ĐẠI CHÂN VIÊN GIÁC THANH LƯỢC GIẢI
Kỳ 1: Ngô Thì Nhậm và tư tưởng Nho – Phật song hành
Phạm Trần Lê
Trong
các danh nhân văn hóa Việt Nam, Ngô Thì Nhậm là người duy nhất biểu đạt tư
tưởng một cách có hệ thống theo chủ định. Tác phẩm Đại Chân Viên Giác Thanh của
ông là sự chiêm nghiệm nghiêm túc và bao quát cả hai hệ tư tưởng cổ đại lớn của
nhân loại, Nho giáo và Phật giáo.
Qua nhiều thế kỷ chịu ảnh
hưởng bởi hai hệ tư tưởng trên, dù nước ta có nhiều nho sĩ, nhiều thiền sư,
nhưng tới thời Ngô Thì Nhậm vẫn chưa có ai dám tham vọng làm nghiên cứu một
cách có hệ thống được như ông, dù chỉ tập trung vào một trong hai hệ tư tưởng
nói trên. Việc so sánh đối chiếu, tìm ra các mấu chốt tương đồng, tương phản,
thì lại càng không có. Vì vậy, Đại Chân Viên Giác Thanh thực sự là tác phẩm vừa
độc đáo, vừa có tham vọng tri thức lớn, rất cần được nghiên cứu chuyên sâu.
Hiện nay chúng ta đã có
khảo cứu chú thích rất tỉ mỉ của cố giáo sư Cao Xuân Huy. Nhưng vẫn còn thiếu
các nghiên cứu biện giải. Điều này có thể hiểu được, vì Ngô Thì Nhậm viết Đại
Chân Viên Giác Thanh theo lối viết công án của các thiền sư. Ông để mình đóng
vai Hải Thượng đại thiền sư, lần lượt trải qua các tình huống luận giảng trước
đồ đệ. Lối viết công án rất giàu tính ẩn dụ, và đặc biệt đòi hỏi người đọc có
am hiểu nhất định về các trải nghiệm tâm lý trong quá trình tu hành.
Qua bài viết này, tôi cố
gắng biện giải lần lượt 24 chương của Đại Chân Viên Giác Thanh, bản dịch của
Cao Xuân Huy (1). Vì sao phải đi qua cả 24 chương? Vì các phần có sự kết dính
chặt chẽ với nhau, cái trước khởi phát cái sau. Đây là đặc điểm quan trọng,
phân biệt công án thiền của Ngô Thì Nhậm với các công án thiền khác ở Việt Nam
(và có lẽ cũng rất hi hữu trên thế giới, cần có các nghiên cứu rộng hơn). Quan
trọng hơn, đây là cách truyền đạt duy nhất mà tôi thấy có thể bảo toàn phần nào
không gian văn hóa của tác phẩm.
Tuy nhiên, trong từng
chương, tôi không biện giải toàn bộ, mà chỉ lược dẫn các mệnh đề chính, và các
phép ẩn dụ minh họa cho các mệnh đề này (tất cả đều được in nghiêng để phân
biệt với các dòng biện giải). Thông qua bố cục hệ thống các mệnh đề chính của
24 chương, chúng ta có thể tạm có một cái nhìn bao quát đối với tư tưởng của
tác giả và tác phẩm. Qua đó người đọc có thêm một phương án tham khảo cho các
nghiên cứu sâu và rộng hơn.
1. Không thanh
Thế giới quan Phật giáo
khởi đầu bằng tính Không. Không thanh không phải là không có âm thanh mà là một
trạng thái minh tĩnh khi không còn dư âm từ các tạp niệm.
Các tạp niệm có hình thức là các lý lẽ. Lý lẽ thực ra là công cụ để
người ta biện giải chân tướng các sự vật. Nhưng mỗi lý lẽ đều nương tựa trên
một lý lẽ khác, hay một giả định khác. Không thể có cái lý vừa khách quan, vừa
tối hậu cuối cùng. Vậy nên Ngô Thì Nhậm thông qua nhân vật Hải Lượng đại thiền
sư đã nhận xét: “Lý giống như cái thớ cái đốt của cây”, (lưu ý, thớ và đốt khác
với gốc rễ) và “cái Lý không thể noi theo hết được”.
Lý lẽ không thể nhận biết hết được không chỉ vì sự phức tạp, mà chủ
yếu là vì tư duy của con người luôn bị chi phối bởi các nhu cầu tâm lý bản
năng. Hải Lượng đại thiền sư nói: “Dậy, dậy, dậy, đánh chẳng dậy; ngủ, ngủ,
ngủ, chửi vẫn ngủ”. Khi tâm lý bản năng đủ mạnh thì người ta có thể suy nghĩ
bất chấp lý lẽ, bất chấp tư duy.
Bản năng là thứ không thể điều chỉnh cưỡng bức. Tuy nhiên, bản năng
cũng có quy luật chứ không hoàn toàn hỗn loạn. Hải Lượng đại thiền sư nói: “Dục là như nước chảy
xuống, lửa bốc lên”.
Như vậy là, lý lẽ không thể khách quan đến cùng, trong khi bản năng tâm lý thì
luôn chi phối rất mạnh, để thoát khỏi vòng luẩn quẩn trên, con người cần minh
tĩnh. Minh tĩnh bắt đầu từ buông xả. Buông xả tức là không để tình cảm bị chi
phối sâu theo những biến đổi tự nhiên của ngoại cảnh đời sống.
Nhà sư bên hữu, một trong hai học trò của Hải Lượng thiền sư đọc kệ: “Nước xuôi thì thả thuyền,
đường hiểm thì dừng ngựa; khi dừng hay khi đi, đều không phải do ý ta”.
Tuy nhiên, ngay cả quá trình buông xả cũng không thể cưỡng cầu một
cách chủ quan. Không phải cứ buông xả thì chân tướng sự vật tự nó hiển hiện
thông suốt. Có lúc sự vật tự thân nó rất phức tạp. Và có lúc bản năng chi phối
quá mạnh, khiến cho không thể ngay một lúc mà buông xả được.
Nhà sư bên tả tiến lên nói: “Ngựa gặp đường phẳng đi bon bon, gốc cây chằng
chịt bửa không ra”. Nghĩa là nội tâm con
người khi đã thông suốt thì mọi sự vật tự nhiên thông suốt. Còn khi đã không
thông suốt thì lý lẽ không thể giúp gì được. Nhà sư bên hữu đứng dậy đáp:
“Đường phẳng là ngựa thuận Lý, gốc rắn là cây nghịch Lý, Lý có thuận nghịch,
cho nên người không chấp trước [tức là không bị vướng trong định kiến] thì
không bắt buộc phải noi theo Lý.
Trong chương đầu này Ngô
Thì Nhậm đã có sự đối chiếu về nền tảng của hai hệ tư tưởng Nho và Phật. Khái
niệm đạo đức nền tảng của Nho là Nhân là một khái niệm rất mở. Với từng học
trò, Khổng Tử biện giải một cách riêng. Người học theo Nho phải tự tổng kết,
rút ra mấu chốt cho mình. Vì vậy Nho giáo là thứ tư tưởng đòi hỏi thực hành,
thông qua thực hành để tự bồi bổ dần nền tảng lý thuyết. Cũng như nhiều Nho sĩ
khác, Ngô Thì Nhậm thấu hiểu điều này. Tuy nhiên, thông qua nền tảng thế giới
quan Phật giáo mà khởi đầu từ tính Không, ông tìm thấy điều còn thiếu để bổ
khuyết vào chỗ trống cho mình.
