Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO
Thích Hạnh Phú
Mục lục
I. Phật giáo có phải là một Tôn giáo không
II. Tượng Phật có từ bao giờ?
III. Tại sao phải thờ cúng Phật, Bồ- tát ?
IV. Ý nghĩa của các danh hiệu Phật- Bồ tát
IV.1. Danh hiệu thứ nhất: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
IV.2. Danh hiệu thứ hai: Nam Mô A Di Đà Phật
IV.3. Danh hiệu thứ ba: Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
IV.4. Danh hiệu thứ tư: Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
V. Ý nghĩa của những vật được thờ cúng
V.1. Ý nghĩa của việc cúng hoa
V.2. Ý nghĩa của việc cúng quả (trái cây)
V.3. Ý nghĩa của việc cúng đèn
V.4. Ý nghĩa của việc thắp nhang (đốt hương) cúng Phật
V.5. Ý nghĩa của việc cúng nước
V.6. Ý nghĩa của việc lạy Phật
V.7. Ý nghĩa của việc tụng kinh.
V.8. Ý nghĩa của chiếc áo dài lam
VI. Kết luận
Phật
giáo có mặt trên cuộc đời hơn 25 thế kỷ, nhưng mãi cho đến ngày 15 tháng 12 năm
1999 Hội Đồng Liên Hiệp Quốc mới có nghị quyết “Công nhận quốc tế về ngày Lễ Vesak tại trụ sở Liên Hiệp Quốc và các văn
phòng liên hệ” (văn bản số A/54/L.59) do đại diện nước Sri Lanka đệ trình.
Kể từ đó, các nước trên thế giới thay phiên nhau tổ chức ngày Lễ Vesak, trong
đó Việt Nam
tổ chức ngày lễ Vesak năm 2008. Chính vì thế, mà mọi người biết đến Phật giáo
nhiều hơn, việc đi chùa cũng nhiều hơn. Song bên cạnh đó, hình ảnh người Phật
tử đi chùa không ngoài hai mục đích là tìm hiểu giáo lý để tu tập và cầu nguyện
cho bản thân, gia đình. Vậy Phật tử chúng ta có bao giờ đặt cho mình những câu
hỏi như: Phật giáo có phải là một Tôn giáo không? Tượng Phật có từ bao giờ? Tại
sao phải thờ cúng Phật, Bồ-tát? Ý nghĩa của từng danh hiệu Phật, Bồ-tát? v.v…
Để giải đáp cho những thắc mắc trên. Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ
góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi
chùa.
I. PHẬT GIÁO
CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO KHÔNG?
Để
giải đáp cho câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải hiểu “Tôn giáo là gì?”. Định
nghĩa của một Tôn giáo được hiểu là chí ít có một đấng giáo chủ tối cao và
những giáo điều, tín điều. Nghĩa là người tu trước trở thành vị giáo chủ tối
cao, người tu sau sẽ không thể trở thành vị giáo chủ tối cao thứ hai (như Thiên
chúa chẳng hạn) và những giáo điều thường bắt buộc đệ tử của mình phải làm
theo.
Còn Phật giáo được hiểu “đức Phật chỉ là một vị thầy dẫn đường, vị thầy thuốc”, là người
hướng dẫn tất cả mọi loài đạt đến sự giác ngộ giải thoát giống như Ngài. Với câu
nói “Ta
là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành” như một chân lý bất di
bất dịch, nghĩa là Ngài tu Tứ đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ
đạo, lục độ, v.v… đã thành Phật. Ngày nay nếu như chúng ta tu giống như thế thì
cũng sẽ thành Phật như Ngài đã thành. Ví như người đi trước học lớp 1, lớp 2,
rồi lên đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Chúng ta là những người đi sau học theo trình
tự đó rồi cũng lên thạc sĩ, tiến sĩ, giống như người đi trước. Chính vì thế mà
Phật giáo không phải là một Tôn giáo.
Tuy nhiên hiện nay,
chúng ta thấy Phật giáo được xem là một Tôn giáo qua những hình thức như tụng
kinh, cầu nguyện, lạy Phật, v.v…nhưng bên trong hình thức ấy Phật giáo mang những
thâm ý thoát ra ngoài vẻ trần tục. Bởi việc tụng kinh, cầu nguyện là những môn
học nhằm dạy con người khởi tâm Phật, tâm thiện thương người mến vật. Để ngày một
hoàn thiện bản thân đạt đến chân – thiện – mỹ trong cuộc sống.
Điều đặc biệt là đức Phật không bắt
buộc đệ tử của mình phải tu theo giáo lý của Ngài. Chúng ta thấy trong kinh Di Giáo, Ngài dạy các đệ tử: “Các
ngươi phải cố gắng tu hành để tự giải thoát, ta chỉ là người hướng dẫn mà thôi.
Trong công việc chiến thắng mọi trở lực trên đường tiến triển để đi đến đích,
chỉ có các ngươi là người có công hơn cả”. Đức Phật cũng dạy thêm: “Ta
như thầy thuốc hay, biết bệnh cho thuốc. Uống hay không uống, lỗi ấy không phải
tại thầy thuốc. Ta như vị chỉ đường, dạy con đường phải. Nghe mà không đi, lỗi ấy
không phải tại người chỉ đường”.
Giống như Khổng Tử, vị
thầy khai sáng ra nền Nho giáo. Cũng vậy, đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật là vị
thầy khai sáng đạo Phật. Quan hệ giữa ta và đức Phật là quan hệ thầy trò. “Bổn” là gốc, là đầu tiên. “Sư” là thầy. “Bổn sư” nghĩa là vị thầy đầu tiên. Ngôi chùa giống như một trường học.
Do đó, Phật giáo không phải là một Tôn giáo như nhiều người thường nghĩ.
II. TƯỢNG PHẬT CÓ TỪ BAO GIỜ[1]?
Căn cứ vào kinh Phật
thuyết Đại Thừa Công Đức Tạo Tượng (Đại
Chính tân tu Đại tạng kinh, tập 16, trang 790a), thì tượng Phật đã xuất
hiện ngay từ thời Phật còn tại thế. Nguyên khởi là do vua Ưu-đà-diên, trị vì
nước Câu-diệm-di, vị này là người đầu tiên dùng gỗ thơm Chiên-đàn tạo ra hình
tượng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Theo nội dung kinh văn đã nêu, thì sau thời gian gần
bốn mươi chín năm thuyết pháp, hóa độ chúng sanh. Trong một mùa an cư cuối
cùng, đức Phật tạm rời nhân gian để lên cung trời Đao-lợi thuyết kinh độ cho
chư Thiên và Ma-da thánh mẫu. Trong thời gian này, vua Ưu-đà-diên, một Phật tử
thuần thành, sùng kính Tam bảo, không tìm thấy bóng dáng của Phật nên đã sanh
lòng khát ngưỡng nhớ mong đến cực độ. Sự nhớ mong gặp được hình bóng oai nghiêm
của đức Bổn sư đã làm cho vị vua này trăn trở nhiều đêm để cuối cùng nảy sinh
ra một ý nghĩ: tạo hình tượng Phật. Việc làm đó nhằm thể hiện lòng kính ngưỡng
của mình cũng như lưu lại hình bóng của đức Thế Tôn trong những lúc Ngài không
hiện diện ở nhân gian. Lúc ấy, vua cho triệu tập các người thợ điêu khắc nổi
tiếng trong nước để tạo tượng Phật nhưng ai cũng từ chối, không dám nhận lời.
