GIÁO DỤC PHẬT GIÁO THỜI LÝ – TRẦN ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC
Nguyễn Hữu Sơn
Trong suốt thời Lý, hệ tư tưởng Phật giáo và giới tu hành có một vị trí đặc biệt trong đời sống văn hoá, xã hội Đại Việt.
1. Việc duy danh thời đại Lý – Trần là để chỉ giai đoạn lịch sử trải từ triều đại nhà Ngô (939 -967) qua loạn “thập nhị xứ quân” (966-968) đến nhà Đinh (968-980) – nhà Tiền Lê (980-1009) – nhà Lý (1010-1225) – nhà Trần (1225-1400) và nối tiếp một số năm thuộc triều nhà Hồ (1400 -1407). Sau cả ngàn năm Bắc thuộc, đây là giai đoạn lịch sử phát triển trong xu thế độc lập dân tộc, vừa xác lập nền móng vừa tạo lập những sắc thái riêng – những giá trị đặc trưng được định danh bằng nền văn hoá lấy Phật giáo làm quốc giáo trên nền tảng nhận thức “Tam giáo đồng nguyên”, “học phong Đông A”… Đó cũng chính là giai đoạn đất nước Đại Việt xác lập thiết chế xã hội theo mô hình quân chủ Nho giáo nhưng vẫn coi Phật giáo là quốc giáo, vẫn tổ chức các kỳ thi tam giáo và chấp nhận khả năng dung nạp tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” với mô hình văn hoá “Phật – Đạo – Nho”1, trong đó bản thân hoạt động giáo dục Phật giáo có một vai trò đặc biệt quan trọng với việc khẳng định và phát triển các giá trị tinh thần dân tộc.
2. Trên thực tế, hoạt động giáo dục, hoằng dương Phật gi áo cần được đặt trong toàn cảnh sự phát triển giáo dục, khoa cử thời đại Lý – Trần. Xét trên tiến trình lịch sử có thể thấy tình hình giáo dục Phật giáo thời đại Lý – Trần (toàn cảnh xã hội thời Lý – Trần nói chung) lại được chia thành hai chặng đường, hai giai đoạn phát triển tiếp nối hết sức rõ nét.
2.1. Bàn về mối quan hệ giữa sự phát triển Phật giáo với nền khoa cử thời Lý, từ nửa thế kỷ trước nhà nghiên cứu Nguyễn Thừa Hỷ đã khái quát: “Thực ra, chế độ khoa cử, Nho học và tầng lớp nho sĩ đã bắt nguồn, phát triển ngay từ đời Lý. Chúng ta đều biết chính nhà Lý đã cho dựng Văn Miếu, mở khoa thi Thái học sinh, qua đó có các nho sĩ được bổ dụng như Thái sư Lê Văn Thịnh, Hàn lâm học sĩ Mạc Hiển Tích. Nhưng chế độ khoa cử thời này vẫn còn mang nhiều tính hạn c hế. Trước hết, nó chưa đi vào điển lệ, nghĩa là không được tổ chức theo kỳ hạn thường xuyên. Hơn nữa, nền giáo dục lúc này vẫn nhằm chủ yếu vào đối tượng cung đình, nghĩa là phục vụ việc dạy học cho các hoàng tử. Kế đến sau sự biến “Thái sư Lê Văn Thịnh ho á hổ, làm phản” năm Bính Tí (1096) (Có thể đây là một tấn kịch được dựng nên nhằm đánh đổ uy thế của giới nho sĩ) thì hầu như trong hàng thế kỷ tiếp theo, khoa cử đã bị gác lại, nếu không là bãi bỏ. Trong hàng ngũ quan lại cũng như trên văn đàn, giới nho sĩ vắng bóng hẳn đi, nhường chỗ cho thế lực tăng ni Phật giáo phát triển rầm rộ”.
Nhấn mạnh vai trò khoa cử thời Lý trong tương quan đời sống tư tưởng xã hội, Đinh Gia Khánh viết: “Các vua Đinh, Lê, Lý đều sùng thượng Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo có những phần không có ích thiết thực cho Nhà nước. Giai cấp phong kiến Đại Việt muốn mở mang cơ đồ thì tất nhiên không thể quên khả năng lớn lao của Nho giáo trong việc củng cố địa vị thống trị của nó. Năm 1070, Lý Thánh Tông lập Văn Miế u ở quốc đô: thế là bên cạnh các chùa thờ Phật đã có miếu thờ các vị thánh hiền của Nho gia.
Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường để kén người Minh kinh bác học; năm 1076, nhà vua mở Quốc Tử Giám để chăm lo việc giảng thuật Nho giáo. Các năm 1086, 1152(?), 1165 và 1193 cũng có những kỳ thi. Như vậy kể từ đời Lý, Nho giáo dần dần được đề cao. Tuy nhiên, thế lực của Phật giáo và Đạo giáo trong suốt đời Lý và đầu đời Trần vẫn còn lớn lắm. Nhà nước phong kiến có dành địa vị cao cho Nho giáo nhưng vẫn l à trong điều kiện dung hoà Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo. Việc Lý Cao Tông mở khoa thi Tam giáo vào năm 1195 là một trong nhiều chứng cớ cụ thể của quan niệm Tam giáo đồng nguyên đang thịnh hành khi ấy”…
Về khoa thi Tam giáo năm 1195, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ất Mão, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 10 (1195)… Thi Tam giáo, cho đỗ xuất thân”…
Cùng sự kiện trên, sách Việt sử lược chép lui lại một năm và kỹ lưỡng hơn: “Năm Bính Thìn, hiệu Thiên Tư Gia Thụy năm thứ 11 (1196)… Tháng mạnh đông (tháng 10), thi con em Tam giáo về các môn chép ra thơ của cổ nhân, làm toán, thơ phú, kinh nghĩa. Cho đỗ cập đệ, xuất thân để phân biệt”…
Trong suốt thời Lý, hệ tư tưởng Phật giáo và giới tu hành có một vị trí đặc biệt trong đời sống văn hoá, xã hội Đại Việt. Các nguồn thư tịch cổ, đặc biệt sách Thiền uyển tập anh đã xác định rõ mối liên hệ giữa các nhà sư với các nhà vua, quan lại triều đì nh. Chính giới tu hành đã tham gia vào sự nghiệp giáo dục và khoa cử theo một cách riêng, không phải họ trực tiếp đi thi cầu đỗ đạt mà ở một tầm trí tuệ cao hơn, tùy cơ duyên họ có thể trực tiếp tham dự chính sự, xây dựng vương quyền, giúp vua đánh giặc cứu nước, giảng dạy cho tầng lớp vương tôn trong triều, thực hiện phương thuật cầu đảo mưa thuận gió hoà, trợ giúp vào việc kinh bang tế thế và cảm hoá, dẫn độ chúng dân theo về cửa Phật.
Sách Thiền uyển tập anh cho biết nhiều người trong hàng ngũ tăng lữ có uy vọng lớn lao, được trọng dụng ở việc đối ngoại, đón tiếp sứ giả, được cả vua và giới Thiền môn người nước ngoài biết tiếng, vì nể, nghĩa là đã vươn tới tầm “quốc tế”. Đó là thiền sư Pháp Hiền (?-626): “Thứ sử nhà Tuỳ là Lưu Phương tâu về triều, Tuỳ Cao Tổ từ lâu đã nghe tiếng người nước Nam này sùng chuộng đạo Phật, đã có các bậc cao tăng đức vọng, bèn sai sứ đem xá lỵ Phật và năm hòm sắc điệp sang ban cho sư để xây tháp cúng dàng. Sư bèn chia xá lỵ cho chùa Pháp Vân ở Luy Lâu và các chùa có tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái để dựng tháp phụng thờ”; đồng thời các vị như Đại sư Khuông Việt (933 -1011) và Đỗ Pháp Thuận (915-990) lại đều đã tiếp kiến và xướng hoạ thơ từ với sứ nhà Tống là Lý Giác… Những điều này tỏ rõ rằng, trong định hướng “nhập thế”, hướng về thế tục thì sở học của giới tăng lữ được phát huy, mối liên hệ với vua quan triều đình đã trở thành một tiêu chí quan trọng xác nhận uy vọng và vai trò các thiền sư trong đời sống xã hội và cộng đồng dân tộc. Điều đó cũng chứng tỏ mối liên kết giữa thần quyền và vương quyền cũng như vai trò chi phối đời sống tinh thần, thế giới tâm linh của Phật giáo với tư cách là “quốc giáo” trong buổi đương thời.
Truyện Đại sư Khuông Việt cho biết thêm, khi đến tuổi già, sư trở về dựng chùa ở núi Du Hý thuộc quận nhà, người các nơi kéo đến theo học rất đông. Khi đó có sư Đa Bảo đến theo học:
“Một hôm, đệ tử thân cận là Đa Bảo đến hỏi sư: “Thế nào là thủy chung của đạo học”. Sư đáp:
Thủy chung vô vật diệu hư không,
Hội đắc chân như thể tự đồng.
(Thủy chung không vật thảy hư không, Hiểu được chân như thể ắt đồng)
Đa Bảo hỏi: “Lấy gì bảo chứng?”. Sư đáp: “Không có chỗ cho ngươi xuống tay”. Đa Bảo thưa: “Hòa thượng nói rõ rồi”. Sư đáp: “Ngươi hiểu thế nào?”. Đa Bảo liền hét lên một tiếng”…
Hai câu thơ có ý nghĩa như một công án. Lời thơ nhấn mạnh cái ý nghĩa rốt ráo cuối cùng, cái phần cốt tủy của đạo học là lẽ chân như. Bản chất của chân như là sự chân thực có trong hết thảy chư pháp, thể tính của nó là thường như… Đoạn văn trên cho thấy chiều sâu tư tưởng của thầy trò Khuông Việt – Đa Bảo khi bàn đến một nội dung quan trọng trong duy thức luận và cũng chứng tỏ sự phát triển của Phật giáo thời bấy giờ. Với tài năng, vị thế và uy vọng của mình, chắc chắn tư tưởng của Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo tăng tài, phát triển Phật giáo và xã hội Việt Nam dưới triều Đinh và mấy thập kỷ sau đó.