2. Ngộ thanh
Đồ đệ bạch với thầy rằng: “Lý không noi theo hết được, Dục không cắt đứt hết
được hay sao?”
Thầy nói:
– Không cắt đứt thì đứt, cắt đứt thì lại không đứt. Cuồn cuộn nước
chảy, chảy thì khô cạn. Lốm đốm lửa dập, dập thì bốc.
Câu nói này làm rõ hơn ý ở phần trước. Bản năng của con người tuy
mạnh thật, không thể miễn cưỡng áp đặt ý chí lên nó (lửa đang cháy mà dập thì
khói sẽ bốc), nhưng tự bên trong bản năng cũng có sự chuyển hóa theo quy luật
riêng (nước để tự do chảy thì có lúc sẽ khô cạn).
– Nước xem là nước, thì đó không phải là nước
thật. Lửa xem là lửa thì đó chính là lửa giả. Nước thật thì nóng được, lửa thật
thì lạnh được.
Nhận thức luôn chịu tác động bởi cách đặt tên cho sự vật. Khi hình
dung sự vật thông qua tên gọi, vô hình trung đã có sự áp đặt cố định về tính
chất của sự vật đó, trong khi bản thân nó vẫn đang liên tục biến đổi.
Đồ đệ lại bạch rằng:
– Trong thiên hạ vật gì là tốt?
Thầy đáp rằng:
– Mọi vật đều tốt cả. Vật gì ta thích thì tốt, ta
không thích thì không tốt. Cho nên có cái tốt mà không tốt, có cái không tốt mà
tốt.
Ở đây Ngô Thì Nhậm lại
tiếp tục có sự câu dẫn về tác động mật thiết giữa nhận thức và tâm lý bản năng
(Lý và Dục). Nhận thức chịu tác động của nhu cầu tâm lý, trong khi nhu cầu tâm
lý thì luôn biến đổi.
3. Tiếng ầm
Trải qua các giai đoạn không thanh, ngộ thanh, tâm trí trở nên tỉnh
táo hơn, đầy đủ hơn. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì không bị chấp thường (chủ
quan cho rằng sự vật nào đó tồn tại vĩnh viễn), cũng không bị chấp đoạn (chủ
quan cho rằng sự vật nào đó có điểm kết thúc).
Hải Lượng đại thiền sư nói:
– Có sinh là bất sinh, có diệt là bất diệt
Câu này nghĩa là, cái mà ta thấy là được sinh ra, thực ra thì nó
vốn có nhưng ở một hình thức khác mà ta không nhận thức thấy. Cái mà ta thấy là
bị diệt vong, thực ra không mất đi, mà đã chuyển sang một hình thức khác mà ta
chưa nhận thức được.
Chương này có tên gọi là
tiếng ầm, để thể hiện tính biến đổi trùng điệp của sự vật. Sự vật trở nên to
lớn, không có khởi đầu, không có kết thúc.
4. Phát tưởng thanh
Hải Lượng đại thiền sư đang ăn mà nghẹn. Đồ đệ bạch thầy rằng:
– Thầy nghẹn thì có Tưởng hay không?
Thầy đáp:
– Ta Tưởng cái Phi Tưởng, chưa đến được cái Phi
Phi Tưởng.
Ngô Thì Nhậm rất sáng tạo khi dùng hình ảnh ẩn dụ đang ăn mà nghẹn
để biểu đạt trạng thái tâm trí bị vướng bận. Người đang ăn mà nghẹn là vì tâm
trí khi ấy không chuyên chú vào việc ăn mà đang hướng tới sự vật khác. Nếu như
đang bị cuốn trong tạp niệm, thì mức độ tu hành chưa phải là cao. Cho nên đồ đệ
mới truy vấn về sự tưởng tượng của thầy.
Tưởng là trạng thái cảm nhận bị chi phối bởi bản năng tâm lý. Phi
Tưởng là trạng thái cảm nhận được rằng cái ta đang tưởng tượng đó chưa hẳn đã
đúng. Phi Phi Tưởng là trạng thái minh tĩnh, cảm nhận được rằng cả Tưởng lẫn
Phi Tưởng đều vẫn bị chi phối bởi bản năng tâm lý, từ đó mà thoát khỏi được cả
hai.
Lưu ý ở đây chúng ta dùng
khái niệm cảm nhận thay vì nhận thức, vì cảm nhận bao hàm một sự nhất quán giữa
nhận thức và cảm xúc. Người nghiên cứu sâu về Phật giáo đều ít nhiều hiểu khái
niệm Phi Phi Tưởng, nhưng để luôn sống nhất quán trong nó bằng cả nhận thức lẫn
cảm xúc thì cần phải qua một quá trình tu tập nhất định. Ngô Thì Nhậm để cho
nhân vật Hải Lượng đại thiền sư chưa đạt tới được Phi Phi Tưởng, chính là tạo
cớ để bàn tiếp về sự tu thân. Tri thức người tu hành đã được khai mở qua các
phần Không thanh, Ngộ thanh, tiếng Ầm, nhưng cảm xúc vẫn chưa thoát khỏi các
vướng bận.
5. Kiến thanh (tiếng Thấy)
Qua các chương Không thanh, Ngộ thanh, tiếng Ầm, nhận thức con
người đã được khai mở để thấy cái Phi Tưởng, nhưng vẫn còn hoang mang chưa biết
đâu là điểm tựa. Kiến thanh chính là nền tảng để đặt chân.
Trong thành nước Hỏa Xa có vô số trai lành, gái
lành, đảnh lễ đức Phật Thích Ca Mâu Ni để cầu xin con trai, con gái. Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni bèn hóa làm trăm vạn ức thân La hán (người đã thoát khỏi mọi
phiền não). La hán sâu mắt, con trai con gái cũng sâu mắt. La hán đen mông, con
trai con gái cũng đen mông. Nhưng cũng có con trai con gái thân thể thanh tú
không giống La hán. Người người dâng hoa, lễ bái Hải Thượng đại thiền sư mà hỏi
cái thân chân thực của mình. Đại Thiền Sư niệm Thích Ca Mâu Ni Phật, thấy thân
của Phật Thích Ca Mâu Ni, mà không thấy trăm nghìn vạn ức thân La hán.
Câu chuyện trên đồng nghĩa với câu nói tương truyền của đức Thích
Ca Mâu Ni: “ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sắp thành, cho nên [ta/các
ngươi] bước thấp giữa mọi người”.
Với việc nhận ra Phật
tính trong mọi người, ta nhận ra sự đồng điệu giữa mình và thế giới. Ta cũng
trân trọng bản thân và trân trọng mọi người hơn. Đây là nền tảng để an tâm.
6. Tiếng gọi
Hải Lượng đại thiền sư nói:
– Người là người, ma là ma, súc sinh là súc sinh
Câu này tương phản với ý của phần trước (Kiến thanh) rằng Phật tính
ở trong vạn vật. Ý của phần này là tuy Phật tính ở trong vạn vật, nhưng hình
thức chúng sinh mà ta thấy khác nhau.
– Mắt vốn tỏ mà hoa, tai vốn tỏ mà ù
Hình thức của chúng sinh khác nhau, theo cách nhìn Phật giáo thì
chính là do nghiệp quả. Mà nghiệp quả chịu ảnh hưởng bởi việc làm. Việc làm lại
chịu tác động của cảm nhận. Khi Phật tính trong chúng sinh bị chìm lấp, cảm
nhận bị cuốn trong tạp niệm, thì nghiệp quả kết thành trùng điệp, tạo ra vô số
hình thức khác nhau của chúng sinh.