Vì những người thợ này nghĩ rằng: sắc tướng của đức Phật vạn lần cao quí, dung
nghi của Ngài siêu tuyệt trần gian, nếu như không chuyển tải được những đức
tướng đó trong khi tạc tượng thì e rằng đắc tội với đấng Thế Tôn. Với suy nghĩ
đó, những người thợ điêu khắc không một ai dám đứng ra nhận trách nhiệm tạc
tượng đức Phật. Khi ấy, có một vị Trời tên là Tỳ-thủ Yết-ma, nhìn thấy việc này
nên đã hóa hiện làm người thợ mộc. Người thợ mộc ấy đến trước nhà vua nói rằng:
“Tôi nay vì nhà vua mà tạo tượng. Nghề khéo của tôi không ai sánh bằng, cúi xin
Hoàng thượng chớ sai ai khác” (Ngã kim dục vị Đại vương tạo tượng. Ngã chi công
sảo thế trung vô thất, duy nguyện Đại vương mạc sử dư nhân).
Chỉ trong một ngày, tượng Phật đã được tạo xong bởi
bàn tay khéo léo của vị Trời Tỳ-thủ Yết-ma. Tương truyền đây là vị Trời chuyên
coi sóc về phần kiến trúc, có đầy đủ phước tướng trí tuệ, tượng ông tạc “cao
bảy thước mộc, mặt và tay chân đều màu vàng tía”, khiến cho bất cứ một ai mỗi
khi nhìn vào đều biết đó là tượng Phật. Vua Ưu-đà-diên vừa thấy tượng tướng tốt
đoan nghiêm, tâm liền phát sanh đức tin thanh tịnh nên chứng Nhu thuận nhẫn.
Ngay sau khi chứng được Nhu thuận nhẫn, vua vô cùng mừng rỡ, bao nhiêu nghiệp
chướng và lo buồn đều tiêu tan hết.
Về công đức tạo tượng, theo bản kinh kể trên thì đức
Phật đã dạy rằng: “Nếu những người nào dùng những tơ sợi, thêu thùa tượng Phật hoặc dùng
chì, kẽm, vàng, bạc hoặc dùng gỗ thơm Chiên-đàn… tạo ra tượng Phật, khiến cho
bất cứ ai khi nhìn vào đều biết đó là tượng Phật thì phước báo của người đó rất
lớn: thân tướng đoan trang, trừ diệt được nhiều tội chướng nặng nề, thậm chí có
thể tiêu trừ những tội cực trọng như Ngũ nghịch, Thập ác…”
III. TẠI SAO PHẢI THỜ CÚNG
PHẬT, BỒ-TÁT?
Chúng
ta thờ cúng Phật, Bồ-tát có 2 nguyên nhân sau:
- Kỷ niệm, tưởng
nhớ và báo ân.
Lúc còn sống, ông bà, cha mẹ có ân với chúng ta. Khi
ông bà, cha mẹ mất, chúng ta thường lập bàn thờ để thờ cúng, nhằm kỷ niệm tưởng
nhớ và báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục chúng ta nên người. Cũng vậy, đức
Phật, Bồ-tát tuy không sanh ra ta, nhưng các Ngài đã tu chứng, đã giác ngộ giải
thoát, chỉ dẫn lại cho chúng sanh đi trên lộ trình giác ngộ, giải thoát. Chính
vì thế, nhằm báo đáp một phần ân đức trên nên chúng ta lập bàn thờ cúng các
Ngài.
- Học tập theo
tấm gương các Ngài.
Người xưa có câu: “Ra đường gặp điều hay phải học.
Về nhà gặp người tốt phải noi theo”. Phật, Bồ-tát khi xưa cũng là một
người phàm phu nhiều tội nhiều nghiệp như chúng ta. Nhưng các Ngài giác ngộ,
biết mình sai, tự sửa lỗi bản thân qua từng ngày, cho đến khi thành Bồ-tát,
thành Phật. Nếu như chúng ta hôm nay cũng biết “phản văn tự kỷ” sửa đổi
lỗi lầm của bản thân mình qua từng ngày, thì một ngày nào đó chúng ta cũng
thành Bồ-tát, thành Phật giống như các Ngài. Nghĩa là chúng ta lấy các Ngài làm
tấm gương soi chiếu cho chính mình, chúng ta noi theo, học tập theo.
Chánh điện thờ Phật – ảnh minh họa
IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH
HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]
Như phần trên, người viết đã đề cập, Phật giáo không
phải là một Tôn giáo như nhiều người hiểu một cách thông thường mà “Phật
giáo là một nền giáo dục thực tiễn, như trường học giáo dục con người, thiết
thực trong đời sống hằng ngày”. Do đó những danh hiệu Phật, Bồ-tát đều
là những danh hiệu, danh từ biểu pháp tượng trưng cho môn học nhằm giáo dục,
giáo học răn dạy chúng ta trên bước đường tu nhân học Phật. Ngay cả những vật
phẩm dùng để cúng kiếng (như bông, trái cây, đèn, nước, nhang, áo dài lam…)
cũng vậy. Khi đối người, đối sự, đối vật, chúng ta phải biết áp dụng những danh
hiệu Phật, Bồ-tát, những vật được thờ cúng vào đời sống hằng ngày. Chính vì
thế, chúng ta là Phật tử cần phải hiểu biết hết ý nghĩa hết các danh hiệu của
các Ngài và những vật được thờ cúng. Chúng ta đang sống trong thời kỳ hóa độ
của đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Do đó chúng ta cần tìm hiểu sơ lược ý
nghĩa danh hiệu của Ngài.
IV.1. Danh hiệu thứ
nhất: NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
Giải thích danh hiệu:
Nam-mô
có 6 ý nghĩa sau: kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. Trong
đó từ kính lễ, quy y và qui mạng là ba từ thường dùng nhất.
Bổn
sư: Bổn nghĩa là căn nguyên, đầu
tiên, cội nguồn. Sư nghĩa là thầy dạy
học.
Thích-ca
(Sakya): là tiếng Phạn, Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi.
Năng Nhơn nghĩa là người có năng lực Từ bi.
Mâu-ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị
khổ vui làm động tâm. Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ
người, công đức đầy đủ. Tịch Mặc được hiểu là thanh tịnh.
Phật: dịch là Giác hoặc Trí. Nói cho đúng tiếng Phạn là
Buddha (Phật-đà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả (bậc đã giác ngộ, sáng
suốt hoàn toàn). Giác có ba bậc:
– Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ
và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị luân hồi
trong cõi trần lao, khổ ải.
– Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương
pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu
theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ
người tu theo Đại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy
chúng sanh đang chìm đắm.
– Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy
đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ-tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho
người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác hạnh viên mãn”.
Chỉ có Phật mới được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn.
Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự
giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để
gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được
gọi là Phật cả.
Do đây mà biết nhân từ cùng thanh tịnh
là đức năng vốn đầy đủ trong tự tánh của chúng ta. Danh từ này, nhà Nho gọi là
“nhân chi sơ tánh bổn thiện”, nhà Phật
gọi là “Phật tánh”. Khi bước chân đến
chùa đối diện hình tượng Ngài, niệm danh hiệu Ngài, lễ lạy Ngài, chúng ta phải
tự hỏi lại bản thân của mình xem đã làm được một phần nhỏ hạnh nguyện nào giống
với Ngài chưa? Khi đối người, đối sự, đối vật, chúng ta có dùng lòng từ bi
không? Đối với bản thân mình có thanh tịnh không? Có bị tám thứ gió (khen, chê,
lợi, suy, vui, khổ, vinh, nhục) làm tâm bất an xao động không? Nếu không, tức
là thanh tịnh đối với bản thân của mình.
