ĂN CHAY ĐỂ NUÔI DƯỠNG SỰ BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC
Đại đức Thích Hoằng Trúc
Tăng sinh Khóa 9 Học viện PGVN tại Huế
Ăn chay là một thói quen đáng được nhân rộng và phát huy trong đời sống của con người hiện nay. Ăn chay là một hình thức tiếp nhận thực phẩm có tính an toàn cao, hạn chế đến mức thấp nhất dư lượng hóa chất độc hại và một số căn bệnh hiểm nghèo hiện có ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới do thịt của động vật mang lại. Nói đến ăn chay thì người viết liền nghĩ đến một bữa ăn có rau luột, đậu hủ kho, đĩa dưa cà, hoặc nồi canh chua rau muống có vài cọng ngò thơm, v,v…gọi đó là bữa ăn thịnh soạn của người ăn chay; còn bình dị một chút thì bữa ăn chỉ có một đĩa rau luột và chén nước tương có vài lát ớt chín đỏ nổi bồng bềnh trên mặt là đủ. Ăn chay thì không mất thời gian nhiều để chế biến và thậm chí dễ tiêu hóa. Vì cấu tạo của nhiều loại rau củ quả chủ yếu là chất xơ và mềm, khi vào bao tử của con người thì chúng được tiêu hóa dễ dàng và bao tử sẽ hấp thụ đầy đủ chất dinh dưỡng có trong chúng.
Ăn chay còn là một truyền thống văn hóa đáng được lưu giữ trong nếp sống của người Việt Nam. Cứ vào ngày mười bốn, rằm hay ngày hai mươi chín tháng thiếu, hoặc ba mươi tháng đủ và ngày mùng một thì phần đông người Việt Nam chúng ta lại có thói quen ăn chay để cơ thể được nhẹ nhàng và thanh lọc, dẫu là người có theo hoặc không theo Phật giáo. Và cũng từ thói quen đó mà nhiều thế hệ người Việt đã biết chế biến nhiều món chay ngon đa dạng về kiểu cách và hình thức, không kém phần thịnh soạn, đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng cho bữa ăn.
Như vậy nói đến ‘ăn chay” thì chúng ta phải tự hào rằng bữa ăn của chúng ta sẽ đảm bảo không chứa nhiều độc tố và hóa chất gây ảnh hưởng đến sức khỏe, thọ mạng sẽ được kéo dài, không có sự giết chóc và ăn thịt lẫn nhau của con người và muôn loài trên hành tinh này. Trong bài viết này người viết xin nêu một vài nhận định và ý kiến chủ quan, với ước nguyện cuộc sống của con người sẽ luôn bình đẳng, an lạc, hạnh phúc, đó mới là một nền hòa bình thật sự của toàn thể nhân loại trên thế gian này.
Ở bài kinh “Thịt Đứa Con” nằm trong Đại phẩm thứ 7 thuộc Tương Ưng Bộ kinh, đức Phật đã nhắc đến thức ăn như sau:
“Này các Tỳ kheo, có bốn loại thức ăn này đưa đến sự tồn tại, hay sự chấp thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay chúng sanh.
Thế nào là bốn?
Đoàn thực hoặc thô hoặc tế; thứ hai là xúc thực; thứ ba là tư niệm thực; thứ tư là thức thực.
Này các Tỳ kheo, bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại, hay sự chấp thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay các loài chúng sanh.”
Đoạn kinh trên đức Phật đã nhắc đến thức ăn “đoàn thực”. Đoàn hay còn gọi là đoạn có nghĩa là ăn thức ăn có hình dáng dài, ngắn, vuông, tròn có thể đưa vào miệng được. Và thức ăn đó có thể làm cho cơ thể chúng ta phát triển.
Trong Phật giáo, đức Phật nhắc nhiều đến việc ăn uống của chư Tăng.
Đối với Phật giáo Nguyên thủy thì Ngài không bắt buộc người xuất gia phải ăn chay. Ngài cho phép ăn mặn. Nhưng phải dựa vào “Tam Tịnh Nhục” mà ăn, đó là được ăn loại thịt mà mình không thấy người giết; ăn loại thịt mà mình không nghe tiếng con vật bị giết kêu; ăn thịt mà mình không nghi ngờ người ta giết cho mình ăn.
Mặt khác, trong Kinh Jivaka, đức Phật khuyên các Phật tử không vì chư tăng mà giết hại chúng sanh vì như thế người Phật tử sẽ mất công đức. Do vậy ở Phật giáo Nguyên thủy, đức Phật đã đưa ra điều kiện rõ ràng và cụ thể về sự tiếp nhận thức ăn của chư tăng thời bấy giờ. Ngài lấy “Tam Tịnh Nhục” làm giới điều căn bản để hàng đệ tử của mình có thể thuận theo thế gian mà du hành và truyền bá Phật pháp. Ở đây Ngài không chú trọng vào hình thức ăn uống “chay” hoặc “mặn” mà Ngài chỉ chú trọng ở sự thanh tịnh của ba nghiệp đó là thân-khẩu-ý mà tiến tu.
Như vậy, nếu người xuất gia tham đắm vào thức ăn thể hiện sự thích thú và thèm khát, mà quên đi sự giác ngộ giải thoát thì điều tất nhiên người đó sẽ đánh mất phẩm chất của người xuất gia và họ cũng chỉ giống như bao nhiêu người bình thường trong xã hội này mà thôi. Và chắc chắn một điều là họ cũng chỉ là những người đáng thương trong biết bao người đáng thương còn đang chìm đắm trong khổ đau và hận thù, vì đã tạo duyên để người khác sát sanh, vai trả suốt đời không dứt.
Thêm nữa, trong bộ kinh Tăng Chi Bộ I, chương 3, phẩm Lõa thể, phần Sát sanh do VNCPHVN ấn hành vào năm 1996 cũng đã nói về sự nguy hại của sát sanh hại mạng như sau:
Này các Tỳ kheo, đầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục. Thế nào là ba ? – Tự mình sát sanh, khích lệ người khác sát sanh, tùy hỷ sự sát sanh. Đầy đủ ba pháp này, này các Tỳ kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
Này các Tỳ kheo, đầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, được sanh thiên giới. Thế nào là ba ? – Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh. Đầy đủ ba pháp này, này các Tỳ kheo, tương xứng như vậy, được sanh thiên giới.
Đến đây, chúng ta đã thấy rõ nhiều tác hại của việc ăn mặn do chính bản thân chúng ta tạo tác hoặc thọ hưởng từ sự sát sanh của người khác tạo nên. Phải chăng đó là sự cộng nghiệp của chúng sanh trong sanh tử luân hồi !?
Cuối cùng, chúng ta có thể đưa ra một nhận định khách quan rằng, ăn mặn không phải là một thói quen ăn tốt nhất để nuôi sống bản thân, mà chúng ta còn có thể huân tập thói quen ăn những món ăn chay thanh đạm, dễ tiêu hóa và bớt tốn kém về mặt chi phí và thời gian chế biến, tránh được những căn bệnh khó trị như hiện nay. Một điều quan trọng là ăn chay thì cơ thể vẫn có thể phát triển mạnh mẽ như người ăn mặn và hạt giống từ bi và trí tuệ vẫn được phát sinh, tiết chế được tham dục của con người trong cách ăn uống, tạo nên một thế giới hòa bình chung của loài người và của muôn loài.
“Chúng sanh cầu an lạc
Ai dùng trượng hại người
Để tìm lạc cho mình
Đời sau không được lạc”
(Pháp Cú 131-Việt dịch HT. Thích Minh Châu)
Thích Hoằng Trúc
Discussion about this post