GIÁO LÝ TỨ DIỆU ĐẾ
Tứ Diệu Đế (Cattāri saccāni) là bài giảng đầu tiên của Đức Phật cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển để vận chuyển bánh xe chánh pháp. Đây là bài pháp căn bản chỉ rõ về bốn sự thật cao quý của con người và cuộc đời. Bốn sự thật này có thể được tìm thấy và trải nghiệm ngay tại trong thân tâm của chúng ta. Bốn sự thật ấy là gì? Đó là chân lý về Khổ (dukkha), nguyên nhân của đau khổ (Dukkha-Samudaya), sự chấm dứt đau khổ (Dukkha-nirodha) và con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ (Dukkha-nirodha–Marga).
Tứ Diệu Đế là giáo lý nền tảng của Phật giáo và được xem là thiện pháp tối thắng. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) đã từng nhận định: “Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này là to lớn trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ Thánh đế.”[1] Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbānasutta), Trường-bộ-kinh, bản kinh số 16, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển trong luân hồi sanh tử trong một thời gian dài.”[2]Vì vậy, sự hiểu biết, thâm nhập về giáo lý Tứ diệu đế là vô cùng quan trọng cho tất cả mọi hành giả học và tu Phật.
Nội dung Tứ diệu đế
1. Khổ đế (Dukkha): Diệu đế thứ nhất (Dukkha-ariyasacca) thường được hầu hết các học giả dịch là “Chân lý cao cả về sự khổ”. Về chân lý đầu tiên này đức Phật dạy: có ba loại khổ hay tám loại khổ đó là: khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Tám khổ như được trình bày trong Tương –ưng- bộ- kinh như sau: “Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.”[3]
2. Tập đế (Samudaya): Nguyên nhân của khổ là tham ái (taṇhā), có ba loại tham ái đó là: (i) dục ái (kāma- taṇhā), (ii) hữu ái (bhāva- taṇhā), và (iii) vô hữu ái (vibhāva- taṇhā). Tham ái khởi động dẫn đến sự tích tụ của nghiệp đưa đến quá trình sinh tử. Trong bài giảng đầu tiên của mình, đức Phật tuyên bố: “Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.”[4]
3. Diệt đế (Nirhodha): Chân lý thứ ba, tức là sự thật về chấm dứt đau khổ, đề cập đến giai đoạn Niết-bàn, vốn không phải là trạng thái tiêu cực như thường thấy, nhưng là một điều tích cực và được mô tả như là chưa sinh, không trở thành, vv. “Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.”[5]
4. Đạo đế (Dukkha-nirodha-Marga): Đạo đế là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, đó là thánh đạo tám ngành. Trong bài giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại Sanarth, Đức Phật giảng giải: “Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là con đường trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”[6]
Với cấu trúc này, đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta thấy rõ hai cặp phạm trù nhân quả thế gian và xuất thế gian. Khổ và tập là quả và nhân của thế gian; diệt và đạo là quả và nhân xuất thế gian. Đây là một phạm trù cấu trúc logic và khoa học để khẳng định giáo lý nhân quả là giáo lý quan trọng trong Phật giáo. Mục đích của đạo Phật là giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Tứ Diệu Đế là bải học nói về thực trạng đau khổ của con người, về nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến đau khổ, về sự chấm dứt đau khổ và về con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến việc chấm dứt khổ đau.
Tam chuyển pháp luân thập nhị hằng: Khi trình bày về giáo lý tứ đế cho năm anh em Triều Trần Như tại vườn Lộc Uyển đức Phật đã thuyết theo phương pháp Tam chuyển. Tam chuyển pháp luân gồn có ba phần đó là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển. Đây là ba lần quay bánh xe chánh pháp.
1) Thị chuyển là Phật chỉ bày rõ ràng bốn lẽ thật có tánh cách khách quan. Phật dạy: Đây là khổ đế, đây là tập đế, đây là diệt đế và đây là đạo đế.
2) Khuyến chuyển là Phật khuyên nhủ và khuyến khích 5 vị Tỳ kheo bây giờ hãy chánh tư duy để phát sinh trí tuệ. Đây là khổ đế các ông phải biết. Đây là tập đế các ông phải đoạn. Đây là diệt đế các ông phải chứng. Đây là đạo đế các ông phải tu.
3) Chứng chuyển là Phật nói đối với các pháp Tứ Đế các ông đã biết, đã tu, đã đoạn và đã chứng. Đây là khổ ta đã biết, đây là khổ tập ta đã đoạn. Đây là khổ diệt ta đã chứng và đây là khổ đạo ta đã tu. Vì mỗi đế đều có ba chuyển nên bốn đế cộng lại thành 12 hành; nên gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành.