Đọc tiếp tiểu truyện Thiền sư Đa Bảo (Thế kỷ X-XI) trong sách Thiền uyển tập anh thì biết ngay từ khi còn trẻ, Đa Bảo đã được thụ giáo sư thầy Khuông Việt: “Bấy giờ Khuông Việt Đại sư giáo hóa ở chùa Khai Quốc, sư đến tham thiền học đạo, được đại sư khen là người tinh tế, hiểu nhanh, xử sự kính cẩn, riêng được Đại sư nhận làm đệ tử thân tín. Sau khi đắc đạo, sư một mình đeo bình bát đi vân du ngoại vật, sau đến trụ trì ở chùa Kiến Sơ”… Đoạn sau cho biết vị đệ tử thân tín này của Đại sư Khuông Việt – ngay khi ngài còn tại thế – đã sớm chú ý đến Lý Công Uẩn: “Khi Lý Công Uẩn còn nhỏ tuổi, sư thấy dáng mạo tinh anh tuấn tú khác thường, bèn nói: “Cậu bé này cốt tướng chẳng phải tầm thường. Ngày sau làm vua ắt là người này!”. Lý Công Uẩn cả sợ nói: “Ngày nay thánh đế đang trị vì, trong nước yên bình, sư nói thế không khéo gây họa tru di cho cả nhà tôi”. Sư nói: “Mệnh trời đã định như thế, dù muốn trốn tránh cũng không được. Nếu quả đúng như lời, mong đừng quên nhau!”…
Đến đây có thể suy đoán mà không quá sai rằng thiền sư Đa Bảo đã cùng sư Lý Khánh Văn và Nguyễn Vạn Hạnh (?-1018) đại diện cho phái thần quyền phối hợp cùng quan Chi hậu Đào Cam Mộc đại diện cho phái vương quyền cùng khuông phò Lý Công Uẩn lên ngôi và được ngài rất mực tin tưởng, trọng dùng: “Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ nhiều lần vời sư [Đa Bảo] về kinh thỉnh vấn yếu chỉ Thiền tông, ân cần tiếp đãi trọng hậu, các việc chính sự tr iều đình đều mời sư dự bàn định đoạt. Vua từng xuống chiếu cho trùng tu chùa Kiến Sơ là nơi sư trụ trì. Về sau không biết sư tịch ở đâu”…
Ngoài ra, ở tiểu truyện Trưởng lão Định Hương cũng ghi rõ: “Môn đồ của Đa Bảo có đến hơn một trăm người…”, trong đó Định Hương là một trong hai trò giỏi nhất, từng có một đoạn ghi lại lời hỏi đáp giữa hai thầy trò. Tiếp theo ở tiểu truyện Thiền sư Thiền Lão cũng xác nhận sư là người được tham vấn Đa Bảo và nhờ đó “lĩnh hội được tâm yếu của Thiền tông”… Như vậy, rõ ràng thiền sư Đa Bảo có uy vọng lớn lao trong triều đình và có vai trò quan trọng trong giới Phật giáo thời bấy giờ.
Qua đoạn văn trên có thể xác định Đại sư Khuông Việt đã có công dạy dỗ, đào luyện sư Đa Bảo – một bậc tài danh vốn liên quan trực tiếp đến việ c Lý Công Uẩn lên ngôi vua và được nhà vua tin cậy, cho cùng bàn việc quân quốc đại sự trong nhiều năm trời.
Nhìn rộng ra, thiền sư Đa Bảo thuộc thế hệ thứ năm dòng thiền Vô Ngôn Thông là một người mà hình tích không rõ ràng, không rõ tên thật, không rõ quê quán và sau này cũng không rõ ông thị tịch ở đâu, năm nào. Trong tác phẩm Việt điện u linh kể về công tích các vị thần được thờ trong các đền, miếu thời Lý – Trần và mang chức năng lễ nghi tôn giáo, tên tuổi Đa Bảo được nhắc đến trong thiên truyện Xung Thiên, Dũng Liệt, Chiêu Ứng, Uy Tín Đại vương . Ở thiên truyện này, thiền sư Đa Bảo là nhân vật phụ nhưng lại tương thông được với cõi âm là thần thổ địa chùa Kiến Sơ, từng được thần hiện lên ứng cho bài kệ dự báo cho cả công việc hiện tại và số phận vương t riều Lý sau này. Tiếp đến truyện Xung Thiên Chiêu Ứng thần vương trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng chép tương tự, chỉ có khác Việt điện u linh ghi xuất xứ theo Báo cực truyện, còn sách sau ghi theo Cổ Pháp ký và Kỷ đức ký… Nhìn chung, sự thống nhất ở tất cả các thiên truyện trên là đều không thấy nói gì đến xuất xứ tác phẩm Thiền uyển tập anh.
Điều này dường như hé mở ra một dự đoán rằng văn bản Thiền uyển tập anh nếu được hoàn chỉnh và khắc in sớm thì chủ yếu tồn tại trong nhà chùa và không được lưu truyền phổ biến rộng rãi, khiến cho các sách sau này thu nạp tư liệu từ các nguồn khác và xa dần nguồn gốc tiểu sử thiền sư, đồng thời gia tăng thêm các yếu tố thần kỳ theo cách nhìn của nhà nho (vai trò thần thổ địa, cách lý giải triều Lý suy vong, đề cao việ c nhà Trần sắc phong cho thần…). Dự đoán này càng có khả năng hữu lý hơn bởi cả hai bài thơ – kệ theo thể ngũ ngôn bát cú và hai bài theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt được coi là của thần nhân cũng đều mới được bổ sung thêm vào các tập sách Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái từ một nguồn nào khác chứ không có trong Thiền uyển tập anh, mặc dù cả hai bộ sách này đều được kết tập sau thời điểm ra đời Thiền uyển tập anh không quá xa. Như vậy, qua hiện tượng thiền sư Đa Bảo có thể nhận ra dấu vết quá trình dân gian hoá đồng thời với khả năng sưu tập, văn bản hoá loại truyện thiền sư vào sử sách.
