cũng cũng có nhiều trường hợp làm không ít người nhầm
lẫn. Như Bhagwan Rajneesh, người thường xưng danh Osho, thường tự cho mình là
Di Lặc, hay được tín đồ của ông ta ca ngợi như thế. Ron Hubbard, người sáng lập
Scientology, một trong những phong trào có ảnh hưởng lớn xã hội Âu Mỹ với nhiều
tín đồ là các nhân vật nổi tiếng trong làng giải trí như tài tử Tom Cruise…,
Hubbard muốn tạo ra một “tôn giáo” mới thoạt nhìn thì giống như sự kết hợp giữa
tổ chức của nhà thờ Thiên Chúa với công ty đa quốc gia nhưng về ý thức hệ lại dựa vào Phật
pháp, lại mang tính chất huyền nhiệm và sùng bái vật thể… Hay gần đây có
Eckhart Tolle, một nhà thuyết giảng tâm linh gốc Đức, đang sống ở Canada, tác giả
của “The Power of Now”…
Có thể xem
đó là những biến thái tư duy bằng việc dựa vào Phật pháp để đưa ra những diễn
giải mới về Thượng đế, tự nhiên, thực tại nhưng không xuyên tạc, đạp đổ các nền
tảng tâm linh khác.
… đến bệnh thái “đạo sư” ở Việt Nam
Nhưng ở Việt Nam, chúng ta đang gặp một vài trường hợp “bệnh
thái” – sử dụng hay vận dụng Phật pháp và Phật giáo vì những động cơ nào đó,
cộng với sự ngông cuồng vọng ngữ nhưng lại được tạo điều kiện truyền bá bí mật
hay công khai… Đó là Thanh Hải “Vô thượng sư”, và nay lại thêm một “đạo sư” Duy
Tuệ.
Có những người tự xưng là
“đạo sư” (tiếng Anh là “Master”, hay Guru theo tiếng Ấn), truyền giảng giáo lý,
học thuyết thoạt nghe tưởng như giáo lý nhà Phật vì ngôn ngữ giống nhau: cũng
Vô thường, Nghiệp báo, Bát Chánh đạo, Tứ vô lượng tâm… nhưng nghe kỹ, hiểu sâu,
chúng ta sẽ thấy đó chỉ là một thứ “giả kim”. Nếu ở trời Âu, những Osho hay
Hubbard còn có chỗ đáng châm chước vì ít ra họ không quá ngông cuồng thì tại
Việt Nam,
các ông bà “ Đạo” lại tự tôn vinh mình, như kiểu Duy Tuệ:
“Theo truyền thuyết trong kinh sách, khi đạt được trạng thái
an lạc nội tâm thì Đức Phật tuyên bố đại ý rằng: Ta vừa trải nghiệm một trạng
thái rất đặc biệt, một trạng thái hoàn toàn không thấy khổ đau nữa. Giờ đây ta
đã hiểu rõ nguyên nhân của khổ đau nữa. Giờ đây ta đã hiểu rõ nguyên nhân của
khổ đau là gì, ta tuyên bố “Ta đã thành Phật”…
“Do ân
phước tôi cũng tự nhiên rơi vào trạng thái đặc biệt ấy, và tôi khẳng
định rằng trạng thái an lạc tuyệt đối có sẵn trong mỗi con người là có thật.