Tứ đế là Chân lý của chư Phật ba đời
Tứ Diệu Đế, không chỉ đức Phật Gotama chứng ngộ, mà chân lý ấy được chứng ngộ bởi chư Phật ba đời, quá khứ, hiện tại, và tương lai. Trong Tương-ưng-bộ-kinh, Đức Phật dạy: “Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Đẳng Giác; tất cả những vị ấy đã như thật chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế. Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời vị lai, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Đẳng Giác; tất cả những vị ấy sẽ chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế. Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời hiện tại, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Đẳng Giác; tất cả những vị ấy hiện đang chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.”[7]
Tứ đế là chân lý như thật
Tứ diệu đế là chân lý thực tại như thật bởi Như Lai tuyên thuyết, không hư vọng, không cuống thuyết. Bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, là như thật, không ly như thật (avitathàni), không khác như thật (anannathàni). Thế nào là bốn?
“Đây là Khổ, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật. Đây là Khổ tập, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật. Đây là Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật. Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật.”[8]
Chúng ta lắng nghe lời khẳng định của Tôn giả A-nâu-lâu-đà về tính như thật, không khác của Giáo lý Tứ đế trong Kinh Di Giáo: “Bạch đức Thế-Tôn, mặt trăng có thể nóng, mặt trời có thể lạnh, chư Phật nói pháp Tứ-Đế, không thể có sự sai khác được. Phật nói Khổ-Đế thực là khổ, không thể vui được; Tập-Đế thực là “nhân”, không có nhân khác; Khổ, nếu diệt trừ, tức là nhân diệt. Nhân diệt nên quả diệt; đạo “diệt khổ”, thực là chân-đạo, không còn đạo nào khác nữa. Bạch Đức Thế-Tôn các vị Tỳ-Khưu, đối với pháp “Tứ-Đế”, quyết định không còn sự ngờ vực gì nữa.[9] (Kinh Di Giáo).
Lại nữa, những sự thật cao cả gọi là những sự thật thuộc về những bậc thánh, như kinh nói: “Này các tỷ kheo, nhờ tìm ra bốn sự thật cao cả này mà Như Lai được tôn xưng là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác.” (S. v, 433).
Có giá trị như nắm lá trong lòng bàn tay
Tương-ưng-bộ-kinh (Saṃyutta-Nikāya) ghi lại rằng, một lần Đức Phật trú tại Kosambi trong rừng Sisapā. Một hôm ngài lấy một vài lá Siṁsapā nằm rải rác trên mặt đất rồi đặt trong lòng bàn tay và hỏi mọi người. Này các Tỷ kheo lá trong lòng bàn tay của Ta là ít hay lá trong rừng Sisapā là ít? Tất cả mọi người đều trả lời rằng, lá trong lòng bàn tay Ngài là ít hơn lá trong rừng Sisapā. Phật dạy: “Đúng như vậy, này các Tỷ kheo, những điều ta biết là nhiều như lá trong rừng Sisapā, nhưng ta không giảng dạy, những điều ta giảng dạy chỉ như nắm lá trong lòng bàn tay. Và này các Tỷ kheo tại sao ta không giảng dạy chúng? Vì chúng không đưa đến lợi ích, chúng không phải là những điều thiết yếu đưa đến đời sống thánh thiện, không dẫn đến sự thanh tịnh, khinh an, đoạn tận, hiểu biết trọn vẹn, trí tuệ hoàn hảo, đạt đến Niết Bàn. Đó là lý do tại sao ta không giảng dạy chúng.[10]
Giáo lý Tứ diệu đế, có giá trị như nắm lá trong lòng bàn tay, bởi vì chúng có lợi ích thiết thực, đưa đến sự giác ngộ và Niết bàn. “Và, này các Tỷ kheo ta đã dạy những gì? Ta đã dạy: Đây là đau khổ; Ta đã dạy: Đây là nguồn gốc của khổ đau; Ta đã dạy: Đây là sự chấm dứt đau khổ; Ta đã dạy: Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.’ Và tại sao, các Tỷ kheo ta đã dạy những điều này? Bởi vì những điều này có lợi, có liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của đời sống tâm linh, và chúng sẽ dẫn đến sự đoạn tận vô minh, tham ái, sự chấm dứt, an tịnh, hướng đến trí tuệ, giác ngộ, và Niết Bàn.”[11]