Cần một sự phân tích rộng dài như trên để thấy rõ hơn vị thế thiền sư Đa Bảo trong đời sống tinh thần và xã hội đương thời, qua đó gian tiếp xác định mối quan hệ và ảnh hưởng tốt đẹp từ sư thầy – Đại sư Khuông Việt. Đặt trong tương quan chung, từ bậc thầy Vân Phong đến Đại sư Khuông Việt và từ Đại sư Khuông Việt đến học trò Đa Bảo, có thể nói “Thầy nào trò ấy” đã tiếp nối nhau tạo lập nên truyền thống tu hành “Tốt đời đẹp đạo”, xây dựng đất nước vững bền và nền Phật giáo toàn thịnh1…
2.2. Bước sang thời Trần, căn cứ theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, chúng tôi thống kê thấy có tới 24 cuộc thi và sát hạch, tuyển chọn nhân tài được duy danh bằng những kiểu thức khác nhau như Tam giáo (Nho – Phật – Đạo), Thái học sinh (Tiến sĩ), Lại viên (Bạ đầu cách), thi chọn kẻ sĩ, học trò (Thủ sĩ), trong đó có 4 cuộc thi gắn với Tam giáo và liên quan trực tiếp đến Phật giáo…
– “Đinh Hợi, (Kiến Trung] năm thứ 3 (1227). Thi tam giáo tử (gồ m những người nối nghiệp Nho giáo, Đạo giáo, Thích giáo)”.
– “Đinh Mùi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 16 (1247)… Mùa thu, tháng 8, thi các khoa thông tam giáo. Ngô Tần (người Trà Lộ) đỗ giáp khoa; Đào Diễn, Hoàng Hoan (người Thanh Hoá) và Vũ Vị Phủ (người Hồng Châu) đỗ ất khoa”.
– “Giáp Tý, [Xương Phù] năm thứ 8 (1384). Mùa xuân, tháng 2. Thượng hoàng cho thi thái học sinh ở chùa Vạn Phúc núi Tiên Du. Lấy đỗ bọn Đoàn Xuân Lôi, Hoàng Hối Khanh, 30 người”.
– “Bính Tý, [Quang Thái] năm thứ 9 (1396). Mùa xuân, tháng giêng. Xuống chiếu sa thải các tăng đạo chưa đến 50 tuổi trở xuống, bắt phải hoàn tục. Lại thi những người thông hiểu kinh giáo, ai đỗ thì cho làm Đường đầu thủ, tri cung, tri quan, tri tự, còn thì cho làm kẻ hầu của người tu hành…
So với thời Lý trước đây, có thể thấy rõ sự ý thức về phương thức và cách thức tổ chức thi cử đã ngày càng được coi trọng, được điển lệ hoá một cách qui củ hơn. Các cấp thi, các môn thi, các cách ra đề, cách làm bài, cách phân loại và tuyển lựa thí sinh, cách lấy đỗ và bố trí chức vị cũng ngày càng cụ thể, chi tiết hơn. Xu thế chung là các môn thi cổ văn và kinh sách Nho học ngày càng được quan tâm mở rộng trong khi việc tuyển chọn, sát hạch giới sư tăng lại trở nên chặt chẽ, khắt khe hơn; thậm chí tổ chức thi Kinh giáo không hẳn để tìm người hiền tài mà chính là cách sàng lọc, thải loại, giảm bớt tăng đạo.
Đặt trong tương quan đời sống tinh thần “tam giáo đồng nguyên”, trước thực tế Phật giáo đời Trần vẫn có bước phát triển mới nhưng chính Nho giáo mới tạo nên bướ c tiến vượt bậc, phát triển thuận chiều với yêu cầu và xu thế lịch sử. Nhà Phật học Nguyễn Lang thực sự tinh tế và khách quan khi ông nhận xét về việc học Phật với những ám ảnh bởi “tính cách khoa cử, từ chương”, “học hỏi chương cú” được hiểu như là những cố gắng cuối cùng trong cuộc bàn giao nền quốc giáo Phật đến quốc giáo Nho: “Hơn nữa, một giáo hội dựa quá nhiều trên thế lực triều đình để phát triển mà không biết quay về tìm thế đứng trong dân gian, thì một khi sự ủng hộ của triều đình không còn, giáo hội ấy hẳn nhiên sẽ thiếu lưng tựa và và hiện tượng suy đồi là chuyện hiển nhiên phải tới (…). Thánh Tông và Tuệ Trung là hai người xuất sắc trong số những người trẻ học Phật và thành đạt trong sự nghiệp học Phật ấy. Sự học Phật ở đây không đưa đến thi cử và địa vị, sự học Phật đây chỉ để làm người. Cái học hoàn toàn không có tính cách khoa cử, từ chương và ép buộc (…). Thiền học Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ mười bốn đã dung hợp với việc học hỏi chương cú. Việc khắc bản Đại tạng kinh thực hiện vào cuối thế kỷ thứ mười ba, đóng góp không ít vào phong trào Phật học đầu thế kỷ thứ mười bốn”…
Đến cuối thời Trần – hay là “thịnh vãn Trần” – Nho giáo đã “mạnh dần lên”, theo cách nói của cố Trần sử học: “Về văn hoá tôn giáo, xưa Phật là “cột cái”, Nho – Lão là hai “cột quân” của kiến trúc tôn giáo Đại Việt. Lúc ấy đạo sĩ là để cúng kiếng cầu tự, cầu thọ, chữa bệnh…; nho sĩ chủ yếu là thư lại (scribe), Đức Thái Tông – Thánh Tông sùng Phật, trọng Nho – Lão, chấp nhận quan Bảng nhãn Lê Văn Hưu viết Đại Việt sử ký 30 quyển (1272) có nhiều lời bài Phật nhẹ nhàng. Trương Hán Siêu, Lê Quát… bài Phật mạnh hơn song vẫn được các vua trọng dụng (…). Thời Minh Tông có biến dịch mạnh hơn: Các nhà nho từ cửa trường Chu Văn An (Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Nguyễn Trung Ngạn…) ra làm quan triều đình đòi cải cách theo Tống Nho (…). “Trạng nguyên” Huyền Quang vẫn chọn con đường tu Phật và không xếp hàng với đám thư sinh mặt trắng ấy. Nhưng dù Nho có mạnh lên thì vẫn là Nho Việt”1… Nhìn chung, hoạt động giáo dục thời Trần được kết tinh và thể hiện sâu sắc ở thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với ba vị tổ Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang. Thông qua hình thức truyền thừa, hoạt động đào tạo tăng tài, khuyến hóa chúng sinh, hoằng dương Phật pháp của thiền phái Trúc Lâm sẽ cho thấy to àn cảnh bức tranh của nền giáo dục Phật giáo Đại Việt đương thời.
