THỜI GIAN CÓ HAY KHÔNG?
Nguyễn Thế Đăng
1. Quan niệm thời gian trong vật lý hiện
đại
Chúng ta tóm tắt
những điểm chính của bài viết Is time an
illusion? của Giáo sư Triết học Craig Callender Đại học
trên tạp chí Tia Sáng số 14/7/2010.
“Thời gian chỉ là một phương thức thuận tiện để đo đạc các quá trình trong vũ
trụ. Thời gian không tồn tại độc lập. Chúng ta chỉ cảm nhận được thời gian vì
chúng ta là một hệ con bị ràng buộc với các hệ con khác trong vũ trụ bởi nhiều
mối liên quan. Thời gian được ví như tiền tệ vốn chỉ là một phương tiện giao
dịch, thuận tiện hơn phương thức trao đổi trực tiếp bằng hiện vật”.
“Thời gian cổ
điển là thời gian
Về thực chất,
giá trị quy chiếu cho toàn vũ trụ. Mũi tên thời gian (arrow of the time) kết
dính với đồng hồ chủ. Sau đó quan niệm thời gian này bị tấn công vào cuối thế
kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ludwig Boltzman nói: Nếu các định luật
thì sẽ không có mũi tên thời gian luôn hướng về tương lai”.
“Một mục đích
tối cao của vật lý là thống nhất lý thuyết tương đối rộng với lý thuyết lượng
tử để tạo nên một lý thuyết duy nhất: lý
thuyết lượng tử của hấp dẫn… Các nhà lý thuyết mong muốn loại bỏ thời gian
khi xây dựng một lý thuyết thống nhất nhưng lại bối rối bởi vì trong khi có thể
loại bỏ thời gian trong thuyết tương đối rộng thì trong lý thuyết lượng tử thời
gian lại có vai trò quan trọng: đó chính là nguồn gốc khó khăn trong quá trình
hình thành một lý thuyết thống nhất”.
“Vào những năm
1950, 1960 khi John Wheeler và Bryce DeWitt tìm cách viết những phương trình Einstein
dưới dạng giống như những phương trình của Điện động lực học lượng tử thì họ đã
đi đến một kết quả hết sức bất ngờ: phương
trình bây giờ được gọi là phương trình Wheeler-DeWitt hoàn toàn không chứa thời
gian. Ký hiệu t biểu diễn thời gian đã bị loại mất. Nếu nói một cách tường
minh hơn thì thời gian không tồn tại. Carlo Rovelli (Đại học Marseille, Pháp)
cùng với nhà vật lý người Anh Julian Barbour đã tìm cách viết lại lý thuyết
lượng tử trong một khuôn khổ không chứa thời gian như lý thuyết tương đối đòi
hỏi, ý tưởng chính của hai tác giả là: nếu không tồn tại một thời gian tổng thể
(global time) thì chúng ta cần nối liền một hệ thống vật lý này với một hệ
thống vật lý khác. Thay vì theo dõi tóc trên đầu bạn đã bạc đi như thế nào theo
thời gian thì bạn có thể nối liền quá trình bạc tóc của bạn với quỹ đạo của vệ
tinh. Thời gian trở nên thừa. Mọi sự thay đổi có thể mô tả không cần thời gian.
Tương tự như tiền tệ thuận tiện hơn là trao đổi hiện vật khi phải thanh toán
một ly cà phê: thời gian thuận tiện trong việc nối liền một hệ thống vật lý với
một hệ thống vật lý khác. Và thời gian quả là một ảo giác thuận tiện hơn bất cứ
điều gì trong vũ trụ, giống như đồng tiền trong cuộc sống thường nhật”.
“Toàn vũ trụ có
thể không có thời gian; song, hãy tưởng tượng vũ trụ bị phân chia thành nhiều
hệ con thì một số hệ con lại đóng vai trò ‘đồng hồ’ cho các hệ con khác. Chúng
ta cảm nhận thời gian chỉ vì theo bản chất, chúng ta là một hệ con. Nhà triết
học Pháp Merleau Ponty nói rằng bản thân thời gian thực tế không chảy và sở dĩ
ta cảm nhận dòng chảy của thời gian vì ‘ta đã lén đặt vào dòng sông một chứng
nhân của dòng chảy’.