Chỉ vì không hiểu: Sở dĩ chúng sinh trầm luân trong luân hồi sinh tử chịu nhiều đau khổ là vì họ đã không hiểu, không thâm nhập giáo lý Tứ Diệu Đế: “Các Tỷ kheo, đó là vì không hiểu biết và không thâm nhập giáo lý Tứ Diệu Đế mà ta và các ngươi đã vào ra trong luân hồi sinh tử, chịu nhiều khổ đau trong một thời gian dài.”[12]
“Nhưng nay, này các Tỷ kheo, Thánh đế về Khổ này đã được giác ngộ, đã được thông đạt; Thánh đế về Khổ tập đã được giác ngộ, đã được thông đạt; Thánh đế về khổ diệt đã được giác ngộ, đã được thông đạt; Thánh đế vè Con Đường đưa đến Khổ diệt đã được giác ngộ, đã được thông đạt. Được chặt đứt là hữu ái, được đoạn tận là những gì đưa đến tái sinh (bhavanetti). Nay không còn tái sinh nữa.”[13]
Vực thẳm: Trong khi phân tích về chuỗi vận hành của mười hai chi phần duyên khởi, chúng ta thấy được rằng căn nguyên sâu xa gây ra đau khổ đó là vô minh (avijjā), và vô minh là không nhận biết về giáo lý Tứ Diệu Đế. Vì vậy, những người không thâm hiểu bốn chân lý này thì tâm hành rơi xuống vực thẳm của sinh, lão, bệnh và tử: “Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật rõ biết: ‘Đây là Khổ’… không như thật rõ biết: ‘Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt’. Họ hoan hỷ với các hành đưa đến sanh, họ hoan hỷ với các hành đưa đến già, họ hoan hỷ với các hành đưa đến chết, họ hoan hỷ với các hành đưa đến sầu, bi, khổ, ưu, não. Vì họ hoan hỷ với các hành đưa đến sanh… đưa đến già… đưa đến chết… đưa đến sầu, bi, khổ, ưu, não, họ tạo dựng các hành đưa đến sanh, họ tạo dựng các hành đưa đến già… đưa đến chết,… do họ tạo dựng các hành đưa đến sanh… đưa đến già… đưa đến chết… đưa đến sầu, bi, khổ, ưu, não, nên họ rơi vào vực thẳm sanh, họ rơi vào vực thẳm già, họ rơi vào vực thẳm chết, họ rơi vào vực thẳm sầu, bi, khổ, ưu, não. Họ không liễu thoát khỏi sanh, khỏi già, khỏi chết, khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, họ không liễu thoát khỏi đau khổ.”[14]Do đó, chân lý cao cả của đau khổ, nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt khổ đau và con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, chúng ta phải hiểu và thâm nhập. Do hiểu và thâm nhập nên chúng ta không còn vào ra trong luân hồi sanh tử (saṁsāra) và không rơi xuống vực thẳm của sanh, già, bệnh và chết.
Thực hiện bước đột phá: Thuốc giải độc cho sự thiếu hiểu biết là tri thức (vijja), được định nghĩa như là kiến thức hiểu biết về Tứ diệu đế. Sự thâm nhập bước đầu tiên của Tứ Diệu Đế xảy ra với sự đạt được là sự chứng ngộ thánh quả Dự lưu, được gọi là sự đột phá về Pháp (dhatnmabhisamaya) hay còn gọi là đắc được pháp nhãn. Để làm cho bước đột phá này không dễ dàng, nhưng nếu không làm như vậy thì không thể chấm dứt được đau khổ. Do đó, Đức Phật lại thúc giục các đệ tử ‘thực hiện một nỗ lực phi thường’ (make an extraordinary effort) để đạt được sự đột phá về chân lý.[15] “Sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ… khi như thật giác ngộ Thánh đế về nguyên nhân của khổ, khi như thật giác ngộ Thánh đế về sự diệt khổ, sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, ta sẽ chơn chánh đoạn tận Khổ đau; sự kiện này có xảy ra.”[16]
Theo Câu Xá Luận, Biết rõ về Tứ thánh đế được gọi là Tận trí và Vô sinh trí. “Tận trí là gì? – khi tự biết được ‘ta đã biết rõ về khổ, ta đã đoạn trừ tập, ta đã làm cho diệt hiện khởi, ta đã tu tập đạo, và từ đó xuất phát sự hiểu biết (jñāna, trí) (tad upādāya yaj jñāna), sự nhìn thấy (darśana, kiến), sự sáng suốt (vidyā, minh), sự giác ngộ (bodhi, giác), sự liễu giải (budhi), sự phân biệt (prajñāna), sự sáng tỏ (āloka), sự quán thông (vipaśanā) thì gọi là Tận trí.” Vô sinh trí là gì? – khi tự biết được: “ta đã biết rõ về khổ và không còn phải tìm hiểu về khổ nữa…, ta đã tu tập đạo và không còn phải tu tập gì nữa’, và từ đó xuất phát sự hiểu biết, v.v. thì gọi là vô sinh trí.