Đặt trong tương quan giữa đời và đạo, mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền, trước hết cần khẳng định thái độ rành mạch của Trần Nhân Tông (1258 -1308) trong quan niệm và cách thức ứng xử trước cuộc đời, khi nào cần “hòa quang đồng trần” gắn bó với sự nghiệp giữ nước và phát triển đất nước, khi nào có thể chuyên tâm với kinh sách và rộng đường hoằng dương Phật pháp. Trên thực tế, có thể nhận diện về Trần Nhân Tông như một nhân vật lịch sử, một mẫu hình hoàng đế phương Đông gắn với vị thế thiền sư – nhà truyền giáo và tư cách thi nhân – người kiến tạo những giá trị văn hóa. Ở đây, trong phạm vi cụ thể hơn, trước hết chúng tôi định vị Trần Nhân Tông như một bậc thầy, một nhà truyền giáo, một người có ý thức hoằng dương nền Phật giáo dân tộc…
Trong mối duyên lành với nhà Phật, Trần Nhân Tông có điều kiện thuận lợi bởi vượt lên giữa những cuộc chiến chống xâm lược ác liệt là một thời Phật giáo hưng thịnh. Trực tiếp hơn, Trần Nhân Tông từng được tiếp nhận tư tưởng Phật giáo từ ông nội Trần Thái Tông (1218 -1277), vua cha Trần Thánh Tông (1240-1290) và đặc biệt chịu ảnh hưởng sâu đậm từ Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 -1291)… Có thể nói tâm thế Trần Nhân Tông sớm hướng đến cửa Phật nhưng kể từ khi lui về làm Thái thượng hoàng thì mọi điều kiện, cơ duyên mới thực sự chuyển hóa thành hành động, việc làm cụ thể. Đây là cả một quá trình, một sự vận động, đan xen, đổi thay, tiếp nối trong nhiều năm trời. Trên thực tế, phải đến tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), Thượng hoàng mới chính thức “từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh”, lấy đạo hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà, trở thành vị tổ thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử… Từ đây bắt đầu một chặng đời mới với việc tu hành, viết sách, giảng kinh ở chốn non thiêng Yên Tử, đồng thời vân du các nơi và sang tận Chiêm Thành (chuyến đi năm Tân Sửu, 1301, từ tháng 3 đến tháng 11 mới trở về)…
Với tư cách là hoàng đế đồng thời là thiên sư và là vị sư tổ của thiền phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông vừa là nhà tổ chức vừa là người thực hành, thực hiện hoạt động giáo hóa cho môn đệ cũng như quảng đại chúng sinh. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng như Tam tổ thực lục đều chép việc Trần Nhân Tông từng mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới thí… Riêng sách Tam tổ thực lục ghi chép khá kỹ lưỡng cuộc đời Trần Nhân Tông với ý nghĩa một tiểu truyện thiền sư, khởi đầu từ việc Trúc Lâm Đại sĩ (Trần Nhân Tông) sinh ra gắn với điềm lạ, cuộc đời hành đạo có nhiều công tích, để lại nhiều thơ văn và cuối cùng là cái chết thanh thản, “hóa thân”, “trở về” theo đúng cảm quan “sinh ký tử qui” của Phật giáo… Trong tiểu truyện về thiền sư Trần Nhân Tông cũng mang đặc tính hỗn dung thể loại, tàng trữ các giá trị thi ca, những lời đối thoại, hỏi đáp về Phật – Pháp – Tăng, về quá khứ – hiện tại – vị lai, về công án – giáo điển, về nhân quả – hóa thân… Sách này cũng mô tả chi tiết những sự kiện diễn ra trong suốt tháng cuối cùng, lập danh sách bốn tác phẩm của Điề u Ngự còn truyền lại. Đồng thời sách tiếp tục giới thiệu việc Điều Ngự mở ba giới đàn ở chùa Chân Giáo trong đại nội, chùa Báo Ân ở Siêu Loại, chùa Phổ Minh ở Thiên Trường và đi đến tổng kết quá trình đào tạo tăng ni: “Các đệ tử nối dòng pháp đã liệt kê đầy đủ nơi bản đồ trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, còn những người được Điều Ngự dẫn dắt, âm thầm khế hợp với tông chỉ thì không kể hết”…
Vào năm cuối cùng trong cuộc đời, giữa ngày mồng Một tháng Giêng năm Mậu Thân (1308), Điều Ngự Trần Nhân Tông sai Pháp Loa nhận chức trụ trì để nối dòng pháp tại chùa Báo Ân, hương Siêu Loại (nay thuộc địa phận thôn Quang Trung, xã Dương Quang, huyện gia Lâm, Hà Nội). Sách Tam tổ thực lục chép tiếp: “Tháng tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, giảng Truyền đăng lục, lại sai Pháp Loa giữ chức trụ trì, bảo Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho đại chúng. Xong hạ, Điều Ngự vào núi Yên Tử, cho các tịnh nhân và những người theo hầu trở về, chỉ giữ lại mười thị giả thân cận để giúp đỡ”… Điều này cho thấy chí ít ba điều cơ bản. Thứ nhất, Điều Ngự Trần Nhân Tông đã chọn chùa Vĩnh Nghiêm làm nơi kiết hạ trong mùa kiết hạ cuối cùng của cuộc đời mình. Chúng ta đều biết kiết hạ có nghĩa là việc các tăng sĩ thực hiện mùa an cư, bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 