Bài viết kết
luận: “Vậy thời gian là không tồn tại độc lập. Ta cảm nhận dòng chảy của thời
gian chỉ vì ta là một hệ con có nhiều mối quan hệ với các hệ con khác trong vũ
trụ”.
2. Quan niệm thời gian trong Phật giáo
Những gì các
luận sư Phật giáo nói về thời gian khi y cứ vào kinh điển thì không khác với
kết luận trên. Chẳng hạn, một nhà Trung đạo (Madhyamaka) thì nói: “Thời gian
không tồn tại độc lập vì do nhiều duyên mà sanh khởi. Thời gian là chân lý quy
ước cho một hữu thể sống tách biệt theo cái ngã của mình khi y tự quy chiếu với
những sự vật khác trong vũ trụ. Trong chân lý tuyệt đối, thời gian không có tự
tánh, nên hoàn toàn không có”. Một nhà Duy thức sẽ nói: “Thời gian chỉ là một
ảo tưởng của tâm thức, do tâm thức biến hiện”.
Sự giải thoát
của Phật giáo là giải thoát khỏi sanh lão bệnh tử, nghĩa là giải thoát khỏi
thời gian. Có thể giải thoát khỏi thời gian được, chính vì thời gian thì vô tự
tánh, giả hợp theo duyên và do đó giả danh. Có thể giải thoát khỏi thời gian vì
thời gian chỉ là một cái thấy hư vọng, một ảo tưởng do tâm thức dệt tạo nên.
Tuy cùng đạt đến
một kết luận căn bản là không có thời gian, nhưng Phật giáo khác với khoa học và
triết học là ở chỗ: thay vì chỉ đạt đến điều đó bằng một công thức toán học vật
lý hay một tư duy triết học (nghĩa là chỉ giới hạn trong tư tưởng hay ý thức)
thì Phật giáo, bằng thiền định và thiền quán, đi đến tận cùng chiều sâu của
thân tâm mình và bằng cách loại bỏ ảo tưởng “có thời gian”, nhổ hết gốc rễ vô
minh và do đó chuyển hóa toàn bộ thân tâm mình. Cái biết của Phật giáo không
còn là hiểu biết thông thường mà là sự tự chứng ngộ, tự thực hiện. Không có thời gian không chỉ là một ý
tưởng đẹp khi có khi không trong cuộc sống, mà là một chứng nghiệm, một thân
chứng vĩnh viễn một khi đã loại bỏ vô minh cho rằng thời gian là có thật. Với
người Phật giáo, không có thời gian
không chỉ là một ý tưởng, mà đó là toàn bộ đời sống, toàn bộ thực tại.
Sau đây chúng ta
đi xa hơn trong việc tìm hiểu thời gian. Theo hệ thống Hoa Nghiêm, có bốn cấp
độ đời sống, bốn cấp độ thế giới, nghĩa là bốn cấp độ thời gian:
1/ Thế giới của Sự. Đây là thế giới sự
vật của giác quan và của ý thức phân biệt. Các sự vật biệt lập với nhau, do đó
có thời gian quy ước, giả danh. Ở đây có thời gian, nhưng nói theo Callender
trong bài viết trên, thời gian chỉ là một thứ tiền tệ quy ước thuận tiện cho sự
tính toán trao đổi trong tương quan vật chất. Cái vô minh của chúng ta là không
hiểu thời gian chỉ là một loại tiền tệ quy ước để sống trong cuộc sống vật lý,
mà cho rằng nó thật một cách tuyệt đối. Nó chỉ là chân lý quy ước, tương đối
(tục đế), chứ không phải chân lý tối hậu, tuyệt đối (chân đế). Khi xem thời
gian quy ước tương đối này là tuyệt đối, chúng ta làm nô lệ cho nó. Do đó mà có
phiền não, khổ đau, có sanh tử.
2/ Thế giới của Lý. Đây là “thế giới”, là
“đời sống” không có thời gian. Mà đã không có thời gian chia cắt thì cũng không
có không gian tách biệt nhau. Lĩnh vực này là đối tượng của việc siêu vượt khỏi
ý thức phân biệt, đạt đến trí vô phân biệt. Và vì không có phân biệt, “không là
một hệ thống con trong nhiều mối quan hệ với các hệ thống con khác trong vũ trụ”
nên “không có dòng chảy của thời gian”.