Do vậy đối với bốn chân lý, khổ, tập, diệt, và đạo chúng ta cần như thật rõ biết, thâm nhập để không còn trầm luân trong luân hồi sanh tử chịu nhiều đau khổ, và không bị rơi xuống vực thẳm của sinh, lão, bệnh và tử.
Đoạn tận lậu hoặc: Sự đoạn tận lậu hoặc (āsava) là mục đích cuối cùng của trí tuệ trong đề mục đất của tuệ về ‘Tứ diệu đế’. Khi các hành giả thực hiện bước đột phá và thấy rõ về giáo lý Tứ Diệu Đế, nhưng nhiều vấn đề vẫn còn ở phía trước, đó là đối với mỗi chân lý cần áp đặt một nhiệm vụ phải được hoàn thành để giành chiến thắng trong trong sự chứng ngộ các quả vị tu tập. Cụ thể, sự thật về khổ đau, bao gồm năm uẩn, phải được hiểu đầy đủ (pariññeyya). Sự thật về nguồn gốc của đau khổ, ái, cần phải đoạn trừ (pahatabba). Sự thật của sự đoạn diệt, Niết Bàn, phải được nhận ra (sacchikatabba). Và sự thật về con đường đưa đến đoạn tận khổ đau, Bát Chánh Đạo, phải được tu tập (bhavetabba).
Cần phải được áp dụng thực tập con đường đưa đến cho hoàn thành tất cả bốn nhiệm vụ, lúc này vị thánh đệ tử bắt đầu đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc. Quá trình này bắt đầu bằng sự thâm nhập cùng Bốn Thánh Đế và do đó đức Phật nói rằng sự đoạn tận các lậu là dành cho những người biết và thấy rõ về Bốn Thánh Đế.[17]
“Với người biết, với người thấy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố các lậu hoặc được đoạn tận, không phải với người không biết, với người không thấy. Và do biết gì, do thấy gì, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận? Do biết, do thấy: ‘Đây là Khổ’, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận. Do biết, do thấy: ‘Đây là Khổ tập’… ‘Đây là Khổ diệt’… Do biết, do thấy: ‘Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt’, các lậu hoặc được đoạn tận.”[18]
Như vậy, giống như một bác sĩ giỏi cố gắng khám phá ra căn bệnh nan y và đưa ra phương thuốc chữa trị. Đức Phật, vị bác sĩ tâm linh vĩ đại, đã cố gắng tìm ra nguyên nhân cuối cùng của khổ đau trên thế gian. Ngài đã tìm ra nguyên nhân gây đau khổ đó là vô minh và tham ái, từ đó dạy cho mọi người cần phải đoạn trừ chúng để chứng ngộ thánh trí giác ngộ. Vì vậy, giáo lý Tứ diệu đế với hai tầng nhân quả (thế và xuất thế) đã được so sánh với một sự phát hiện căn bệnh y khoa, chẩn đoán, chữa bệnh theo y học hiện đại.
Chi chú:
[1] Trung Bộ I, kinh Tượng Tích Dụ, Đại Kinh, trang, 184.
[2] Maurice Walshe (trans.), Dīgha Nikāya, The Long Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2012, p. 239.
[3] F. L. Woodward, The Book of the Kindred Sayings, Vol.V, Motilal Banarsidass, Delhi, 2005, p. 357.
[4] Ibid., p. 357.
[5] Ibid, p. 357.
[6] Ibid, p.357.
[7] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, 1854.
[8] Ibid., pp. 1851-52.
[9] Bhikkhu Khantipālo, (trans.), The Buddha’s Last Bequest, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 2008, p.12.
[10] S.V.437. Woodward. Vol.5, p. 370, See, Harcharan Singh Sobti, Nibbāna in Early Buddhism, EBL, Delhi, 2011, p. 122.
[11] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, p.1858.
[12] Ibid, p.1852.
[13] Tỳ Khưu Bodhi, Những lời Phật dạy, (Bình Anson dịch), NXB, Thanh Niên, 2016, p. 460-61.
[14] Opcit, p. 1866.
[15] Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ Word, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom publications, Boston, 2005, p. 317.
[16] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, p. 1858.
[17] Opcit, p. 312.
[18] Opcit, p. 1855.
Discussion about this post