Chương Tiếng gọi bắt đầu
sau chương Kiến thanh, là sự thúc giục chúng sinh bất chấp khác biệt bởi hình
thức bên ngoài, tự mình vượt qua tạp niệm, để điểm chung bên trong là Phật tính
được khởi lên.
7. Tiếng thoát
Hải Lượng đại thiền sư nói:
– Phật Thích Ca Mâu Ni sinh sau vua Thuấn (2),
tiếp thu được cái phép phá địa ngục [của Thuấn] để mà cứu độ chúng sinh
Đồ đệ bạch với thầy rằng:
– Vua Thuấn cho Cao Dao làm sĩ sư (quan coi hình
ngục), như thế là tạo ra ngục trong cõi người, còn phá địa ngục nỗi gì?
Đại thiền sư nói:
– Ngục trong cõi người dễ ra, địa ngục rất khó
ra, không phá thì không ra được. Vua Thuấn là người có đại lực mới phá được,
Thích Ca Mâu Ni cũng có đại lực nên tiếp thu được cái phép phá ngục
Đồ đệ bạch với thầy rằng:
– Vua Thuấn có phép gì vậy?
Thầy nói:
– …
Vua Thuấn lấy cái phép Tinh Nhất mà phá nó. Thích Ca Mâu Ni lấy cái phép Tinh
Tiến mà phá nó.
Đây là phần có sự so sánh một cách có hệ thống nhất giữa hai hệ tư
tưởng Nho – Phật. Về mục đích thì cả hai cùng hướng tới diệt khổ trong cõi nhân
gian. Biện pháp tuy có khác biệt, nhưng bản chất sâu bên trong giống nhau ở chỗ
cùng thông qua sự lược bỏ đi các tạp niệm, mầm mống của nghiệp chướng. Quan hệ
giữa tiếng gọi và tiếng thoát là ở đây.
Vua Thuấn đặt ra quy định
luật pháp để trị nước. Sau này Khổng Tử mềm dẻo hơn, chú trọng nhiều ở Lễ, tức
là những quy luật hành xử đúng mực, vừa có tính giúp ổn định xã hội, vừa có
chức năng làm ổn định tâm tính.
Tính chất Tinh Nhất nhìn trên diện rộng xã hội thì thể hiện sự lược
bỏ đi những điểm bất cập, hướng tới một hệ thống hài hòa trong quan hệ giữa
người và người. Nhìn vào không gian riêng của từng cá nhân thì việc tuân thủ
pháp luật và hành xử theo Lễ giúp người ta tự khép mình vào quy củ, tinh lọc đi
những suy nghĩ và hành động gây ra khổ não cho bản thân và đồng loại.
Tính Tinh Tiến trong tư
tưởng Phật giáo đến từ việc minh tĩnh để lược bỏ các tạp niệm. Nhưng sự tinh
lọc trong việc tu thân của Phật giáo mang tính chất liên tục biến động. Lớp tạp
niệm lớp ngoài được lược bỏ thì tiếp đến sẽ là lớp tạp niệm ở sâu hơn trong
tiềm thức. Chữ Tiến trong Tinh Tiến là để thể hiện điều này.
8. Thu thanh (tiếng thu lại)
Hải Lượng đại thiền sư nói rằng:
– Bậc Đại Bồ Tát vô lượng lực (3) thì không xuất gia … Thánh nhân
“xem thiên hạ là một nhà”
(4). Còn chúng sinh vì nặng nghiệp, vì [bất an bởi] lòng tham và hận,
nên xuất gia. Khổng Tử nói “chim muông ta không thể cùng bầy được, nếu không
bạn bè với người thì ta còn bạn bè với ai?(5) Kinh Liên Hoa nói rằng: “ta xem
hết thảy đều bình đẳng, không có lòng yêu ghét này nọ. Ta không tham cái gì,
cũng không có cái gì hạn định và trở ngại cả”. Đó là cái nghĩa đại đồng của Nho
gia.
Nhìn theo khía cạnh tâm lý thì khi con người vượt qua chướng ngại
trong nội tâm, bắt đầu cảm thấy yên ổn, thì chính là lúc có nhu cầu kết nối với
đồng loại, đóng góp cho đồng loại. Quy luật tự nhiên của tâm lý con người sau
khi tu thân cũng như vậy. Cho nên là Bậc Đại Bồ Tát hay thánh nhân thì lòng dạ
càng rộng lớn, tâm muốn kết nối với muôn nhà.
Tinh thần yêu thương con người cùng vạn vật nói trên vốn khởi phát
từ tính Không ở phần Không thanh (không còn nhận thức phân biệt giữa các sự vật),
sâu sắc hơn qua việc nhìn thấy Phật tính trong mọi chúng sinh ở phần Kiến
Thanh. Tới phần này, Ngô Thì Nhậm khẳng định rằng tinh thần Nho gia cũng có cái
nghĩa đại đồng như vậy.
Qua đó ông ủng hộ chủ
trương nhập thế của Nho, coi việc hòa nhập vào đời sống, tự rèn luyện mình giữa
thế cuộc, là hoàn toàn phù hợp với tư tưởng Phật giáo.
(*) Mời bạn đọc xem tiếp kỳ 2
Phạm Trần Lê (Nguồn: TS)Chú thích:
1. Cao Xuân Huy, Trúc Lâm
Tông Chỉ Nguyên Thanh; Ngô Thì Nhậm – Tác phẩm, tập III;
2. Nguyên văn trong bản dịch của Cao Xuân Huy là Đế Thuấn Hữu Ngu Thị. Vua
Thuấn theo truyền thuyết Trung Hoa là vua giỏi thời cổ đại.
3. Bồ Tát là một cấp độ tu hành trong Phật giáo. Đại Bồ Tát vô lượng lực tạm
hiểu là người tu hành tới cảnh giới rất cao.
4. Luận Ngữ, thiên Vi Tử
5. Luận Ngữ, thiên Nhan Uyên
ĐẠI CHÂN VIÊN GIÁC THANH LƯỢC GIẢI
Kỳ 2: Tinh thần nhập thế
Phạm Trần Lê
Trong
kỳ trước của bài viết, chúng ta đã trải qua phần đầu của Đại Chân Viên Giác
Thanh và được tiếp xúc với các chiêm nghiệm của Ngô Thì Nhậm đối với hai luồng
tư tưởng cổ đại, Nho giáo và Phật giáo. Bên cạnh những khác biệt có tính bổ
sung lẫn nhau, Ngô Thì Nhậm đã tìm thấy sự đồng điệu giữa chúng mà quan trọng
nhất là ở Tinh thần Nhập thế. Tinh thần này sẽ được tiếp tục phát huy cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu trong những chương tiếp theo của Đại Chân Viên Giác
Thanh.
Tám chương đầu tiên của
Đại Chân Viên Giác Thanh khởi đầu từ Không thanh, kết tại Thu thanh. Qua đó
nhận thức và cảm xúc của con người được dẫn dắt tuần tự qua các giai đoạn. Bắt
đầu từ trạng thái minh tĩnh có tính ước lệ, lắng lọc dần các tạp niệm, để đi
tới chỗ không còn phân biệt giữa ta và vật (thánh nhân xem thiên hạ là một
nhà). Điểm dừng này là nền tảng để khởi đầu cho một hành trình tu tập mới.
9. Định thanh (tiếng định)
Hải Lượng đại thiền sư nói:
– … Thích quân tử xả kỷ (quên mất bản thân) để tế độ người… Nhà Nho nói Chính
Tâm, Thành Tính; nhà Phật nói Minh Tâm, Kiến Tính; [cả hai] đều có nghĩa “Đạo
người quân tử rộng khắp mà kín đáo”.