Dân gian Việt Nam có câu: “Con nhà tông không giống lông
cũng giống cánh”. Phật tử được hiểu là con Phật. Ngày nay chúng ta đang
bước trên con đường đạo, con đường mà khi xưa đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni đã đi
qua, đạt ngôi vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Phật quả). Vậy trước khi
thành Phật, Ngài tu những công hạnh, hạnh nguyện gì? Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Đề-bà Đạt-đa thứ 12 ghi: “…Trí-Tích
Bồ-Tát nói rằng: Tôi thấy đức Thích-Ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những
hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng có lúc thôi
dứt. Ta xem trong cõi tam-thiên đại-thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hạt
cải nào mà không phải là chỗ của Bồ-Tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh.
Vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề”. Công đức và hạnh nguyện của Ngài, thì vô
lượng kiếp chúng ta cũng không thể nào nói cho hết được. Ở đây, người viết xin
dẫn ra hai mẫu chuyện tiêu biểu cho đức tính Từ bi và Thanh tịnh như ý nghĩa
danh hiệu của Ngài, để chúng ta học tập theo tấm gương của Ngài.
- Hạnh từ bi của đức Phật:
LÓC THỊT THẾ CHIM BỒ CÂU[3]
Vào đời quá khứ, có vua Thi-tỳ cai trị một nước rộng
lớn, giàu vui, đông đúc. Nhà vua rất thương dân, dân cũng rất mến nhà vua.
Một hôm, nhà vua soi gương thấy trên đầu đã có vài ba
sợi tóc bạc. Vua là người có trí, ý thức được vô thường sanh diệt, nên nhường
ngôi cho con rồi lên núi tu thiền cầu giải thoát sanh tử, cứu độ chúng sanh.
Đế-thích có thiên nhãn nên biết nhà vua tu thiền định,
không biết ý của vua muốn cầu làm Phạm-thiên hay Đế-thích không…, liền bàn với
một thiên quan. Thiên quan nói: “Nếu Đế-thích muốn biết thì phải thử”.
Thế rồi Đế-thích hóa làm chim ó. Thiên quan hóa làm
chim bồ câu. Chim ó rượt chim bồ câu, chim bồ câu chạy vào lòng nhà vua cầu xin
cứu mạng. Chim ó đến đòi chim bồ câu, vua Thi-tỳ không trả.
Chim ó nói: “Chim bồ câu là thức ăn của tôi. Ngài cứu
nó nhưng để tôi chết đói thì đâu có gọi là từ bi”.
Nhà vua nói: “Ta sẽ lóc thịt của ta tế cho nhà ngươi”.
Chim Ó nói: “Muốn cho công bình thì thịt Ngài phải cân
bằng thịt bồ câu”. Vua đồng ý.
Khi cân, để chim bồ câu một bên, thịt nhà vua một bên,
nhưng lạ lùng thay, bao nhiêu thịt vẫn nhẹ hơn chim bồ câu. Cuối cùng, nhà vua
định bước lên cân nhưng yếu sức, té xỉu.
Lúc đó, trời Đế-thích và thiên quan hiện nguyên hình
và nói với nhà vua: “Ngài tu từ bi khổ hạnh như vậy, mục đích muốn cầu quả vị
gì? Cầu làm Phạm Thiên, Đế-thích, hay Chuyển luân thánh vương?”. Nhà vua trả
lời: “Tôi tu hành, không cầu làm Phạm Thiên, Đế-thích hay Chuyển luân vương, mà
mục đích cầu thành Phật để hóa độ chúng sanh”.
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật – ảnh minh họa
Đế-thích nói: “Thân Ngài hiện nay đau đớn, Ngài có hối
hận không?”
Nhà vua nói: “Tôi không hối hận”.
Đế-thích nói: “Làm sao biết Ngài không hối hận?”
Vua Thi-tỳ lập thệ rằng: “Xin mười phương chư Phật
chứng minh. Nếu trong tâm tôi không có hối hận, thì xin cho thân thể tôi bình
phục lại như cũ”. Lạ lùng thay, vua vừa phát nguyện xong thì thân bình phục lại
như cũ.
Thiên Đế-thích ca ngợi tán dương
và nói: “Ngài chắc chắn sẽ thành Phật,” rồi lễ bái và biến mất.
Phật kết luận: Vua Thi-tỳ là tiền thân của ta. Vì xưa
kia do lòng từ bi bố thí cả thân mạng cho
chim ó nên mau thành Phật, chứng quả như hôm nay”.
- Hạnh thanh tịnh của đức Phật:
HẠNH NHẪN NHỤC[4]
Có một câu chuyện rất nổi tiếng từ tạng kinh Phật giáo
minh chứng cho ta thấy sự khéo léo của Đức Phật khi đối phó với sân hận. Ngày
nọ, một người Bà-la-môn, thuộc dòng quý tộc và thế lực, đến gặp đức Phật. Vị
Bà-la-môn này tánh khí nóng nảy, thường cãi cọ với mọi người. Ngay chính như
khi người khác bị hại mà không tỏ vẻ giận dữ, ông cũng không bằng lòng. Vì thế,
khi ông nghe rằng đức Phật chẳng bao giờ nổi giận, ông quyết định đến thử Ngài.
Người Bà-la-môn đi đến gặp đức Phật và tuôn ra những
tràng chửi rủa, mắng nhiếc. Đức Phật lắng nghe một cách bình tĩnh trong im
lặng. Vị Bà-la-môn chửi rủa từ sáng cho đến chiều, cuối cùng ngưng chửi và chờ
đợi phản ứng của đức Phật. Lúc đó, đức Phật bình tĩnh hỏi ông: “Ông có gia đình
hay bạn bè không?”.
“Dĩ nhiên rồi”, Bà-la-môn trả lời. “Tại sao?”.
– “Ông có thăm viếng họ thường xuyên không?”, Đức Phật
hỏi.
– “Có,” người Bà-la-môn trả lời cộc cằn.
– “Khi đi thăm họ, ông có mang quà theo không?”.
– “Dĩ nhiên là tôi có!”, vị Bà-la-môn gầm lên.
– “Nhưng nếu họ không nhận quà của ông thì sao?”, Đức Phật hỏi. “Ông sẽ làm gì với món quà
đó?”
– “Tôi sẽ mang nó về nhà và chia sẻ với gia đình tôi”
người Bà-la-môn trả lời.
– Nay ông đã mang cho tôi một món quà của những lời sỉ
nhục giận dữ. Tôi không muốn nhận chúng, tôi xin trả lại cho ông. Hãy mang về nhà và chia sẻ với gia đình”.
Vị
Bà-la-môn nghe Phật nói xong, biết mình đã thua cuộc, yên lặng lui ra.
IV.2. Danh hiệu thứ hai: NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
Hiện nay, pháp môn niệm Phật ở nước ta
tương đối phát triển, các chùa đều có tổ chức khóa tu niệm Phật dành cho Phật
tử tại gia. Đa số Phật tử đều hiểu biết nhiều về hình tượng của A-di-đà Phật,
nên người viết chỉ nêu thêm vài ý nghĩa để làm sáng tỏ hơn hình tượng của Ngài.
A dịch là Vô.
Di-đà dịch là Lượng.
Phật
dịch là Giác hoặc Trí.
Từ
trên mặt chữ, ta thấy danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Giác hoặc Vô
Lượng Trí. “Vô Lượng” nghĩa là vốn chẳng thể nói. Không có gì chẳng phải là vô
lượng: vô lượng công đức, vô lượng tài
nghệ, vô lượng tướng hảo v.v…
Trong
kinh A-di-đà, Đại sư Cưu-ma La-thập dịch danh hiệu A-di-đà
Phật thành Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.
Vô
lượng Quang: biểu thị cho không gian
Vô
lượng Thọ: biểu thị cho thời gian
Không gian và thời gian biểu thị cho toàn thể hư không pháp giới, cũng là đức hiệu A-di-đà Phật.
- Ý nghĩa hình tượng A-di-đà Phật.