Khi vào trạng thái ấy, con người sẽ mở ra một sự thấy hết sức đặc biệt. Và cái
thấy xuất hiện đầu tiên là thấy nguyên nhân nào khiến con người không được sung
sướng, mãn nguyện với kiếp người của mình” (Duy Tuệ, Ta là ai? (TLA) – trang 28)
Mập mờ ngôn ngữ
Nhưng nếu chỉ rao giảng triết thuyết của mình, phê phán Phật giáo thì mọi người sẽ nghi ngờ động cơ
không trong sáng, nên họ mới đưa ra những lời kêu gọi thiêng liêng như ‘bảo vệ môi trường’, kêu gọi ‘tình
yêu thương’; phong cho những người tu theo mình là “hiền giả minh triết”,
“doanh nhân minh triết”; lập các quỹ từ thiện…, rồi nhân đó rao giảng một mớ
tả-pí-lù, một loại lẩu thập cẩm nhặt nhạnh từ giáo lý Phật, Lão, Thượng đế,
đồng thời sử dụng ngôn ngữ nhà Phật, cũng cổ xúy ngồi thiền, quán niệm, khai mở
ánh sáng, minh triết…
Lập ra
“Thiền Minh triết” để mập mờ nghe na ná như Thiền Minh sát (Vipassana) – một phương pháp thiền căn bản trong đạo
Phật. Đấy là đại vọng ngữ khi họ tự tung hê triết thuyết được “sinh sản vô
tính” của mình. Bệnh thái còn nằm ở chỗ những danh xưng “vĩ đại” trong chiếc áo “Nghiên cứu
và ứng dụng Phật học Việt Nam” gá vào danh xưng UNESCO Việt Nam.
Phá chấp giả vờ nhằm phủ
nhận chân lý
Thủ thuật thông thường là họ tuyên bố nhiều câu mang tính chất
phá chấp, nếu không cẩn thận, ta cứ ngỡ đang nghe Tổ Lâm Tế tái sinh hay một
thiền sư đạt đạo đang muốn tín đồ đừng chấp vào câu chữ trong kinh, chấp vào
nghi lễ tôn giáo, hay đừng “thần phục” các vị Tăng Ni…, phủ nhận giá trị của
hành trì hay công phu.
“Nếu đi chùa mà không cải thiện gì thì đừng đi nữa. Nếu
niệm Phật
mà không giúp ích gì thì đừng niệm nữa” (TLA, trang 35 )
“Quý vị chỉ cần biết hai vị Phật… giữa hai vị Phật, nên chọn
Phật Trần Nhân Tông cho gần gũi, Phật Thích Ca là của truyền thuyết, không biết có hay không. (TLA,
trang 73)
“Bởi chính các vị
Phật, thánh nhân hay bậc thầy đều dạy và trang bị cho đệ tử hay người khác
những đức tin tốt đẹp… Như vậy, đức tin được dùng để trấn an sợ hãi, nhút nhát,
hèn yếu và sự bình tĩnh, tự tin cho họ. Nghĩ lại mà thấy đau lòng. Cây cối
trong rừng chẳng cần đức tin nào mà vẫn sừng sững trước phong ba bão táp, trong
khi con người lại cố tìm đức tin gắn vào đầu mà vẫn nhiều tuyệt vọng yếu hèn!”.
(TLA, trang 97)
“Không có nghiệp
chướng gì của đời trước để đời này phải trả, phải chịu cảnh cơ hàn cực khổ,
thiếu cơm ăn, áo mặc hay nhà ở. Nhìn theo kiểu phải trả nghiệp là tự đưa mình
vào ngõ cụt, xuống vực thẳm hay đường cùng”.(TLA, trang 99)
“Nếu nói Bát Chánh đạo
là chìa khóa giải quyết vấn đề khổ đau, thì tại sao mấy ngàn năm qua không
phát huy tác dụng? Tám con đường đó là giải quyết tình trạng của cái đầu
mỗi người, chứ không phải lên thiên đàng hay về cõi Phật như kinh sách nói,
nhưng tại sao không giải quyết được?” (trang 122, sđd, người viết nhấn
mạnh).
Ông “đạo sư”
này mượn cách đó mê hoặc để chuyển hướng nhận thức quần chúng, muốn quần chúng
không cần đến chùa, không cần tập trung tu tập, cứ ở nhà hành trì cầu ông Phật
trong lòng, vui và cam chịu hoàn cảnh đang sống dù có nhiều điều không vừa ý, không có ý kiến phản biện lại xã
hội, sống như những con cừu ngoan ngoãn…
Ông Duy Tuệ đã viết gì?