Tinh thần xả kỷ không phải là một cố gắng gượng ép. Nó bắt đầu từ
thế giới quan coi mọi sự vật liên kết trùng điệp với nhau (chương Tiếng ầm),
phát triển tới tinh thần xem thiên hạ là một nhà (chương Tiếng thu). Tức là
nhìn nhận các sự vật một cách tổng quan, không cục bộ. Vì góc nhìn rộng nên tâm
trí khách quan hơn, không bị tạp niệm chi phối. Ta suy xét sự vật không chỉ lưu
tâm tới bản thân, mà hướng tới sự hài hòa trong các quan hệ nhân quả ràng buộc
ta với sự vật (“Đạo người quân tử rộng khắp mà kín đáo”).
Văn Vương là hậu thiên, đẩy lui quẻ Càn về góc Tây Bắc… Tây Bắc là
phương vị của Càn và Đoài, Càn và Đoài là cái đất vô dụng, lui về chỗ vô dụng
mà chứa cất mọi cái dụng… Cất chứa Kim (Tây Bắc thuộc hành Kim) trong cái vô
dụng, đó là cái đạo của trời, chỉ người quân tử mới biết được.
Thái độ xả kỷ, “lui về chỗ
vô dụng” hàm ý không bị cuốn theo những mong cầu của bản năng. Đây là nền tảng
để nuôi dưỡng cảm nhận chân thực về mọi sự vật mà Ngô Thì Nhậm gọi là vàng
(Kim) của người tu hành.
10. Tịch nhiên vô thanh (lặng lẽ không có tiếng)
Có diệt được cái tính người thì cái tính trời mới
dậy lên được. Thường thì tính trời khó dậy lên, mà tính người thì rất khó diệt.
Diệt được tính người thì tức thời mọi cảm thụ đều tĩnh lặng, chỉ còn một cái
Chân lâng lâng. Chuông trống ở đằng trước mà tai không bị loạn; gấm vóc ở đằng
trước mà mắt không bị choáng, thiên binh vạn mã ở đằng trước mà tâm không dao
động. Được như vậy mới gọi là Tịch.
Tịch diệt là đỉnh cao
nhất của tiến trình lược bỏ các tạp niệm. Nhận thức trước sự vật khi đó tuyệt
đối không bị những mong cầu khởi phát từ tâm lý bản năng quấy nhiễu. Tâm trí
như tấm gương, đối diện sự vật nào thì phản chiếu lại đúng như thế.
11. Tiếng đẽo
Hải Lượng đại thiền sư nói:
– Không có thế vị thì không thành Phật được;
không có tiền tài nữ sắc thì không thành Phật được; không có cung thất đẹp, xe
ngựa tốt thì không thành Phật được; không có bề tôi giỏi giang, nô tỳ lanh lợi
thì không thành Phật được.
Đồ đệ bạch với thầy rằng:
– [như thế thì] đệ tử nguyện suốt đời làm theo để
thành Phật đạo.
Thầy đáp rằng:
– Kiệt và Trụ, U và Lệ, Phi Liêm, Đào Ngột (tên
các hôn quân và cận thần bạo ngược) cũng suốt đời làm theo… Những kẻ bần cùng
đói rét, khốn khổ, không biết dựa vào đâu, cũng suốt đời làm theo được, nào
phải chỉ có một mình ngươi làm theo được hay sao.“
Hoàn cảnh thanh tĩnh là
điều kiện thuận lợi để khởi đầu con đường tu hành. Nhưng sống trong hoàn cảnh
thanh tĩnh không phải là mục tiêu của việc tu hành. Bằng cách dấn thân vào đời
sống, người tu hành càng được mở rộng tri giác và càng có cơ hội thử thách cảm
nhận của mình.
12. Nhất thanh
Những trải nghiệm phong phú trong đời sống rất cần thiết. Nhưng sự
phong phú đó mới ở khía cạnh số lượng và thể loại. Nếu không sắp xếp, hệ thống
lại thì tâm trí sẽ bị lạc trong một mớ hỗn độn. Tiếng đẽo (tên của chương 11)
là những âm thanh liên tục nhưng rời rạc. Tên của chương tiếp theo này là Nhất
thanh, hàm ý chỉ ra tính nhất quán xuyên suốt các bậc khác nhau trong tiến
trình tu tập.
Ba Đại Bồ Tát [Quá khứ, Hiện tại, Vị lai] tu tập
về Đạo… Tam Hoàng tu tập về ý… Ngũ Đế tu tập về lời… Tam Vương tu tập về
tượng… Ngũ Bá tu tập về số.
Ở đây, Đạo là nền tảng của ý (tư duy, cảm xúc, ý chí, …). Ý là
nền tảng của lời (lời là những ý có thể trao đổi, chia sẻ giữa người với
người). Tượng là những gì biểu lộ ra bên ngoài mà người đời nhận biết được. Tu
về số là sự cố gắng tìm hiểu, vận dụng quy luật chính của tượng để giải quyết
các nhu cầu cụ thể mang tính thế tục trong đời sống.
Trong huyền sử của Trung Hoa thì Tam Hoàng, Ngũ Đế, Tam Vương, Ngũ
Bá đều không phải là người tu hành. Nhưng như chúng ta thấy, khái niệm tu tập
của Ngô Thì Nhậm đơn thuần chỉ là sự chuyên tâm vào một mục tiêu, một lĩnh vực
nào đó. Không nhất thiết phải tu Đạo thì mới đem lại kết quả tốt. Tu về ý, lời,
tượng, số đều đem đến những thành quả nhất định. Giữa các vị Đại Bồ Tát, Tam
Hoàng, Ngũ Đế, Tam Vương, Ngũ Bá, do có năng lực khác nhau, hoàn cảnh khác
nhau, nên mục tiêu hướng tới cũng cao thấp khác nhau. Và ngược lại, mục tiêu
khác nhau nên thành tựu và nghiệp quả cũng khác nhau.
Việc phân cấp ra thứ bậc theo quan hệ gốc – ngọn là một bước tư duy
quan trọng, cho phép Ngô Thì Nhậm so sánh sơ đồ tư tưởng giữa Nho và Phật: Khổng Tử lấy Tam Hoàng
làm tổ, Ngũ Đế làm tông, Tam Vương làm con, Ngũ Bá làm cháu, còn Phật Thích Ca
Mâu Ni thì bao trùm ba Đại Bồ Tát.
Các quan hệ tổ – tông –
con – cháu là cách biểu đạt quan hệ gốc – ngọn giữa các khái niệm ý, lời,
tượng, số. Sự phân biệt giữa các cấp độ tu tập giúp định hướng cho người tu
hành, giúp họ một mặt không vì đam mê ngọn mà quên mất gốc, mặt khác tùy vào
năng lực của mình mà lựa chọn lấy con đường phù hợp.
13. Tiếng chốt
Tiếng Phạn rất hàm súc, khi dịch ra tiếng Hán,
đã không nói hết ý nghĩa được. Về sau chia tách rất là phiền phức, mỗi nhóm
tăng đồ, chỉ có một chủ trương, mà chỉ một chữ 禪 (Thiền/Thiện) (1) đều
không giải được. Chỉ có Nghiêu, Thuấn mới Thiền (Thiện) được, Quan Thế Âm Bồ
Tát mới Thiền (Thiện) được. Nghiêu, Thuấn lấy tâm đức mà Thiền (Thiện) cho Bách
Vương. Quan Thế Âm lấy tâm lượng mà Thiền (Thiện) cho chư Phật.