đến ngày giải hạ vào đúng Rằm tháng 7. Trong suốt ba tháng đó, các tăng sĩ không được ra ngoài, phải ở yên một chỗ mà nỗ lực tọa thiền, tu trì và học hỏi giáo lý. Thứ hai, chính Điều Ngự Trần Nhân Tông đã giảng sách Truyền đăng lục cho tăng sĩ. Sách Truyền đăng lục này có thể là bộ sách có tên đầy đủ là Cảnh Đức truyền đăng lục gồm 30 quyển do Ngô Sa – môn Đạo Ngạn hệ thống pháp mạch chư tổ từ đức Thích – ca trở xuống và ghi chép các lời thuyết pháp truyền đăng (ví với cây đèn có thể phá tan sự mờ tối) vào đầu đời Tống Chân Tông, niên hiệu Cảnh Đức thứ nhất (1004); hoặc có thể là một bộ sách giản yếu, rút gọn từ bộ sách trên; hoặc cũng có thể là loại sách “truyền đăng” do chính Điều Ngự mô phỏng, ghi chép, biên soạn. Thứ ba, vẫn tại chùa Vĩnh Nghiêm, đệ nhất tổ Điều Ngự Trần Nhân Tông đã chính thức trao quyền cho đệ nhị tổ Pháp Loa trụ trì chùa và sai Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa (tên đầy đủ là Diệu pháp Liên Hoa kinh, còn gọi Diệu Pháp Hoa kinh, Pháp Hoa kinh )… Như vậy, trong ba tháng mùa kiết hạ năm 13 08, tại chùa Vĩnh Nghiêm đã hội tụ được ba gương mặt quan trong bậc nhất của làng thiền Đại Việt thời bấy giờ (đệ nhất tổ Điều Ngự Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa và Quốc sư Đạo Nhất), đồng thời tổ chức thuyết giảng các loại kinh sách quan trọng bậc nhất cho tăng lữ và cả tăng chúng.
Về đóng góp trong sự nghiệp giáo dục, phát triển Phật giáo Đại Việt của đệ nhị tổ Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330), sách Tam tổ thực lục chép: “Tháng 9 năm Quý Sửu (1313), Sư phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, qui định các chức vụ của tăng sĩ trong nước và bổ nhiệm đến hơn trăm ngôi già – lam. Chư tăng trong nước từ đó mới có sổ bộ và đều do Sư trông coi. Bấy giờ, Sư độ hơn mười người. Về sau cứ ba năm độ tăng một lần, mỗi lần khoảng dưới nghìn người”… Đoạn văn ngắn gọn này cũng minh chứng được hai điều. Thứ nhất, trong mối quan hệ hữu hảo giữa vương quyền và thần quyền, đức vua Trần Anh Tông (ở ngôi 1293 -1314) đã trực tiếp có chiếu chỉ vời sư Pháp Loa đến chùa Vĩnh Nghiêm để ban bố các qui định liên quan đến cơ cấu tổ chức và bổ nhiệm nhân sự. Việc này chắc đã có sự bàn bạc, thỏa thuận giữa vua Trần Anh Tông với đệ nhị tổ Pháp Loa. Thứ hai, được tin cậy giao cho công việc tổ chức , ngay trong lần này Pháp Loa đã cho bổ đặt đến hơn trăm ngôi già – lam (tức các ngôi chùa mới), đồng thời trực tiếp trông coi sổ bộ tăng sĩ và xét tuyển, nhập độ chúng dân vào giới tu hành. Có thể coi đây là một bước tiến trong quá trình củng cố, phát triển hệ thống tổ chức tăng đoàn của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử từ trung ương đến địa phương, từ xây dựng chùa chiền đến đào tạo, bổ sung nguồn tăng sĩ, từ những việc trước mắt đến kế hoạch hoằng pháp lâu dài.
Nhìn rộng ra, hoạt động giáo dục Phật giáo của P háp Loa thể hiện từ việc bản thân mình theo về cửa Phật (năm 1304 có cơ duyên được gặp Điều Ngự, được học Hòa thượng Tính Giác; năm 1305 được truyền giới Thanh văn và Bồ tát; năm 1306 được Điều Ngự cử làm chủ giảng ở chùa Báo Ân – Siêu Loại; năm 1307 được Điều Ngự giảng Đại tuệ ngữ lục ở am Thiên Bảo rồi được truyền y bát và tâm kệ; năm 1308 phụng mệnh nối dòng pháp trụ trì Cam Lộ Đường, liền đó dự lễ truyền thừa Tổ vị, được nhận pháp y, được đăng đàn thuyết pháp, được kế thế trụ trì chùa Siêu Loại, làm Tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm và được nhận 100 hộp kinh sử ngoại điển cùng 20 hộp Đại tạng cỡ nhỏ viết bằng máu để mở mang sự học nội và ngoại điển…); sau đó là quá trình truyền giảng, hoằng dương Phật giáo (năm 1309, lên tòa thuyết pháp, tiếp nhận Huyền Quang theo học; năm 1310, giảng kinh Hoa nghiêm, rước xá lợi Điều Ngự đến tôn trí ở chùa Phổ Từ, phủ Long Hưng và độ cho Cảnh Huy xuất gia thụ giới; năm 1311, phụng chiếu khắc Đại tạng kinh, giảng Truyền đăng lục ở chùa Siêu Loại, rồi được vua Anh Tông ban chiếu mời vào chùa Tư Phúc trong đại nội giảng Đại tuệ ngữ lục…; và rồi đến năm 1317, sư đem y bát và tâm kệ do Điều Ngự truyền lại trao cho Huyền Quang; năm 1322, sư soạn sách Tham thiền chỉ yếu; năm 1323, soạn Kim cương trường Đà la ni kinh khoa chú, Pháp sự khoa văn; năm 1328, soạn sách Nhân vương hộ quốc nghi quĩ…). Như vậy, quá trình hoạt động giáo dục của Pháp Loa được thể hiện từ khi mới xuất gia, chuyên tâm học hỏi cho đến khi đắc đạo, trở thành bậc thầy và tiếp tục xây chùa, tiếp nhận môn đệ, thuyết pháp cho chúng sinh, viết sách để lại cho đời.