Chúng ta thấy hình tượng của Ngài
thường là đứng. Tay trái cầm đài sen có ý nghĩa như sau: Chúng sanh nào trong
mười phương pháp giới phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật và phát nguyện cầu
vãng sanh về nước Ngài, thì trên cõi Tây phương Cực Lạc liền mọc lên một đóa
hoa sen (có ghi tên họ của mình). Trước giờ phút lâm chung nếu người bệnh niệm
danh hiệu của Ngài từ 1 đến 10 tiếng, thì Ngài cùng chư vị Thánh chúng từ cõi
Tây phương Cực Lạc cầm hoa sen này hiện thân
tiếp dẫn người đó vãng sanh Cực Lạc.
Tay
phải của Ngài duỗi thẳng xuống nhằm ý dìu dắt, nâng đỡ, khuyên tấn những chúng
sanh còn đang mãi trầm luân trong biển sanh tử.
- Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà.
Kinh Bi Hoa, đức Phật nói rằng: “Về
kiếp lâu xa có vị vua Vô Tránh Niệm đối trước đức Phật Bảo Tạng Vương Như Lai
phát 48 lời nguyện. Mục đích là tạo nên một cõi nước thanh tịnh, tốt đẹp, để
tiếp dẫn tất cả chúng sanh khổ nạn có tâm mong cầu vãng sanh nhằm về đó tu tập,
mau chóng thành Phật”.
Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Tiền
thân đức Phật A-di-đà là vị vua tên Nhiêu Ích, nghe đức Thế Tự Tại Vương Như
Lai thuyết kinh giảng đạo, sanh tâm hoan hỷ, nên phát tâm xuất gia hiệu là
Tỳ-kheo Pháp Tạng. Vì muốn tạo nên một cõi nước trong sạch, thanh tịnh, tốt đẹp
để tiếp dẫn tất cả chúng sanh nào trong mười phương phát tâm niệm Phật nguyện sanh về nước Ngài, nên tỳ-kheo Pháp
Tạng đối trước đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Nội dung
mỗi một nguyện đều hàm ý vì lợi ích chúng sanh, cứu độ chúng sanh”.
Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà, được
pháp sư Tịnh Không gộp thu thành 4 chữ: “Tâm – Nguyện – Giải – Hạnh”.
– Tâm đức Phật A-di-đà là
gì?
Phật dạy: “Chư Phật nhìn chúng sanh như
những vị Phật. Còn chúng sanh nhìn chư Phật như những chúng sanh”. Chính vì thế, mà tâm của chư Phật lúc nào cũng chân
thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, cung
kính đối với tất cả chúng sanh.
Nam mô A Di Đà Phật – ảnh minh họa
Vì “Phật Phật
đạo đồng” nghĩa là tâm của đức Phật A-di-đà giống tâm đức Phật Thích-ca. Do
đó chúng ta chỉ cần tìm hiểu tâm của đức Phật Thích-ca trong
sinh hoạt đời sống hằng ngày khi còn tại thế, trong việc giáo hóa, trong cách
ứng xử giao tiếp đối với chúng sanh. Tâm của Ngài luôn chân thành, bình đẳng,
không phân biệt, từ bi, cung kính tất cả mọi người, trên từ các bậc vua chúa,
các quan cho đến những người có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ lúc
bấy giờ (tiêu biểu: Phật độ người gánh phân tên Ni-đề, Phật độ kỹ nữ Ambapàlì
v.v…). Vì Ngài biết rằng do nghiệp lực ở quá khứ chi phối, nên mọi người đều
mang một thân phận khác nhau, có người giàu sang, có người nghèo hèn, có người
thông minh lanh lợi, có người ngu si đần độn, có người đẹp, có người xấu v.v…
nhưng tất cả họ đều có chung một Phật
tánh và đều có thể thành Phật như những vị Phật ở quá khứ.
Công hạnh của đức Từ Phụ sáng ngời như thế, chúng ta
là những Phật tử đang và sẽ bước trên con đường khi xưa mà Ngài đã đi. Vậy
trong cuộc sống hằng ngày khi đối nhân xử thế, tâm của chúng ta có chân thành,
thanh tịnh, không phân biệt, từ bi, cung kính với người, với vật không? Hay là
tâm luôn nhìn thấy lỗi lầm người này, nói xấu người kia, tâm luôn sân si nóng
giận với mọi người xung quanh. Trong Trung
Phong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự Toàn Tập, pháp sư Tịnh Không giảng rằng: “Ai
còn có đối lập, ai vẫn còn cảm thấy không thoải mái khi nhìn người khác, thấy
lỗi người này, nói xấu người kia, nóng giận với mọi người xung quanh thì phải
tự hiểu người đó không thể vãng sanh. Nhất định phải học sao cho thấy ai tâm
của mình cũng hoan hỷ, mình quyết định chẳng hủy báng họ, nói xấu họ. Ai lăng
nhục mình, hủy báng mình, người ta hãm hại mình, mình cũng hoan hỷ, vui vẻ. Vì
họ đã thay mình tiêu nghiệp chướng, quyết định chẳng có oán hận mảy may, quyết
định chẳng có ý niệm báo thù, thì ta mới có thể vãng sanh về Tây phương Cực
Lạc. Tu hành, trọng yếu nhất là phải sửa đổi những hành vi, lời nói, việc làm
sai lầm của mình, làm sao cho đúng với hành vi, lời nói, công hạnh của chư
Phật. Đó là tâm của Phật”.
Ngày nay Phật tử phát tâm niệm danh hiệu Ngài, phát
nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài thì ngoài vấn đề niệm Phật, trong cuộc sống
chúng ta còn phải biết sửa đổi tâm tánh, tính tình. Như thế thì “nhớ
Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”.
– Nguyện của A-di-đà Phật là
gì?
Mười phương ba đời hết thảy chư
Phật trong lúc tu hành hạnh Bồ-tát đạo, hoặc khi đã thành Phật, đều phát những
đại nguyện khác nhau nhằm mục đích cứu độ tất cả chúng sanh trong mười phương.
Nhưng quy nạp lại không ngoài bốn nguyện lớn, đức Thế Tôn gọi là Tứ hoằng thệ
nguyện (Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ – Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn –
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học – Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành). Nhưng
trong tất cả chư Phật, nhất định có một vị Phật được tất cả chư Phật tán thán,
khen ngợi. Ví như ở thế gian mọi người đều cùng một học vị Tiến sĩ nhưng trong
đó tất có một vị được nhiều người tôn trọng, kính phục. Phật pháp cũng vậy,
trong tất cả chư Phật thì đức Phật A-di-đà được mười phương chư Phật tán thán.
Cổ đức nói: “Mười phương ba đời (quá khứ – hiện tại – vị lai) Phật, A-di-đà là bậc
nhất”. Chính vì thế mà Thiện Đạo đại sư nói: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy
thuyết Di-đà bổn nguyện hải” (Sở dĩ Như Lai xuất hiện trong thế gian
chỉ nhằm mục đích để nói biển bổn nguyện Di-đà). Bởi vì tâm tâm, nguyện nguyện
của A-di-đà Phật một lòng luôn hướng về những chúng sanh đang khổ nạn, như mẹ
hiền nhớ con thơ. Vì muốn cho chúng sanh có một hoàn cảnh, môi trường thật lý
tưởng, tốt đẹp, hoàn mỹ, thanh tịnh, để chúng sanh vãng sanh về đó tu tập mau
thành Phật. Ngài đã thăm viếng, học hỏi hai trăm mười ức cõi Phật, học những điều
hay, chọn những thứ tốt để về xây dựng nên một thế giới Cực Lạc bậc nhất và đối
trước Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời thệ nguyện. Trong mỗi một nguyện đều hàm nhiếp vì hết thảy chúng
sanh khổ nạn. Có thể khẳng định rằng điều kiện vãng sanh về nước Ngài so với
chư Phật trong mười phương là dễ dàng nhất, thành tựu quả vị lại cao nhất.