Hai chương Tiếng đẽo và
Nhất thanh thể hiện sự phong phú và chiều sâu của trải nghiệm tu hành. Hành
Thiền không chỉ là ngồi yên một chỗ mà nhập định. Nhập vào thế cuộc cũng là
hành Thiền. Nghiêu, Thuấn với năng lực của mình, đã xây dựng nền tảng xã hội cho
các đời sau. Trong Phật giáo, Quan Thế Âm là bậc tu hành ngang với chư Phật,
nhưng thay vì nhập vào cõi Phật đã lựa chọn ở lại cõi trần để cứu độ chúng
sinh. Con đường tu và hành như vậy là không cố định, mà thay đổi tùy thuộc theo
hoàn cảnh và năng lực của con người. Hành xử đúng với cảm nhận chân thật về thế
giới và phạm vi khả năng của mình, đó cũng là Thiền.
14. Biểu lý thanh (tiếng Ngoài tiếng Trong)
Cái học từ chương của Nho gia, cái học chay cúng
của Thích gia, ấy là “chạy theo dị đoan”… Nhưng từ chương và chay cúng là cái
Thô của Nho và Thích. Nếu không từ cái Thô thì cái Tinh của đạo lý, người ta
không do đâu mà vào được. Đời xưa, người ta bẩm sinh thuần phác, dù là học Nho
hay Phật đều học lý trước, sự sau. Đời sau thì lại sự trước mà lý sau. Từ
chương, chay cúng là thuộc về sự, học giả bỏ lý mà chạy theo sự thì cái hại
khôn xiết kể.
Trong chương này Ngô Thì
Nhậm cảnh tỉnh lối học hỏi chỉ bám víu vào sách vở mà không có những suy nghiệm
theo chiều sâu, cũng như lối tu hành nặng về chay cúng, thờ phụng, mà nhẹ về
rèn luyện, tu dưỡng. Nhưng mặt khác, ông cũng khẳng định sự cần thiết của những
hình thức bề ngoài (sách vở, chay cúng). Chúng có thể là công cụ hữu ích cho sự
khởi đầu. Không có một con đường tu duy nhất. Mỗi con người tùy vào hoàn cảnh,
năng lực riêng mà tự lựa chọn cho mình một con đường phù hợp.
15. Tiếng hành
Phật lấy việc Trì Quốc làm quý, chứ không quý
việc Trị Quốc. Đại để, nếu biết Trì Quốc thì không cần Trị Quốc mà tự nhiên
Quốc Trị. Nhưng nếu không phải là bậc đại lực như Phật Thích Ca Mâu Ni thì
không Trì Quốc nổi mà cần phải Trị Quốc. Vì vậy cho nên Khổng Tử lấy Nghiêu,
Thuấn, Thang, Văn, Vũ(2) làm đứng đầu sự nghiệp muôn đời. Nhưng [bàn] đến chỗ
cốt yếu [của Nho học] thì [Khổng Tử] lại nói: “Bốn mùa nối nhau, vạn vật sinh
trưởng, trời có nói gì đâu”(3).
Khái niệm Quốc có thể hiểu thành một cá nhân, một gia đình, một xã
hội, và thậm chí rộng hơn nữa. Thế giới quan coi mọi sự vật đều liên kết, ràng
buộc lẫn nhau (chương Tiếng ầm) khiến người tu hành không thể chỉ lưu tâm tới
một cá thể riêng lẻ, mà phải xem xét nó một cách tổng quan nhất có thể được.
Một cá nhân không thể sống tốt một cách chung chung. Nó phải sống tốt trong mối
quan hệ với gia đình, với xã hội, với môi trường xung quanh. Hiểu như vậy thì
thấy rằng tu thân cũng chính là Trị Quốc.
Trì Quốc khác với Trị Quốc ở chỗ được tăng thêm chiều thời gian.
Trì Quốc nghĩa là sống tốt không chỉ trong một thời điểm, một giai đoạn, mà
phải làm sao hài hòa với các thời điểm khác, giai đoạn khác. Ở đây Ngô Thì Nhậm
chỉ ra điểm khác biệt trong cách tu thân giữa Phật và Nho. Phật giáo luôn quan
tâm tới nghiệp quả, còn Nho giáo thì hướng dẫn người ta sống đúng theo Lễ trong
từng thời điểm.
Tuy nhiên, dù có bị giới
hạn thì Lễ trong Nho giáo dù sao vẫn là sự cố gắng mô phỏng các quy luật trong
tự nhiên, nhằm hướng tới sự hài hòa trong quan hệ giữa con người với con người,
con người với xã hội (bốn mùa nối nhau, vạn vật sinh trưởng).
16. Tiếng trong suốt
Chu Dịch có sáu mươi bốn quẻ mà chỉ quẻ Khốn
được chữ Trí Mệnh. Lăng Già có tám thức mà chỉ có Ý thức được chữ Niết Bàn (4).
Nho không cho phép người ta được coi nhẹ cái chết. Thích cũng không cho phép
người ta được coi nhẹ cái chết… Ý thức như bể nổi gió, nổi lên vô số đợt sóng…
Vì vậy cho nên nhà Nho lấy Nghĩa tinh Nhân thục làm quý, nhà Thích lấy “trí
minh ý cao” làm quý. Nếu nhân nghĩa không tinh thục, trí ý không cao minh,
không qua được cửa ải sinh tử, thì làm sao chế định được cái mệnh sinh tử của
con người?
Nội dung chương này khuyến dụ người tu hành không rơi vào trạng
thái hư vô, cấu thành bởi hai yếu tố. Thứ nhất, con người tiếp nhận thế giới
quan của tính Không và nhận ra rằng mọi nhận thức về sự vật đều tiềm ẩn sự chủ
quan. Thứ hai, tính Không tác động vào các nhu cầu tâm lý thông thường, gây nảy
sinh ra những cảm xúc tạp niệm. Đó có thể là sự hoang mang do nhận thức bị mất
phương hướng, mất điểm tựa. Hoặc ở chiều ngược lại là sự tùy tiện, phóng dật,
do nhận thức không còn chịu một ràng buộc nào.
Những cảm nhận mang tính hư vô nói trên đều thuộc về Ý thức. Theo
quan niệm Phật giáo thì khi con người qua đời, Ý thức vẫn còn lại. Nếu trong
đời sống, người ta không rèn luyện để Ý thức minh mẫn, tỉnh táo, thì sẽ tiếp
tục xiêu dạt trong vòng cuốn bể khổ (Ý thức như bể nổi gió, nổi lên vô số đợt
sóng…).
Chương Tiếng trong suốt,
là điểm dừng thứ hai trong tiến trình tu tâm. Tại điểm dừng thứ nhất (chương
Thu thanh), thế giới quan của người tu hành không chỉ còn đối chiếu sâu trong
nội tại mà bắt đầu có xu thế hòa nhập vào đời sống. Tinh thần này tiếp tục phát
triển song hành với sự liên tục đối chiếu, lắng lọc nội tâm bên trong (Định
thanh, Tịch nhiên vô thanh). Qua đó, thế giới quan được mở ra cả ở chiều rộng
(Tiếng đẽo) lẫn chiều sâu (Tiếng nhất, Tiếng chốt). Tuy nhiên, khi mà nhận thức
về thế giới mở ra tới tận cùng (Tiếng hành) thì có thể vẫn còn một vướng bận
cuối cùng, là trạng thái hư vô (hoang mang hoặc phóng dật). Giải thoát được
khỏi vướng bận này thì tâm đạt tới độ trong suốt.