“Dân chúng cũng như tất cả Phật tử xưa nay luôn mải mê với
vấn đề xuất gia và giải thoát. Thế nên, nhiều người bỏ nhà cửa, bỏ gia đình và
bỏ sự nghiệp để đi tu và giải thoát. Qua những trình bày trên của tôi quý vị đã
rõ người ta đã nghĩ sai hoàn toàn ý nghĩa của giải thoát. Việc hiểu sai dẫn đến
sự tự hành hạ mình hết năm nay đến năm khác và cả cuộc đời, rồi truyền hết đời
này đến đời khác. Hiểu không đúng thì làm sao thực hành có hiệu quả được!?” (trang
39, sđd)
Không phải hoàn thành
giới luật là không trộm cắp, không tà dâm, không sát sanh, không uống rượu,
không nói dối. Đó là vấn đề nhỏ và căn bản đã có từ thời xa xưa. Thời ấy con
người mới có mặt trên hành tinh, chưa biết gì nên đưa ra những giới luật đó để
dạy họ biết làm người và coi như một thứ pháp luật trong tôn giáo để góp phần
bảo vệ trật tự cộng đồng và hạnh phúc cá nhân. Giờ đã qua mấy ngàn năm, con
người đã biết giới luật đó rồi, không phải dạy nữa. Giới luật hiện giờ
là dạy con người sống phù hợp với cộng đồng, với môi trường và thiên
nhiên”. (trang 61, sđd)
“Nếu đã thấy rõ được như vậy, quý vị nghĩ xem có cần tu
nữa không? Có cần tập trung hàng trăm hàng ngàn người lại để tu không? Mà
liệu tập trung vậy có đạt được kết quả gì không?… Việc tập trung người trong
một thời gian để tu chẳng mang lại hiệu quả gì hết. Đó là sự đóng kịch của
những người ngu, vô minh. (trang 134, sđd)
“Do vậy hãy làm cho vị Chúa trong mình mạnh lên, ông Phật
trong mình sáng lên,…. Ông Phật ấy càng sáng thì càng dễ có nhà, xe, sức
khỏe tốt và sẽ không còn cãi nhau”(trang 126, sđd)
“Nhãn thông là khi nhìn thấy bất cứ vấn đề gì, mình luôn cảm
thấy dễ chịu, không phát ra ý kiến riêng (?). Ngược lại nhìn gì cũng
phát ra nhiều ý kiến, gọi là nhãn “kẹt” (!).
Ý thông
là đứng trước mọi vấn đề, luôn cảm thấy bằng lòng, không chê bai. Không phát
ra những suy nghĩ đối lập với vấn đề (!). Còn thấy không hài lòng
phát ra những nhận xét chê bai, bực bội,
tức là ý còn “kẹt”(?)(trang 159, sđd)
Phỉ báng Giáo hội và Tăng
Ni
Giả vờ khách quan, ông “đạo sư” tự phong này lấy một vài trường
hợp cá biệt (mà tôn giáo nào chẳng có?) về chuyện tranh giành địa vị trong một
vài chùa nào đó, cường điệu thành “đa số” hay “không ít” để mô tả Giáo hội như
một xã hội suy đồi chạy chức chạy quyền, nặng phần mê tín huyễn hoặc… không có
bậc chân tu (!)