Đến đây xin nhấn mạnh hai phương diện đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của Pháp Loa. Thứ nhất, ngài có quan điểm hoằng pháp cởi mở, đầy thiện chí, thu nạp nhiều loại đối tượng và tùy cơ khuyến hóa. Sách Tam tổ thực lục nêu rõ: “Sư thường ngày đêm lễ Phật, trì chú, không lúc nào thiếu sót, lại viết bài phát nguyện trong Lục thời nghi, đại ý nói: Chư Phật, Bồ tát có những hạnh nguyện gì đều xin học cả. Hết thảy chúng sinh hoặc tán dương hay hủy báng, hoặc kính trọng hay xem thường, hoặc bố thí hay cưỡng đoạt, mà khi gặp mặt hay nghe tên, đều nguyện độ cho họ được giác ngộ”… Thứ hai, kế thừa tư tưởng giáo dục, hoằng dương Phật giáo dân tộc của Điều Ngự Trần Nhân Tông và nền tảng học phong Đông A, bên cạnh các nguồn sách kinh điển và ngoại điển, Pháp Loa còn đặc biệt quan tâm biên soạn, viết lời niêm tụng, bình luận, giải thích và khắc in tác phẩm của các bậc sư thầy gần cận như Thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung, Thạch thất mị ngữ, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông… Điều này cho thấy Pháp Loa thực sự có ý thức kết nối tinh thần đạo pháp với dân tộc, tôn trọng các nguyên tắc kinh điển gắn với khả năng sáng tạo phù hợp với điều kiện của chúng sinh và hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ.
Khẳng định sự phát triển của giáo hội dưới thời đệ nhị tổ Pháp Loa, sư thầy Nguyễn Lang viết: “Số người xuất gia và gia nhập giáo hội Trúc Lâm càng ngày càng đông. Tháng Chín năm Quý Sửu (1313), Pháp Loa phụng chiếu đến cư trú tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, đặt văn phòng Trung ương của giáo hội ở đó, qui định mọi chức vụ của tăng sĩ trong giáo hội, kiểm tra tự viện và làm sổ tăng tịch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam tăng sĩ có hồ sơ tại Giáo hội Trung ương. Pháp Loa thấy số lượng tăng sĩ đông quá liền quyết định ba năm mới có một lần độ tăng. Giới đàn được tổ chức ba năm một lần và mỗi lần số người xin thụ giáo bị thải ra có đến hàng nghìn người. Tính đến năm 1329, số tăng sĩ đã được xuất gia trong những giới đàn do Giáo hội Trúc Lâm tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Pháp Loa là trên 15.000 vị. Về tự viện, năm 1313 có tới trên 100 ngôi chùa hệ thuộc vào Giáo hội Trúc Lâm. Sách Tam tổ hành trạng của Ngô Thì Nhậm nói có hơn 800 ngôi chùa”…
Tính từ khi được trao truyền y bát (1308) đến khi qua đời (1330), đệ nhị tổ Pháp Loa đã có tới 22 năm giữ quyền lãnh đạo cao nhất trong Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, phát triển thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử cũng như Phật giáo Đại Việt nói chung.
Với đệ tam tổ Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254 -1334), chỉ biết rằng ông đã từng làm quan, từng cùng Pháp Loa theo học đệ nhất tổ Điều Ngự Trần Nhân Tông. Sách Tam tổ thực lục chép: “Lúc Tổ theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Phượng Nhãn, thấy Quốc sư Pháp Loa đang hành đạo, liền nhớ lại duyên xưa, bùi ngùi than rằng: “Làm quan lên Bồng Đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hạ, há nên lưu luyến mãi!”. Nhân đó dâng biểu đến ba lần xin từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Thuở ấy, vua đang tôn sùng Phật giáo, nên người chấp nhận. Khi được phép vua, Tổ liền thọ giáo với Thiền sư Pháp Loa, được Pháp hiệu là Huyền Quang”…
Có thể hiểu rằng vị vua được nói đến ở đây chính là Trần Anh Tông bởi ngay từ năm Quý Tị (1293), Trần Nhân Tông đã nhường ngôi và lên làm Thái thượng hoàng, rồi đến tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), Thượng hoàng mới chính thức “từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh” và lần đầu gặp Pháp Loa vào năm Giáp Thìn (1304). Vậy thì việc Huyền Quang Lý Đạo Tái theo vua Trần Anh Tông gặp được Điều Ngự và Pháp Loa phải vào khoảng những năm 1305 -1306. Điều quan trọng hơn, đoạn trích cho biết thêm ba vấn đề cơ bản khác. Thứ nhất, chùa Vĩnh Nghiêm chính là nơi duyên khởi giúp cho Huyền Quang thấu hiểu lẽ đạo lẽ đời và quyết chí theo về cửa Phật. Thứ hai, đoạn trích xác nhận đến lúc này Huyền Quang Lý Đạo Tái vẫn còn làm quan, phải ba lần dâng biểu mới được từ chức xuất gia tu hành. Thứ ba, khi được ban pháp hiệu Huyền Quang, sư thụ giới ngay với đệ nhị tổ Pháp Loa – người hơn mình vài hạ nhưng lại kém đến cả ba mươi năm tuổi đời – và ở lại tu hành ngay chính chùa Vĩnh Nghiêm.