(*) Mời bạn đọc xem tiếp kỳ
cuối
______________________________
1: Chữ 禪 trong tiếng Hán vừa có
nghĩa là Thiền, vừa có nghĩa là Thiện.
2: Những vua hiền trong lịch sử Trung Hoa cổ đại
3: Luận Ngữ, thiên Dương Hóa
4: Lăng Già là tên một bộ kinh. Tám thức gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a-lai-da thức.
(còn nữa)
ĐẠI CHÂN VIÊN GIÁC THANH LƯỢC GIẢI
Kỳ cuối: Ngô Thì Nhậm và hành trình tới tự do
Phạm Trần Lê
Người
ta thường vẫn nói sự giác ngộ là mục đích của việc tu hành. Nhưng như thế nào
là giác ngộ? Không ít người đã thất bại khi mới bắt đầu tìm hiểu đã cố gắng hình
thành ngay một câu trả lời chóng vánh. Ngược lại, có những người chìm đắm trong
sự tu tập lâu năm nhưng không thể chuyển hoá các trải nghiệm thành một mạch cảm
nhận mạch lạc.
Qua Đại Chân Viên Giác
Thanh, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện một hành trình tu tập hàm súc và thông suốt.
Phần đầu chú trọng vào việc lắng lọc nội tâm, loại bỏ tạp niệm. Phần thứ hai
nhấn mạnh tinh thần nhập thế, thông qua nhập thế để gia tăng cả về chiều sâu
lẫn bề rộng của việc lắng lọc nội tâm. Nhập thế ra sao, ở mức độ nào, là tuỳ duyên,
tùy năng lực của người tu hành.
Phần cuối của Đại Chân
Viên Giác Thanh là chu kỳ tu tập thứ ba. Người tu hành với năng lực tích luỹ từ
phần một và hai, bắt đầu tự nhìn lại mối tương quan giữa mình và thế giới, để
tìm cho mình một con đường đi thật sự tự do trong tư tưởng.
17. Tiếng Sáng
Y phục là hình thức, không phải là ý trời ở đó…
Hàn Thác Trụ, Giả Tự Đạo(1) cũng từng đội mũ Nho, mặc áo Nho, mà thiên hạ có
gọi là chân Nho đâu? Ý của trời là ở chỗ biết tế độ chúng sinh… Người Bắc
Địch mặc áo lông, người Đông Di mặc cái bố quàng lưng ngựa, người Nam Man mặc
áo cỏ, không giống với Trung Quốc, tựu trung há không có hào kiệt thánh hiền?
Đệ tử nhà Phật mặc áo cà sa, đại để là theo cái tục của người ta, chứ không
phải là [ý của Phật] là ở chỗ đó.
Đại ý chương này khuyến
dụ rằng vỏ bọc bên ngoài của sự vật không phải là cái đích của việc tu hành,
cũng không thể hiện năng lực của người tu hành. Đích của tu hành là giác ngộ.
Năng lực của giác ngộ thể hiện qua nhận thức và cảm nhận về bản thân và thế
giới. Nhận thức sâu sắc và bao quát thì trong cảm xúc sẽ có sự yên tâm về bản
thân, và thêm sự trân trọng đối với thế giới. Từ đó biết hướng tới việc đóng
góp, cống hiến cho sự sinh trưởng tự nhiên của vạn vật. Đóng góp mà không tính
công lên. Câu “ý của trời là ở chỗ biết tế độ chúng sinh” là nhắc lại lời nói
của Khổng Tử: “bốn mùa nối nhau, vạn vật sinh trưởng, trời có nói gì đâu”. Tinh
thần tiến bộ đó không liên quan tới vẻ bề ngoài của con người. Cho nên dù tôn
giáo khác nhau, sắc tộc khác nhau, thì nơi nào cũng có hào kiệt và thánh hiền,
những người được tôn vinh không chỉ vì năng lực mà cả sự đóng góp, cống hiến to
lớn cho cộng đồng.
18. Tiếng Quyết đoán
Tần Thuỷ Hoàng ghét Nho, Đường Vũ Tông ghét Phật.
Thường thì có điều gì đáng ghét, người ta mới ghét. Bậc Đại Nho, Đại Phật, ai
mà ghét được?
Chương Tiếng Sáng đã hướng người tu hành thay vì nhìn ra ngoài, hãy
nhìn vào bên trong bản chất. Tiếng Quyết đoán thể hiện cái nhìn hướng nội triệt
để hơn nữa. Giống như Lục Tổ Huệ Năng(2) từng nói “chớ nên xét lỗi người, chỉ
nên tự xét lỗi mình”. Điều này có vẻ như bất công, nhưng thật ra rất khách quan
đối với việc tu hành. Đa số những người tu tập thích đề cao đức tin của mình,
vô tình hay hữu ý tạo ra ranh giới khác biệt trong tâm tưởng giữa mình và người
khác, giữa mình và thế giới. Điều đó rất có thể là để thoả mãn nhu cầu tâm lý
cá nhân, một thứ tạp niệm ngăn cản cảm trải nghiệm tu hành đạt mức độ chân thật
hơn, sâu sắc hơn.
Kẻ nào biết Phật thì không mộ Phật, kẻ nào mộ
Phật thì không biết Phật. Phật không muốn được chúng sinh kính mộ. Chúng sinh
mong cầu thành Phật mới kính mộ Phật. Hàn Dũ nói rằng: “Bắt buộc tăng nhân trở
lại làm dân, gieo sách Phật vào đống lửa, biến chùa chiền thành nhà tranh” (3).
Không kính mộ Phật là giải thoát Kiến Trọc, được vào Vô Dư Niết Bàn.
Lòng kính mộ Phật có nhiều sắc thái khác nhau. Nhưng một sắc thái
phổ biến là giúp thoả mãn tâm lý cá nhân. Thông qua lòng kính mộ, người ta tìm
thấy được điểm tựa tinh thần. Mất điểm tựa tinh thần đó thì tâm sẽ bất an. Như
vậy vẫn là chấp trước (Kiến Trọc), chưa thể coi là đã giác ngộ.
Vượt qua được trạng thái
chấp trước là khi tâm đã tu tập tới mức độ cao hơn. Trạng thái an định trở nên
vô điều kiện. Vì vô điều kiện nên gọi là Vô Dư Niết Bàn.
19. Tiếng quy túc
Đạo Phật [có cái lệ] cất giấu xá lợi. Đạo Nho
nói: “Tinh khí cấu tạo ra vật”… Khi chết thì làm lăng, tháp, chùa, miếu, cũng
là để nhóm họp tinh thần. Sống thì giữ rất trang trọng, chết thì giữ rất nghiêm
túc. Tinh thần cất giấu ở trong thân thể, thân thể là đồng một chất với trời
đất, chẳng dám không giữ gìn nó”.
Đối nghịch với tinh thần
vị kỷ coi mình là trung tâm thế giới, là sự tuỳ tiện phóng túng. Cả hai đều là
tạp niệm ngăn cản tâm tinh tiến. Lục Tổ Huệ Năng nói: “một niệm thức thành
Phật, một niệm mê lại thành chúng sinh”. Phật tính trong chúng sinh ai cũng có
(Chương Tiếng Thấy), nhưng nếu không trân trọng thì cứ mãi chìm đắm, không hiển
lộ ra được.
20. Bất quả thanh (thanh không thành)
Ý Trời không lấy làm chắc, ý người mới làm chắc!