Chính vì thế mà được chư Phật tán thán, khen ngợi.
Xã hội ngày nay, còn rất nhiều người khổ nạn, nghèo
khó, bệnh tật, v.v… Là những người học Phật, một lòng niệm Phật cầu vãng sanh,
tu hạnh giải thoát, thì trong đời sống hằng ngày khi gặp những người khổ nạn,
nghèo khó, bệnh tật, v.v… chúng ta phải khởi tâm từ, tâm yêu thương, tâm chia
sẻ, tâm giúp đỡ đối với những chúng sanh khổ nạn này. Thay mặt A-di-đà Phật
hoàn thành một phần nhỏ những hạnh nguyện của Ngài đối với tất cả chúng sanh.
Làm được như thế thì khi chúng ta phát tâm niệm danh hiệu Ngài mới tương ứng,
cảm ứng đạo giao: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.
– Giải của A-di-đà Phật là gì?
Giải nghĩa là trí tuệ. Tức là
liễu giải chân tướng của nhân sanh và vũ trụ, liễu giải hết thảy người, sự,
vật, giống như trí huệ của Phật, hiểu rõ mọi thứ, thấu hiểu mọi thứ, đối với
mọi thứ chẳng mê hoặc điên đảo, xử sự, đãi người, tiếp vật chẳng sai lầm. Có
như vậy thì mới có thể thực sự diễn nói cho người khác. Danh hiệu A-di-đà Phật
dịch thành Vô Lượng Quang là trí tuệ vô lượng, trí tuệ rốt ráo viên mãn. Không
điều gì mà Phật chẳng biết, từ quá khứ vô lượng đến vị lai tột cùng Ngài đều
thấy biết rõ ràng. Nhờ có trí tuệ vô lượng, viên mãn nên Ngài giáo hóa chúng
sanh một cách dễ dàng và thuận tiện.
Phàm
phu chúng ta thường cho suy nghĩ, cách nhìn, cách làm của mình là đúng, là tiêu
chuẩn. Nhưng trong kinh Phật nói, đợi đến khi nào chúng ta chứng đắc quả
A-la-hán rồi, tức là khi đoạn được Kiến-Tư phiền não rồi, thì mới có thể tin
vào ý nghĩ, cách nghĩ, cách nhìn của chính mình. Tông chỉ của đạo Phật là phá
mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Mê là do vô minh che lấp, không phân biệt
đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái. Chính vì thế đức Phật dạy, trong cuộc
sống chúng ta cần phải có “trí tuệ làm sự nghiệp”, lấy “chánh
kiến” cái thấy đúng đắn, hợp với chân lý trong Bát chánh đạo làm phương
châm sống để tiến tu trên bước đường học Phật giải thoát.
– Hành
của A-di-đà Phật là gì?
Hành
nghĩa là đức hạnh. Đức là đạo đức. Hạnh là lời nói, cử chỉ hành vi. Lời nói cử
chỉ hành vi của người có đức hạnh. Trong mười pháp giới (địa ngục, ngạ quỉ, súc
sanh, người, A-tu-la, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật), thì người
có phẩm chất đức hạnh bậc nhất là Phật, không ai vượt qua. Chính vì thế mà
trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật
Thích-ca tán thán A-di-đà Phật. Nghĩa là Phật Thích-ca thay mặt mười phương ba
đời hết thảy chư Phật Như Lai tán thán A-di-đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung
chi vương” (tôn quý nhất trong các quang minh, là vua của các Phật),
tán thán đến cùng cực. Lại ví đức hạnh của A-di-đà Phật sáng như mặt trăng ngày
rằm, soi chiếu, xoa dịu đến tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển sanh
tử.
Hiện
nay, người niệm Phật rất nhiều, ai cũng biết điều kiện để vãng sanh về Tây
phương Cực Lạc là phải có đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh. Nhưng Hòa thượng Tịnh
Không nói rằng, trong một vạn người niệm Phật thì chỉ có hai, ba người vãng
sanh. Đó là bởi do nguyên nhân gì? Trong Chú
giải Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Quán Đảnh đại sư nói rằng: “Người
niệm danh hiệu A-di-đà Phật có 100 thứ quả báo, trong đó cái quả báo đầu tiên
là đọa địa ngục”. Ngài giải thích, bởi vì người niệm Phật khởi tâm động
niệm lời nói hành vi hoàn toàn trái với Phật pháp. Nghĩa là họ nói xấu người
này, nhìn lỗi người kia, hay sân si, nóng giận với người xung quanh. Vô tình
hay cố ý, họ đã phá hủy hình ảnh tốt đẹp của Phật giáo, của người tu hành,
người niệm Phật. Người chưa học Phật nhìn thấy như thế không còn dám học Phật
nữa, không còn dám đi chùa nữa. Người học Phật, niệm Phật giống như con dao hai
lưỡi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta dùng “Tâm – Nguyện – Giải – Hành”
của A-di-đà Phật làm “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của
chính mình, ta phải là tấm gương tốt nhất cho mọi người xung quanh học theo,
noi theo. Gia đình ta là tấm gương tốt nhất cho mọi gia đình trong xã hội học
theo. Được vậy, thì công đức của ta rất lớn, người khác nhìn thấy như thế là vô
tình chúng ta đã độ họ, chuyển hóa họ. Họ tìm đến đạo Phật, học Phật, chủng tử
Phật tánh từ đây là sinh chồi, nảy mầm, lên cây, kết trái, giải thoát sanh tử.
Công đức từ đây mà sanh ra. Ngược lại, nếu như mọi người xung quanh nhìn thấy
ta còn những đức tính không tốt, tham lam, nóng giận, nói xấu người này, nhìn
lỗi người kia, v.v…, họ không dám học Phật, vì nghĩ rằng đạo Phật không có gì
tốt, đi chùa không có gì hay. Chủng tử Phật tánh bị vùi lấp thêm ngày càng dày,
càng sâu. Tội chúng ta từ đây mà hình thành. Do đó trong phần khai thị, Ngài
nói rằng: “Đối với người học Phật. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, lễ Phật,
gõ mõ. Vậy thì không phải, đó chỉ là một phần biểu hiện của sự tu hành, dáng vẻ
bên ngoài. Thực chất chính là ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong đối nhân xử
thế, đem ân ân oán oán từ vô lượng kiếp hóa giải. Đây gọi là chân thật tu hành”.
Khi đó chúng ta phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật thì sẽ cảm ứng đạo giao,
tương ứng với Ngài.
IV.3. Danh
hiệu thứ ba: NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Hoặc
NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Có lẽ danh hiệu của vị Bồ-tát này được nhiều người
biết đến nhiều nhất dù người này không biết Phật giáo là gì, chưa từng bước
chân đến chùa. Vậy danh hiệu vị Bồ-tát này có ý nghĩa gì?
Đại bi: nghĩa là lòng xót thương bao la rộng lớn. Theo định nghĩa chung “Bi
năng bạt khổ“, bi có công năng tiêu trừ các khổ não. Hạnh nguyện
của đức Quán Thế Âm là cứu độ hết thảy chúng sanh thoát ly ra khỏi tai ách khổ
nạn. Lòng thương xót của Ngài rộng lớn bao la như thế nên gọi là đại bi.