Trong một thời gian, có thể cả Điều Ngự Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang đều ở lại chùa Vĩnh Nghiêm và chuyên tâm giảng kinh, hoằng dương Phật đạo. Sách Tam tổ thực lục cho biết thêm: “Vua thường lấy làm lạ bảo: “Tướng người này có đạo nhãn, có thể là bậc pháp khí, bậc thánh tăng chân chính vậy”. Rồi Tổ phụng mệnh vua trụ trì chùa Vân Yên, núi Yên Tử. Tổ đọc nhiều, học rộng, tinh thông Phật pháp; tăng, ni theo học kể đến hàng nghìn. Từ ấy, Điều Ngự Giác Hoàng cùng Pháp Loa, Huyền Quang, ba Thiền sư đi khắp các chùa danh tiếng trong nước. Điều Ngự ban cho Sư pháp tòa trầm hương để giảng kinh cho đồ chúng, lại ra lệnh cho Sư soạn Chư phẩm kinh và Công văn tập,… và ngự bút phê vào Thích khoa giáo: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa”. Rồi sai thợ đem khắc in để truyền cho đời, và ban thưởng vàng bạc vô số”… Điều này cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa ba vị sư tổ Thiền phái Trúc Lâm và đặc điểm mối liên hệ giữa tổ đường Vĩnh Nghiêm với trung tâm Trúc Lâm Yên Tử, những nơi các sư thường qua lại, giảng kinh, soạn sách, mở đường giáo hóa. Trong ý thức, hành động và nhiệt huyết khuyến giáo “ba Thiền sư đi khắp các chùa danh tiếng trong nước”, riêng Huyền Quang từng đến chùa Báo Ân giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm, lập chùa Đại Bi ở quê nhà. Sách Tam tổ thực lục ghi nhận những nỗ lực hoằng dương Phật pháp của Huyền Quang trong mấy năm cuối đời: “Sư cư trú núi Thanh Mai sáu năm, rồi về trụ trì Côn Sơn, đọc tụng kinh điển và lập ra đài Cửu phẩm liên hoa, để lại cho kẻ hậu học”…
Nhận xét về vai trò văn hóa và chính trị cũng như hoạt động giáo dục của Phật giáo đời Trần, sư thầy Nguyễn Lang viết: “Đặc tính của Phật giáo Trúc Lâm là nhập thế: đạo Phật phụng sự cho đời sống: đời sống tâm linh cũng như đời sống xã hội. Hai phương diện ấy của đời sống con ngư ời cần được liên hệ với nhau và bổ túc cho nhau (…). Những tự viện trên núi tổ chức ẩn cư và kết hạ nhưng vẫn có liên hệ đến đời sống văn hóa, xã hội và chính trị của quốc gia (…). Nền giáo dục hồi đó còn mang tính chất tổng hợp tam giáo và không có tính c ách từ chương. Kiến thức thực tế về đạo lý là căn bản. Văn chương và cú pháp là thứ yếu. Trong không khí học tập tự do và cởi mở ấy, triều đình đã đãi ngộ nhân tài và sĩ phu rất kính cẩn, cho nên người giỏi xuất hiện rất nhiều và sự học phát triển rất rộng”1. Nói cách khác, nền giáo dục thời Trần đã góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đạo và đời, vương quyền và thần quyền, truyền giảng giáo lý và thực hành đạo lý, xây dựng được một nền Phật giáo phát triển nội sinh trong nền văn hóa dân tộc.
3. Bên cạnh nhiều nhân tố khác, hoạt động giáo dục Phật giáo có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền Phật giáo Đại Việt giàu bản sắc. Dựa trên căn bản tinh thần dân tộc, nền giáo dục Phật giáo thời Lý – Trần vừa chú trọng giáo lý kinh điển vừa không ngừng sáng tạo, tìm ra những phương án hoằng dương mới, nội dung mới, hình thức mới, phù hợp với nếp cảm nếp nghĩ và truyền thống tinh thần dân tộc. Hoạt động giáo dục Phật giáo thời Lý – Trần trước hết nhằm tôn vinh Phật giáo nhưng không độc tôn, không đối lập và càng không bài bác, loại trừ Nho giáo, Đạo giáo. Về cơ bản, đó là nền giáo dục Phật giáo nhập thế: một mặt, giới tăng lữ chính là một bộ phận trí thức và trực tiếp tham dự vào hoạt động thế quyền; mặt khác, họ chủ động truyền giản g, lôi cuốn cả tầng lớp vua quan, chức sắc và dân chúng cùng tham gia vào sự nghiệp hoằng dương Phật giáo. Có thể coi mối quan hệ Đạo – Đời trong hoạt động giáo dục Phật giáo thời Lý – Trần chính là một nội dung trọng yếu và trở thành di sản tinh thần truyền thống của cả nền giáo dục Việt Nam dưới thời trung đại.
Hà Nội, tháng 02-2012
Địa chỉ :Viện Văn học, 20 Lý Thái Tổ – Hà Nội
Email: lavson59@yahoo.com
Discussion about this post