“Nhưng với đa số
người, khi cạo đầu vào chùa lại chỉ xuất gia bên ngoài chứ không xuất gia
bên trong được. Vì sao? Vì họ bắt đầu phát triển chuyện kiếm tiền, đệ tử,
Phật tử, tranh giành chức tước, kể cả chức trụ trì. Vật dụng cũng tùy chức
phẩm, đại loại như khi ăn thì người trụ trì được sử dụng bát (chén) cao sang
hơn. Lúc đầu mang hình tướng xuất gia sau lại ràng buộc và hình thành ý tưởng
giai cấp mới trong đầu”. (trang 41, sđd)
“Ngày xưa, trình độ khoa học kém, muốn hiểu, thấy rõ mọi
chuyện không phải dễ, nên họ tạo ra những pháp tu làm cho cái đầu thanh tịnh,
để suy nghĩ và nhìn thấy rõ ràng. Nhưng giờ đây, tất cả phơi bày ra hết,
nhiều khi đầu không cần phải thanh tịnh vẫn thấy rõ. (trang 69, sđd)
“Nhưng không ít
Phật tử đã tạo sự hư hỏng cho một số nhà sư. Họ cấu kết với Tăng Ni xây
dựng chùa lớn, vay mượn để chùa mang nợ. Thông đồng với chùa cho vay nặng lãi,
buôn bán kim cương, vàng bạc và đô la trong chùa… Những chuyện như thế vẫn xảy
ra, nhưng Phật tử lại lạy lục, tâng bốc, làm đủ thứ chuyện khiến họ hư hỏng”. (trang
81, sđd)
“Cần hiểu rằng sáng
kiến của Đức Phật không phải để lập Phật giáo, mà trước nhất là huấn luyện
đệ tử. Về sau, con người nghiên cứu và phổ biến nó trở thành tài sản kiến thức
của nhân loại. Những Tăng Ni xuất gia, đi theo con đường của Đức Phật mới tạo
ra Phật giáo. Cho nên, phải biết rằng việc khai thác trí tuệ Đức Phật hiện nay
đang được cả nhân loại tiến hành. Và chắc chắn, người ta khai thác tốt hơn tín
đồ tu sĩ Phật giáo. Bởi họ nghiên cứu vô tư, khách quan. Họ có tri thức, chịu
khó học, nghiên cứu, áp dụng và quả thực họ đã áp dụng có hiệu quả. Còn
người trong đạo Phật là theo chủ quan, đội cái mũ đạo Phật trên đầu và cho
thế là xong rồi. Do đó, cần thấy rõ tín đồ Phật giáo vẫn nặng về cảm xúc và
tưởng tượng, mê tín nhiều lắm. Có lẽ chỉ có một số tín đồ Phật giáo mới bỏ
hàng tỷ đồng Việt Nam
ra để thực hành các nghi lễ cúng tế hết sức lãng phí và có vẻ bị tâm thần này!”.
(trang 84, sđd)
“Biết là sẽ không làm
vừa lòng nhiều nơi hay nhiều chùa nhưng tôi vẫn phải nói rằng việc tổ chức
triền miên các khóa học cho Phật tử ở chùa, với năm bảy trăm hay cả ngàn người
bỏ bê nhà cửa, khăn gói tới chùa học chắc chắn không hiệu quả gì”.
(trang 107, sđd)
Điều đáng tiếc là những cuốn sách chứa các nội dung như vậy lại
được một số cơ quan truyền thông như Đài Truyền hình Việt Nam, các tờ báo… ca
ngợi nhầm là “minh triết Phật giáo”, “lối sống minh triết đạo Phật”…
Duy Tuệ là ai?
Nếu như Duy Tuệ phân vân tự hỏi: Ta là ai? – như tên
của cuốn sách của ông ta, thì chúng ta có thể trả lời cho ông ta bằng dự báo
của Đức Phật hơn 2.500 năm trước, rằng chân tướng đích thực của ông ta thuộc
hàng những người dẫn đường điên rồ. Đó là những kẻ có kiến thức
chắp vá, chưa bao giờ nỗ lực theo chân một vị thầy tâm linh nào và chưa tu tập
các pháp môn nào cả. Những cảm xúc bất thiện khiến họ lơ là không sống theo
những nguyên tắc đạo đức hướng thiện (giới), không tu tập thiền định (định) và
do đó không có cái thấy sáng suốt (tuệ). Hay nói như Patrul Rinpoche, đó là những
kẻ “dù chẳng khác gì những kẻ bình thường, sống dựa trên niềm tin ngu
dại của người khác, kiêu căng vì lợi lộc, phẩm vật cúng dường và danh
tiếng, giống như ếch ngồi đáy giếng. Những kẻ có rất ít hiểu biết, lại bỏ
bê những mật nguyện và giới nguyện của họ, trí lực thấp kém mà hành xử lại
cao hơn trái đất, họ phá vỡ huyết mạch của lòng từ và bi – Những kẻ
điên rồ như vậy chỉ có thể truyền bá cái ác nhiều hơn…” (Patrul Rinpoche – Lời vàng
của Thầy tôi )
Rất mong mọi người không ngừng tinh tấn hành trì để có
thể thấy đâu là giáo lý chân chính và con đường đích thực phải đi. Đâu là dạng
biến thái, bệnh thái để tránh xa.
Discussion about this post