Quán: nghĩa là xem xét, quán chiếu. Có nhiều nơi Phật tử
thường đọc là “Quan”, theo quan điểm của người viết thì cũng đúng nhưng chưa
được chính xác cho lắm vì rằng: “Quan” nghĩa là dùng mắt thường để nhìn, còn
“Quán” nghĩa là dùng tâm để nhìn. Có những sự việc tưởng như đơn thuần, đúng
đắn, chính xác chúng ta không thể nào dùng mắt thường nhìn được, chỉ có thể dùng tâm để nhìn thì mới có thể chính xác, mới
đúng.
Thế: là thế gian
Âm: nghĩa là âm thanh
Bồ-tát: nói đủ theo tiếng Ấn Độ là “Bồ-đề Tát-đỏa”, Tàu dịch: “Giác
hữu tình”. Giác, tức là giác ngộ; Hữu tình là chúng sanh. Nghĩa là Bồ-tát
đem Phật pháp dạy người, có năng lực khiến cho chúng sanh được tỏ ngộ và ra
khỏi biển khổ.
Quán Thế Âm nghĩa là Ngài nghe tiếng kêu thầm kín
thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Ngài đem an lạc
từ bi tâm vô lượng không phân biệt đến với mọi loài, nói cách khác là tình yêu
thương trìu mến vô biên gấp muôn vạn lòng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với
đứa con thơ. Nên gọi là Từ mẫu Quán Thế Âm.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy trên tay ngài Quán Thế Âm
Bồ-tát cầm tịnh bình và nhành dương liễu, đầu đội mũ gắn hình tượng Phật
A-di-đà. Ý nghĩa là: Tay phải Ngài cầm cành
dương liễu là tượng trưng cho đức tánh nhẫn nhục. Tay
trái cầm tịnh bình (bình thanh tịnh) đựng nước cam lồ, tượng trưng cho tâm từ
bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lồ rưới mát chúng
sanh. Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh thì uốn mình theo
chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gỗ khác
thì gió không thể lay, một khi bị gió lay là phải gãy. Nếu yếu như cành liễu
thì chỉ buông rũ theo chiều gió. Cứng quá, mềm quá đều không có sức chịu đựng
lâu dài. Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài
sương mà được. “Cam” nghĩa là ngọt. “Lồ”
đọc trại chữ lộ, tức là sương hay móc. Khi người ta bị nóng bức khô khan, nếu
được một giọt nước cam lồ thấm vào, cổ sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ
tượng trưng cho lòng từ bi của Bồ-tát. Khi chúng sanh bị lửa phiền não thiêu
đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ-tát, Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem
lại cho người sự mát mẻ an lành. Vì vậy Bồ-tát dùng cành dương rưới nước cam
lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyến. Thiếu cành dương, không rưới nước
cam lồ được. Cũng vậy, có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi đó
không lâu dài, không đem đến lợi ích cho chúng sanh được. Cho nên đức nhẫn
nhục, lòng từ bi luôn đi đôi với nhau, thiếu một đức thì đức kia không thể thực
hiện.
Đầu Ngài đội mũ có hình tượng Phật A-di-đà, dụng ý
rằng: “Ngài là vị Đẳng giác Bồ-tát mà còn phải thời thời khắc khắc nhớ Phật,
niệm Phật”. Hình tượng này nhằm nhắc nhở, khuyến tấn hàng phàm phu
chúng ta trong thời thời khắc khắc thường tỉnh thức nhớ Phật, niệm Phật, đừng
để tâm phóng dật, buông lung sẽ tạo nghiệp. Trong tất cả các vị Bồ-tát, có lẽ
Bồ-tát Quán Thế Âm là gần gũi, thân thiết với mọi người, được nhiều người biết
đến nhiều nhất, có câu “Gia gia Quán Thế
Âm. Hộ hộ Di Đà Phật”. Mỗi khi gặp chuyện đau khổ hay nguy nan, trong tâm
của mọi người chúng ta thường nghĩ ngay đến danh hiệu của Ngài, cầu nguyện Ngài
giúp đỡ, do chính những công hạnh và hạnh nguyện của Quán Thế Âm Bồ-tát phát
nguyện khi tu đạo. Thái Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp Hoa có nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán Thế Âm như
sau: “Đức Quán Thế Âm tìm nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất cả chúng sanh
khắp mọi nơi, mọi chốn, liền ngay khi đó đến mà cứu độ. Quả vị lợi tha vô lượng
vô biên của Ngài luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những việc lợi ích cho
họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là Thắng ứng thân, Liệt ứng thân, Tha
thọ dụng thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp chúng sanh trong pháp giới”.
Trong kinh Đại thừa phẩm Phổ Môn, chúng ta thấy Ngài thường thị hiện 32 ứng hóa thân để tùy
duyên ứng giáo hóa chúng sanh. Nơi nào chúng sanh có “cảm”, Ngài liền “ứng”.
Cảm-ứng bất khả tư nghì. Chúng ta thấy hiện nay có rất nhiều người niệm Quán
Thế Âm Bồ-tát, nhưng có người niệm linh nghiệm, còn có người niệm không cảm
ứng, phải chăng Bồ-tát có sự thiên vị?
Nam Mô Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát – ảnh minh họa
Xin thưa, không phải Bồ-tát thiên vị, thương, giúp đỡ
người này, còn người khác thì không thương, không giúp đỡ. Lòng đại từ đại bi
của Bồ-tát là “vô ngã vị tha”, lòng
từ bi bình đẳng, không phân biệt ví như “nơi nào có sông, hồ, ao, rạch thì nơi ấy có
bóng trăng hiện hữu”.
Xin lấy ví dụ: Quán Thế Âm Bồ-tát giống như tổng đài
phát ra làn sóng âm thanh hay phát ra hình ảnh. Sự phát đi, dĩ nhiên luôn luôn
thường trực (ví dụ cho tầm thanh cứu khổ) còn chúng sanh như những máy thu
thanh, thu hình, máy mở đúng làn sóng, đúng vi ba của tín hiệu, tất nhiên thấy
hình, nghe tiếng (ví dụ cho lòng chí thành và giao cảm).
Dù cho muôn ngàn triệu chiếc máy (vô số chúng sanh)
cùng một lúc bắt đúng tín hiệu thì tất nhiên muôn ngàn triệu chiếc máy, cùng
một giờ phút mà cùng có âm thanh và hình ảnh (ví dụ cho cùng niệm và cùng được
sự thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất cả mọi loài chúng sanh, nếu cùng chí
thành hướng về đức Quán Thế Âm Bồ-tát tức Ngài cùng hiển hiện ngay liền khi đó.
Đại sư Chương Gia, một trong ba vị thầy của pháp sư
Tịnh Không nói: “Chúng sanh niệm danh hiệu Phật, Bồ-tát mà không thấy cảm ứng, linh
nghiệm là do bởi nghiệp chướng của chúng ta nhiều. Chúng là ranh giới làm ngăn
cách sự cảm ứng giữa ta và Phật, Bồ-tát. Cách tốt nhất là phải sám hối tiêu trừ
nghiệp chướng của chính mình”.
Bồ-tát Quán Thế Âm là hiện thân của đức Từ bi. Tình
thương chân thành tha thiết nhất trong con người, không tình thương nào qua
tình mẹ thương con. Mẹ đối với con là tình thương chân thành thâm thúy bao la,
khó lấy cái gì có thể hình dung được. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là
người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sanh. Người mẹ hiền của tất
cả chúng sanh, người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nức nở từ cõi lòng của đàn
con dại đang đắm chìm trong bể khổ mênh mông, để đến xoa dịu, cứu thoát khiến
mọi khổ não đều được tiêu tan. Nên chúng ta thấy Bồ-tát Quán Thế Âm thường hiện
thân người nữ. Nhưng theo trong kinh Vô
Lượng Thọ, phẩm thứ 6, lời nguyện
thứ 22 của đức Phật A-di-đà là “Khi con thành Phật, nước con không có phụ nữ”.