Mọi tông phái
Phật giáo đều nhắm vào cái “nguyên lý không có thời gian” này, bằng giới định huệ,
để thực sự đạt đến cái không có thời gian, nghĩa là không có sanh tử. Trong các
kinh Bát Nhã đều nói trí huệ thấu
suốt tánh Không (cái không có thời gian) là chung cho cả ba thừa, Thanh Văn
thừa, Bồ-tát thừa và Phật thừa. Chẳng hạn, kinh
Kim Cương nói phải chứng đắc cái không có thời gian: “Tâm quá khứ bất khả
đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc”.
Ở đây, tuy cùng
một kết luận với khoa học và triết học rằng thời gian không có thực, nhưng Phật
giáo thì đem thân tâm với tất cả bề sâu bề rộng của nó để thể nghiệm điều đó,
do đó mà không chỉ là hiểu biết, nhưng là chứng ngộ, giác ngộ. Cái biết trọn
vẹn trong tận cùng thân tâm làm thân tâm hoàn toàn thay đổi, chuyển hóa. Từ nay
người thực hành sống trong một chiều kích mới, chiều kích đích thực của đời
sống: chiều kích không có thời gian không có không gian. Đó là giải thoát.
3/ Thế giới Lý Sự vô ngại. Bồ-tát vừa là
người tự giải thoát cho mình bằng trí huệ thấu suốt tánh Không, vừa giúp đỡ
người khác đi trên con đường giải thoát. Người ấy sống một lúc cả hai chiều
kích: chiều kích không có thời gian (Lý) và chiều kích có thời gian (Sự) như
chúng sanh vẫn sống trong ba cõi. Bồ-tát sống cả hai chiều kích Lý và Sự như
vậy, nên gọi là cấp độ Lý Sự vô ngại.
Trong các kinh
Đại thừa có nói Bồ-tát sống không có thời gian nhưng không hủy hoại tướng thời
gian của chúng sanh; sống cái vô tướng nhưng không ngăn ngại phá hủy cái có
tướng của chúng sanh. Hẹn ai giờ nào là đúng giờ ấy tới, chứ không lấy cớ là
tôi sống không có thời gian, tôi sống trong vĩnh cửu, rồi muốn tới giờ nào cũng
được. Nói cách khác, Bồ-tát sống chân lý tuyệt đối và tối hậu nhưng vẫn “tùy
thuận” với chân lý tương đối và quy ước. Như thế là Bồ-tát đầy đủ cả Trí Huệ và
Đại Bi.
Chúng ta thấy
bậc Thanh văn chỉ nhắm đến chân lý tuyệt đối và tối hậu không có thời gian và
khi đạt được chân lý tuyệt đối ấy thì chứng nhập chân lý tuyệt đối nên hoàn
toàn giải thoát khỏi ba cõi. Còn vị Bồ-tát thì dầu nhắm đến và đạt đến chân lý
tuyệt đối không có thời gian, nhưng vì không bỏ chúng sanh cho nên vẫn chấp
nhận, không xóa bỏ chân lý quy ước tương đối “có thời gian”. Đây là một điều
khó khăn, như kinh Đại Bát Nhã nói
trong phẩm Học Không Bất Chứng:
“Tôi chẳng nên rời
bỏ tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh chìm trong cái không thật, tôi phải cứu
độ họ… Phải biết Bồ-tát này thành tựu sức phương tiện, lúc chưa được thành
Phật, hành ba môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô tác mà chẳng giữa đường chứng
lấy thiệt tế (chân lý tuyệt đối không có thời gian)… Chỗ làm của Bồ-tát thật là
rất sâu. Tại sao vậy? Vì dầu Bồ-tát học Các Pháp Không, học Thiệt Tế, học Pháp
tánh, học Rốt Ráo Không nhẫn đến học Tự Tướng Không và ba môn giải thoát Không,
Vô tướng, Vô tác, mà trọn chẳng giữa đường sa vào bậc Nhị thừa: Thanh văn và
Độc giác Phật. Thật là ít có vậy”.
Tóm lại, sống
được Lý Sự vô ngại, sự vô ngại của có thời gian và không có thời gian, sự vô
ngại của sanh tử và Niết-bàn, cho nên Bồ-tát sẽ tròn đủ hai sự tích tập: Trí
Huệ (thế giới của Lý) và Công Đức (thế giới của Sự) để thành Phật.