Cái Ý có thể sinh cái Kiến (thấy)… Vận hành mười phương thì cái Đại Phác(4)
mới làm nổi. [Nhưng] trong văn tự quăn queo, trong tiếng nói líu lường có cái
Đại Phác của trời ở đó, chúng ta không thể xao nhãng. Kệ Hoa Nghiêm nói rằng:
nhờ trang nghiêm mà con mắt rất trong sáng. Con mắt của cha mẹ sinh ra, thấy
hết ba nghìn thế giới. Các chúng sinh trong đó hiện ra hết thảy. Tuy chưa phải
thiên nhãn, khả năng nhục nhãn (mắt thịt) đã được như thế.
Câu ý trời không lấy làm
chắc, ý người mới làm chắc bao hàm hai ý rất tiến bộ của Phật giáo. Thứ nhất,
quyền năng của con người là rất lớn. Nếu biết tự trân trọng và vượt qua các
định kiến do bản năng tâm lý chi phối thì khả năng cảm nhận của con người là vô
cùng (cái Ý có thể sinh cái Kiến). Thứ hai, không có giới hạn nào áp đặt lên số
phận con người tới mức trở thành định mệnh bất khả kháng. Ý chí con người, năng
lực của con người, kết hợp với hoàn cảnh mới tạo thành số mệnh.
21. Tiếng ẩn giấu
Trời đất khéo dùng âm. Thần, Phật, Thánh hiền
khéo dùng âm. Cảnh trăm hoa nở cánh khi tảng sáng, vẻ muôn cây nứt màng lúc
chiều hôm, đó là trời đất khéo dùng âm. Giác ngộ ở truyền đạo, biết đạo mà ở
trong bóng tối, đó là Thần, Phật, Thánh hiền khéo dùng âm vậy… cái Chí Minh
(rất sáng) ẩn trong cái Chí U (rất tối), cái Chí Hiển (lộ rất rõ) tồn tại trong
cái Chí Ẩn (rất kín đáo)… Người nào không khéo dùng âm thì cuối cùng bị đóng
khung trong âm, như lửa thì sáng ngoài mà tối trong. Người nào khéo dùng âm,
thì âm trở lại sinh dương, như nước thì tối ngoài mà sáng trong. Người quân tử
học đạo, quý ở âm đức…”
Tự xét mình rồi lại tiếp tục đối chiếu với tương quan trong thế
giới. Xây dựng góc nhìn không cục bộ để nhận ra nghiệp quả mà mình đang tạo
thành, và tiếp tục nhìn rộng ra xa hơn nữa. Tuy là năng lực của con người là vô
cùng nhưng sẽ chỉ phát huy được khi vận dụng hiệu quả các quy luật tự nhiên. Và
thay vì cố gắng phát huy năng lực cá nhân theo một thế giới quan cục bộ, sẽ hợp
với tự nhiên hơn nếu người ta tìm cách tác động vào thế giới theo cách sao cho
tất cả cùng đồng thời phát huy được hết vai trò, khả năng vốn có.
Hàm ý thứ hai của chương
này là sự chú trọng vào việc tu dưỡng tinh thần. Hành động để cống hiến cho đời
sống là cần thiết, nhưng nếu không tu dưỡng tinh thần trong khi hành động, thì
tâm thức dễ bị cuốn theo sự vụ.
Như vậy thì chỉ tạo ra vẻ
bên ngoài chứ không có thực chất bên trong (Người nào không khéo dùng âm
thì cuối cùng bị đóng khung trong âm, như lửa thì sáng ngoài mà tối
trong).
22. Tiếng vang
Nước Nam rất nhiều bậc cao tăng, cũng rất nhiều
bậc danh Nho. Nhưng các cao tăng thường thích làm những việc quái dị, bí hiểm,
như bọn Không Lộ, Đại Điên, Đạo Hạnh, Vạn Hạnh, pháp thuật rất cao, nay còn
truyền lại những việc như vết sét ở cây gạo, in dấu chân ở đỉnh Sài Sơn, đều là
các sư tự làm ra. Cũng giống như việc tượng đá Liễu Thăng dựng ngược ở Quỷ Môn
Quan, là do tiền triều vì muốn dựng tượng [để tự tán dương] võ nghiệp mà làm
ra. Vạc Phổ Minh, tháp Báo Thiên, tượng phật Quỳnh Lâm, chuông Phả Lại(5) đều
như thế cả. Những việc như thế, bậc chân tu không làm… Tu pháp thì không bằng
tu đạo, tu thân thì không bằng tu tâm, nhà Nho gọi là “tàng tu”.
Chương này làm rõ hơn nội
dung của chương Tiếng Sáng và Tiếng Ẩn giấu. Thành tựu của người tu hành không
thể hiện ở việc khoác áo cà sa. Thành tựu của Phật giáo không phải ở việc xây
dựng chùa chiền, nuôi sư sãi, hay biểu lộ oai lực siêu việt. Bởi vậy nên, khi
vua Lương Võ Đế hỏi Bồ Đề Đạt Ma(6) rằng việc dựng chùa, in kinh, nuôi tăng của
mình có công đức gì chăng, Đạt Ma Tổ Sư đáp “đều không có công đức gì!”
23. Tiếng lưu động
Có sa di(7) hỏi Đại Thiền sư về luân hồi. Sư đáp:
– Một năm có cái luân hồi của một năm, một tháng
có cái luân hồi của một tháng, một ngày có cái luân hồi của một ngày. Vì Luân
(bánh xe) cho nên Hồi (xoay vòng)… Tròn là cái thể của trời, nhật nguyệt, ngũ
tinh đều tròn, cho nên chu lưu, vận hành được… Người hữu đạo thì có luân hồi,
người vô đạo thì không luân hồi.
Sa di gục đầu mà ngủ. Đại Thiền sư lại nói:
– Nhà Nho có chữ Biến Thông, Hội Thông, Cảm
Thông, Hội Thông, nhà Phật có chữ Thần Thông, cùng một nghĩa như nhau.
Đồ đệ bạch với Sư rằng:
– Phật nói thần thông biến hoá là làm sao
Sư đáp:
– Bốn mùa không thay đổi thì công dụng của năm
không thể thành được, vạn vật không biến hoá thì phẩm loại không sinh được.
Người biết đạo thì thông, người không biết đạo thì không thông.
Thế giới quan của cả Phật
giáo và Nho giáo đều cho rằng có những quy luật lớn chi phối sự vận hành của
vạn vật trong vũ trụ, từ những sự vật lớn nhất tới nhỏ nhất. Góc nhìn càng cục
bộ thì con người càng dễ vướng bận, mong cầu những hoàn cảnh cố định theo mong
muốn chủ quan của mình. Ngược lại càng nắm bắt được sự vật khách quan thì con
người càng tự do. Tự do không theo nghĩa vượt ra bên ngoài các giới hạn ràng
buộc, mà là tự do thích nghi theo các biến đổi tự nhiên. Câu người biết đạo thì
thông, người không biết đạo thì không thông làm rõ nghĩa cho câu người hữu đạo
thì có luân hồi, người vô đạo thì không luân hồi.
24. Dư thanh (tiếng còn lại)
Sa di tỉnh dần lại, hướng về Hải Lượng Đại Thiền sư mà bạch rằng:
– Phật nói nhân quả, Nho nói quả lớn, ấy là làm
sao/
Sư đáp rằng:
– Đây là chữ Quả trong Quả nhiên, như chữ Tất của
nhà Nho trong Tất nhiên. Nhà Nho nói: “nhà nào tích thiện, tất có thừa phúc;
nhà nào tích bất thiện, tất có thừa tai ương”(8)…
Phúc không nên hưởng hết, công không nên kể hết, quả không nên ăn
hết. Phật Thích Ca Mâu Ni khi du hành trong cõi thanh sạch trên trời, bụng đói
có thiện nữ dâng quả, còn khi vào trong thành xin ăn, có đứa trẻ con cho một
cục đất. Nhà Nho nói: không ăn quả to. Ngươi nói ăn là tốt, hay không ăn là
tốt?