Hiện tại, ta thấy Ngài thường ở cõi Tây phương Cực Lạc để giúp đức Phật A-di-đà
giáo hóa, tiếp dẫn người vãng sanh. Tương lai, Ngài cũng thành Phật hiệu là Phổ
Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Thật ra trong kinh Đại Nhật và kinh Bi Hoa,
đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni nói: “Quán Thế Âm Bồ-tát trong vô lượng quá khứ về
trước đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai”. Nhưng vì bi nguyện độ
sanh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ-tát, nhằm giúp đỡ các đức Phật trong mười
phương giáo hóa chúng sanh, cứu khổ ban vui.
Chúng ta thấy Từ bi và nhẫn nhục là hai đức tính tiêu
biểu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong cuộc sống hằng ngày, là Phật tử chúng ta
phải biết có lòng từ bi (yêu thương, chia sẻ, cảm thông) đối với mọi người xung
quanh. Khi gặp chuyện không như ý, buồn phiền, bản thân chúng ta phải biết nhẫn
nhục. Làm được hai điều này nghĩa là chúng ta đã thực hiện theo hạnh nguyện của
Ngài, khi đó chúng ta phát tâm niệm lên một câu danh hiệu Ngài sẽ cảm ứng đạo
giao. Khi trong tâm còn sự hiện hữu của tính bỏn sẻn, tham lam, sân hận, si mê,
ngã mạn v.v… thì dù cho chúng ta có niệm danh hiệu Ngài nhiều bao nhiêu đi nữa
cũng sẽ không linh nghiệm, không cảm ứng. Chỉ là “đau mồm rát họng cũng uổng công”
vì đã làm trái bổn nguyện độ sanh của Ngài.
IV.4. Danh hiệu thứ
tư: NAM
MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Hoặc NAM
MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Trong văn hóa truyền thống của người Á Đông chúng ta,
có lẽ danh hiệu của hai vị Bồ-tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Bồ-tát là gần gũi,
thân quen đối với mọi người. Bởi vì lúc còn sống, mỗi khi gặp chuyện đau khổ,
nguy nan, chúng ta liền nghĩ ngay đến Quán Thế Âm Bồ-tát như một niềm an ủi,
động viên về tinh thần. Đến lúc mất (chết) thì nương nhờ vào Địa Tạng Bồ-tát
mong Ngài xót thương đưa đường dẫn lối thoát khỏi nơi đau khổ của chốn địa
ngục. Đời người còn việc gì lớn lao hơn sống và chết, như trong “Ngũ phước lâm môn”, mọi người hay mong
cầu không ngoài mục đích lúc sống mạnh khỏe, bình an, phát tài, làm việc tốt,
lúc chết được tốt lành(không bệnh tật). Chính vì thế mà hình tượng danh hiệu
Bồ-tát Địa Tạng cũng được nhiều người biết đến. Vậy ý nghĩa danh hiệu và hạnh
nguyện của Ngài là gì?
Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận
giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ-tát.
Đại:
nghĩa là lớn, to, rộng.
Nguyện: là lời phát nguyện. Nói
cho dễ hiểu là lời thề thốt hứa hẹn của mình về một vấn đề gì đối với ai đó.
Địa: nghĩa là đất, còn được hiểu là tâm địa của con người.
Tạng: nghĩa là hàm tàng, chứa đựng, nơi cất giấu.
Bài Tựa kinh Địa Tạng nói: “Địa
là dày chắc. Tạng chứa đủ”. Kinh Địa
Tạng Thập Luận nói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu
kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương Quảng Thập Luận nói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”.
Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng lại thì Địa là đất, dụ cho bản thể chân
tâm khéo làm nơi nương tựa và sanh trưởng vạn pháp. Tạng là hầm báu, kho báu.
Địa Tạng nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có
thể đem bố thí khắp khiến chúng sanh đồng được vô lượng công đức.
Vương: nghĩa là vua. Do bởi lời phát nguyện cao thâm rộng lớn khó
hành “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ
đề” nên Ngài được “chư Phật ba đời đồng khen chuộng. Mười phương Bồ- tát chung tin tưởng”là vua trong các vị Bồ tát.
Bồ-tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta-bà
bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sanh. Tuy nhiên đa số chúng ta
biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ-kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm
tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ Tỳ-lư quán đảnh, đứng hoặc
ngồi trên con đế-thính. Sở dĩ Ngài hiện thân tướng Tỳ-kheo, do vì bản nguyện
của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử, nên Ngài mang hình ảnh một vị xuất gia giải thoát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát – ảnh minh họa
Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười
hai khoen để nói lên ý nghĩa rằng, Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên (Vô minh, Hành, Thức,
Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão tử) để giáo hóa chúng sanh. Tay
trái Bồ-tát cầm hạt minh châu biểu thị Trí tuệ. Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn
thường soi sáng tất cả chốn u minh (địa ngục), khiến cho chúng sanh hiện đang
bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát khỏi ngục hình.
Con đế thính mà Bồ-tát cưỡi là linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì
biết rõ tất cả sự vật trong trời đất. này biểu trưng ý nghĩa rằng Ngài là vị đã
nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.
- Hạnh nguyện của Địa Tạng Bồ-tát.
Trên bước đường tu hành, nếu như muốn
đạt đến ngôi vị Phật quả, đều phải trải qua giai đoạn hành Bồ-tát đạo, nghĩa là
mỗi vị Bồ-tát như Quán Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền, Di-lặc, v.v… đều phải
phát những hạnh nguyện độ sanh. Tùy theo từng vị mà phát những hạnh nguyện khác
nhau, có vị phát nhiều hạnh nguyện, có vị phát ít hạnh nguyện, tất cả không
ngoài mục đích là cứu độ chúng sanh, ban vui, cứu khổ mọi loài. Trong đó, thệ
nguyện của Bồ-tát Địa Tạng thì sâu dày, rộng lớn hơn so với các vị Bồ-tát khác.
Điều này đã được xác quyết trong kinh Địa
Tạng, phẩm Kiên Lao Địa Thần, thứ
mười một. Kiên Lao Địa Thần đã đối trước Phật nói rõ điều này: “Bạch
Thế Tôn, từ trước đến nay con đã từng đảnh lễ chiêm ngưỡng vô lượng vị Đại
Bồ-tát, đều là những bậc trí tuệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn, độ khắp tất
cả loài chúng sanh. Tuy nhiên ngài Địa Tạng Bồ-tát đây so với các vị Bồ-tát
khác chỗ thệ nguyện rộng sâu hơn”. Chúng ta thấy lý tưởng và công hạnh
của ngài Địa Tạng Bồ-tát được đức Phật mô tả rất nhiều qua các kinh điển Đại
thừa như: Phật Thuyết Đại Phương Quảng
Thập Luân kinh, Đại Thừa Đại Tập Địa
Tạng Thập Luân kinh, Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo kinh, Phật thuyết
La-ma-già kinh, Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm kinh-Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm,
Hoa Nghiêm Thập Địa kinh, Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán kinh, Phật Thuyết Bát Đại Bồ-tát kinh, v.v…
Đặc biệt, trong Địa
Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện kinh, Đức Phật kể lại những chuyện tiền thân của
Bồ-tát Địa Tạng trong khi hành Bồ-tát đạo, phát thệ nguyện cứu khổ chúng sanh.
Qua đó, chúng ta thấy được hạnh nguyện vĩ đại của Ngài. Hạnh nguyện nổi bật đó
không ngoài hai điểm: tinh thần hiếu đạo và tâm nguyện độ tận pháp giới chúng sanh. Điều này thể hiện qua bốn phẩm kinh
sau:
1. Phẩm thứ nhất: “…Trong vô lượng kiếp về trước, ngài
Địa Tạng là một vị trưởng giả. Nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ, được
sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị trưởng giả
này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì
những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho
chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật đạo”.