4/ Thế giới Sự Sự vô ngại. Khi mỗi
khoảnh khắc thời gian (Sự) và cái không có thời gian (Lý) hòa nhập và dung chứa
vô ngại với nhau đạt đến mức hoàn hảo, mỗi khoảnh khắc thời gian (Sự) sẽ hòa
nhập và dung chứa mỗi và tất cả khoảnh khắc thời gian khác (Sự) tạo ra một
trùng trùng tương dung tương nhiếp vô tận. Đây là thế giới Sự Sự vô ngại.
Chúng ta trích
vài đoạn trong kinh Hoa Nghiêm nói về
cấp độ này:
Trong mỗi mỗi
chân lông
Ức cõi chẳng
nghĩ bàn
Các thứ tướng
trang nghiêm
Mà chưa từng
chật hẹp.
(Hoa Tạng Thế Giới thứ 5)
Vị lai trong quá
khứ
Hiện tại trong
vị lai
Ba thời thấy lẫn
nhau
Mỗi mỗi đều rõ
ràng.
(Phổ Hiền Hạnh thứ 36)
Hoặc vô lượng
kiếp vào một kiếp
Hoặc lại một
kiếp vào nhiều kiếp…
Hoặc sự trang
nghiêm trong một kiếp
Vào khắp tất cảvô biên kiếp.
(Thế Giới Thành Tựu thứ 4)
“Trong một vi
trần nhập trong vô số thế giới khởi, trong vô số thế giới vi trần nhập trong
một vi trần khởi… Một niệm nhập trong ức kiếp khởi, ức kiếp nhập trong một niệm
khởi… Ba thời quá khứ hiện tại vị lai nhập trong một khoảnh khắc khởi, một khoảnh
khắc nhập trong ba thời khởi” (Phẩm Thập định
thứ 27).
Phật giáo nói
rằng “tất cả do tâm tạo”. Tâm càng thanh tịnh, càng vi tế, càng trong sáng,
càng cao rộng thì sẽ chứng nghiệm được những “cảnh giới” cao rộng của thời gian
và cái không có thời gian.
Bốn cấp độ của
thế giới cũng là bốn cấp độ của tâm vậy.
3. Kết luận
Về mặt lý
thuyết, khoa học có thể triệt tiêu thời gian – nỗi ám ảnh lo sợ lớn nhất của
con người. Về mặt thực hành, có thể khoa học chế tạo ra một cái máy triệt tiêu
thời gian, nhưng cái máy đó không dành cho con người, bước vào đó con người sẽ
tiêu tan.
Phật giáo đồng ý
với khoa học có thể triệt tiêu thời gian về mặt lý thuyết, nhưng Phật giáo còn
có những pháp môn thực hành phù hợp với con người để con người có thể thể
nghiệm chính ngay trong thân tâm này cái không
có thời gian ấy.
Như thế Phật
giáo không bác bỏ hay chống đối khoa học. Trái lại, Phật giáo là sự nối dài, sự
mở rộng của khoa học đến những biên giới tận cùng của thân và tâm – nhất là tâm
– của con người. Mở rộng chiều kích của tâm để mở rộng chiều kích của thời gian
là việc làm của những thực hành Phật giáo (mà chúng ta thường gọi là tu hành
tâm thức). Qua những sự thực hành, tâm thức chúng ta sẽ mở rộng hơn, và tùy
theo độ mở rộng ấy, chúng ta sẽ thể nghiệm sự mở rộng của thời gian và không
gian cho tới vô tận.
Con đường Phật
giáo là sự thể nghiệm, tự chứng những cấp độ của thời gian, đi từ thời gian ảo
tưởng do tâm thức chấp trụ, quy chiếu vào nhiều thứ hữu hạn mà tạo ra, cho đến
cái thời gian đích thật là không có thời gian vì tâm thức không trụ vào một nơi
nào cả. Đó là con đường của giải thoát (khỏi thời gian giới hạn) và tự do (vì
không còn điểm nào để quy chiếu) và an vui (vì không còn những phiền não do bị
trói buộc vào dòng chảy của thời gian một chiều và hữu hạn).
Văn
Hóa Phật Giáo số 113
h
Discussion about this post