Sa di từ sớm đến trưa đã nghe lời nói của Thầy, ù tai mà đi.
Có nguyên nhân thì có kết quả. Kết quả đó chưa dứt thì còn lại phần
dư kéo sang giai đoạn tiếp theo. Đấy là quy luật khách quan.
Có tích rằng một người hỏi đức Phật liệu có nên “uống rượu ăn
thịt”. Đức Phật trả lời “uống rượu ăn thịt là cái lộc của ngài, không uống rượu
ăn thịt là cái phúc của ngài”.
Nhu cầu hưởng thụ là điều tự nhiên, người ta ai cũng có. Người tu
hành cũng có nhu cầu hưởng thụ, nhưng hưởng hay không, hưởng đến mức độ nào, là
tùy duyên. Không để chúng chi phối tâm trí làm mất tự do.
Lời kết
Bằng kiến thức Nho học uyên thâm, Ngô Thì Nhậm đã mang đến cho
không ít những người nghiên cứu và thực hành Phật giáo một góc nhìn độc đáo mới
mẻ. Ngược lại, những đối chiếu, so sánh từ tinh thần của Phật giáo giúp cho
người nghiên cứu Nho học những trải nghiệm quý giá, bao gồm cả trong nhận thức
và cảm xúc. Điều đó quan trọng, bởi vì các khái niệm và phẩm chất chủ chốt
trong Nho học như Nhân, Lễ, Nghĩa, … không chỉ là các phạm trù thông tin khô
cứng, chúng bao hàm cả sắc thái cảm xúc.
Sắc thái cảm xúc không tự nó khởi phát một cách vu vơ, mà vốn luôn
dựa trên độ rộng và chiều sâu khi con người nhìn vào thế giới và nhìn vào nội
tâm. Thế giới quan càng rộng, càng sâu, thì các phẩm chất trong Nho học càng
hiển lộ được đầy đủ các tính chất phong phú, tinh tế của chúng. Vì vậy, việc
đơn giản hoá, cô lập hoá một số khái niệm trong Nho học, điển hình là khái niệm
Nhân, như Mạnh Tử đã làm khiến cho Nho học và sự hiểu Nho học sau này không
tiến bộ hơn, thậm chí còn rời xa khỏi với gốc rễ chất phác nhưng hàm súc mà
Khổng Tử đã xây dựng ban đầu (vấn đề này hẳn sẽ cần một bài nghiên cứu riêng).
Thông qua sự đối chiếu với thế giới quan Phật giáo, Ngô Thì Nhậm đã cố gắng
giúp bảo tồn cho Nho học không gian văn hoá nguyên thuỷ, tuy nguyên sơ nhưng
rất hàm súc và phong phú. Đây là đóng góp đáng được ghi nhận.
Cảm xúc cũng là trạng thái tâm lý của con người. Bằng việc trình
bày tư tưởng dựa trên một tiến trình trải nghiệm tâm lý, Đại Chân Viên Giác
Thanh của Ngô Thì Nhậm đã có một sự đối thoại quan trọng với tiến trình phát
triển của triết học phương Tây. Con đường triết học phương Tây một thời đã vô
tình loại bỏ hoặc xem nhẹ vai trò của cảm xúc chủ quan. Tiến trình đó đã xơ
cứng hoá nhận thức về bản chất con người, cụ thể là về sự vận hành tinh tế,
phức tạp của nội tâm. Phải tới Nietzsche người ta mới được thấy triết học có
thể bị chi phối sâu sắc, trở nên biến hoá với mức độ phức tạp và sâu thẳm như
thế nào do tác động mạnh từ các trạng thái tâm lý. Tuy nhiên, đáng tiếc là cho
đến nay, việc kết hợp tâm lý học và triết học để tạo ra cái nhìn căn bản hơn,
đầy đủ hơn về nội tâm con người, vẫn chưa có một bước đi kế thừa xứng đáng.
Trong bối cảnh đó, Đại Chân Viên Giác Thanh có thể sẽ là một nguồn tư liệu tham
khảo hữu ích cho những ai muốn khám phá một biên giới tri thức mới.
Bản thân Phật giáo là một nguồn tư liệu vô cùng phong phú giúp ích
cho việc nghiên cứu nội tâm. Nhưng sự phức tạp của hệ tư tưởng này khiến việc
hệ thống hoá lại cho đơn giản hơn, thành các phần tương phản để soi chiếu lẫn
nhau, kế thừa lẫn nhau như Ngô Thì Nhậm đã làm với Đại Chân Viên Giác Thanh, là
điều rất cần thiết. Tác phẩm của ông thể hiện trải nghiệm dày dạn và chân thật
các bước trong quá trình tu tập. Nếu được soi chiếu qua lăng kính tâm lý học hiện
đại, nó sẽ trở nên hữu ích cho công việc nghiên cứu của các nhà triết học, tâm
lý học, nhà nghiên cứu tôn giáo, và cho chính những người tu hành.
Đối với những nhà văn hoá
Ngô Thì Nhậm, Đại Chân Viên Giác Thanh là tác phẩm không thể bỏ qua. Nó giúp
chúng ta cảm nhận rõ hơn về con người đặc biệt này. Qua đó tiếp tục soi ánh
sáng vào những tác phẩm khác của ông, cụ thể là phần thơ ca và các bài nghị
luận về thời cuộc. “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thời phải
thế!” Câu đối cuối cùng trước khi giã từ cuộc đời là một ví dụ biểu đạt sinh
động cho sự thống nhất giữa chí khí và thế giới quan của Ngô Thì Nhậm. Khi gặp
nguy khốn vì sự đố kị và thù hận của đồng loại, ông vẫn ung dung sống trong tự
do (9).
Hết
Phạm Trần Lê (Nguồn: TS)
__________________________
Chú
thích:
1: Giả Tự Đạo là quan tả
thừa tướng của nhà Tống, đã cắt đất cầu hoà với nhà Nguyên.
2: Bài Nguyên đạo của Hàn Dũ
3: Lục Tổ Huệ Năng là Tổ Thiền tông thứ sáu ở Trung Hoa. Các câu nói của Huệ
Năng đều trích trong Pháp Bảo Đàn Kinh.
4: Đại phác: ý nói các quy luật biến hoá lớn của tự nhiên.
5: Bốn vật báu lớn của nước Nam
6: Bồ Đề Đạt Ma là người Ấn Độ, có công truyền bá Thiền tông vào Trung Hoa, trở
thành Tổ Thiền tông thứ nhất ở đây.
7: sa di là người mới xuất gia đi tu.
8: Kinh dịch, quẻ Khôn: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện
chi gia tất hữu dư ương” (Cao Xuân Huy chú giải)
9: Tương truyền lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì người quen
cũ là Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất
phong độ của kẻ sĩ, Nhậm từ chối. Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi vào Nam
theo Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi nhà Tây Sơn mất, một số quan dưới triều Tây Sơn
bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu. Chủ trì cuộc phạt
đánh đòn đó là Đặng Trần Thường. Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh
ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm: Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai
dễ biết ai
Ngô Thì Nhậm khảng khái đáp lại: Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế,
thế thời phải thế. Đặng Trần Thường ép phải sửa lại thành “thế đành theo thế”,
nhưng Ngô Thì Nhậm không chịu. Ông mất sau trận đòn mà Thường đã cho tẩm thuốc
độc vào roi.
Discussion about this post