2. Cũng trong Phẩm thứ nhất: “…Vào thời quá khứ vô số
kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của
Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ
của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết
bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, đã làm vô
lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu
giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô
biết là mẹ của cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô
cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi
nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai, những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi
lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.
3. Phẩm thứ tư: “…Trong hằng hà sa số kiếp về trước,
thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất
đức độ, thương dân… nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua
hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ, làm cho
đều đặng an vui chứng quả Bồ Đề, thì tôi nguyện chưa chịu thành Phật”.
4. Phẩm thứ tư: “…Vô lượng kiếp về thuở quá khứ, thời
đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ tên Quang Mục có
nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người tạo vô số ác nghiệp. Khi
mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho
mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị Thánh này đã cho biết
rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi người, nhưng vẫn còn
chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết yểu… Vì lòng thương
mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát
nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế
giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi
nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa
ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v… Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật
cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác”.
Qua bốn lần phát đại nguyện thì trong đó có đến hai
lần Địa Tạng Bồ-tát vì hiếu đạo cứu độ mẹ mà phát thệ nguyện. Chính vì thế,
tông chỉ bộ kinh này được Hòa thượng Tuyên Hóa tóm tắt trong tám chữ: “Hiếu
đạo – Độ sanh – Bạt khổ – Báo ân”. Do vậy kinh này cũng được gọi là
Hiếu kinh của Phật giáo. Nội dung bộ kinh này, đức Phật thuyết giảng về công
hạnh tối thắng của Địa Tạng Bồ-tát qua những tiền kiếp của Ngài, đặc biệt là
hiếu hạnh và sự độ sanh của Ngài. Trong kinh Đại thừa, đức Phật đã từng nói: “Tất
cả chúng sanh là cha mẹ ta trong quá khứ và là chư Phật ở vị lai”. Với
trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô
tận, cộng với lời phát nguyện vĩ đại “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Chúng
sanh độ tận phương chứng Bồ đề.” của Ngài, thì hình ảnh và hạnh nguyện
của Ngài đã phần nào phát họa minh chứng câu nói trên của đức Phật.
Ngày nay, hàng Phật tử chúng ta mỗi
khi niệm danh hiệu Ngài, nên phải nhớ tưởng đến những công hạnh, thệ nguyện vĩ
đại ấy. Chúng ta phải học theo, lấy Ngài làm tấm gương soi sáng cho chúng ta
noi theo. Khi gặp chúng sanh nào đang khó khăn, đau khổ, chúng ta phát khởi từ
tâm giúp đỡ trong khả năng của mình có thể, làm được như thế thì khi niệm danh
hiệu Địa Tạng mới tròn đầy viên mãn công đức, sẽ cảm ứng đạo giao với Ngài.
Nếu như danh hiệu Quán Thế Âm tiêu
biểu cho đức tính Từ bi thì danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát tiêu biểu cho hạnh Nhẫn
nhục. Vì từ trên ý nghĩa danh hiệu chúng ta thấy được điều này. Địa là đất, cho
dù chúng ta đổ nước dơ (bẩn) hay sạch sẽ thì đất vẫn hấp thụ, không một lời
khen chê, oán trách, giận hờn. Ngược lại với tấm lòng bao dung rộng lớn của
mình, đất còn là nơi dung chứa sự sinh sống, phát triển của các động vật, thực
vật. Địa còn có nghĩa là Tâm (tâm tánh). Trong cuộc sống hằng khi Phật tử chúng
ta đối người, đối sự, đối vật phải có tâm nhẫn nhục giống như đất, không bị
những tiếng khen-chê, được-mất, hơn-thua, đúng-sai, phải-trái, v.v… làm động
tâm. Nếu làm được như thế thì mọi công đức, phước đức cũng đều từ tâm này mà
sinh ra.
Như phần trên người viết đã đề cập,
danh hiệu Phật biểu thị cho tánh đức. Còn danh hiệu Bồ-tát biểu thị sự tu đức.
Tánh đức của chúng ta là Từ bi và Thanh tịnh. Khi mê, tánh đức của tự tánh
không hiển hiện, chẳng hạn bản tánh của chúng ta là đại từ đại bi, hiện tại
chúng ta đối với người, với vật, một chút tâm từ bi cũng không có; tự tánh của
chúng ta vốn thanh tịnh, hiện tại một ngày từ sớm đến tối bị nhiễm phải danh
văn (danh tiếng), lợi dưỡng (vật thực), ngũ dục (tiền tài, sắc đẹp, địa vị, ăn
uống, ngủ nghỉ), lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nghĩa là mắt thấy
sắc đẹp, xấu; tai nghe âm thanh khen, chê; mũi nghe mùi thơm, thối; lưỡi nếm
mặn, ngọt; thân xúc chạm êm ấm, mềm dịu, khô cứng. Ngày nay, chúng ta đã quên
mất tánh đức từ bi và thanh tịnh của ta vốn sẵn có từ lâu; do đó khi tiếp xúc
với ngũ dục liền bị nó làm mê muội, gây ra không biết bao nhiêu là tội. Để rồi
luân hồi trong sanh tử triền miên, mất thân thọ thân như bánh xe quay vòng lên
cao rồi lại xuống thấp. Vì vậy, niệm danh hiệu Bồ-tát (tu đức) nhằm giúp chúng
ta khơi dậy, đánh thức tánh đức của chính mình. Thực hành theo hạnh nguyện của
các Ngài.
V. Ý NGHĨA CỦA NHỮNG VẬT
ĐƯỢC THỜ CÚNG
Phật
giáo không phải là một Tôn giáo, mà là một nền giáo dục, giáo học thực tiễn,
thiết thực nhất trong cuộc sống, nhằm mục đích giúp chúng sanh tu nhân học
Phật, chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Chính vì thế, Phật giáo là
một trường học, còn các danh hiệu Phật, Bồ-tát, cũng như những vật được thờ
cúng như bông, trái cây, nước, nhang, đèn, v.v.. là các môn học trong trường.
Nhằm tránh tình trạng cho rằng Phật giáo mê tín, dị đoan, chỉ biết van xin, cầu
nguyện; cũng để giúp hàng Phật tử chúng ta hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu chân thật
về nền giáo học của Phật giáo, người viết
xin giải thích sơ lược về ý nghĩa của những vật được thờ cúng.
V.1. Ý nghĩa của
việc cúng hoa
Cúng
hoa trước tượng Phật tượng trưng cho việc tu nhân. Thế gian hay Phật pháp đều không
rời nhân quả, đều dựa trên nền tảng của nhân quả. Đa số các loại hoa cùng có
chung mục đích, đó là tỏa ra hương thơm. Thấy hoa, chúng ta nghĩ ngay đến việc
phải tu nhân thiện, bằng những việc làm có ích cho mọi người, mọi loài. Có thế,
tương lai chúng ta mới gặt hái quả tươi tốt. Trong cuộc sống hằng ngày, khi ứng
xử, giao tiếp với mọi người, ta cần phải tỏa ra hương thơm của đức hạnh, phẩm
chất, làm tấm gương sáng cho người noi theo.
Bình
bông cúng Phật – ảnh minh họa
Tham,
sân, si là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Chính vì chưa hiểu được Phật pháp,
nên Phật tử thường đến chùa thắp nhang cầu chư Phật, Bồ-tát gia hộ cho việc làm
ăn được phát tài, được mạnh khỏe. Nhưng mấy ai được như ý! Phải chăng Phật,
Bồ-tát không linh, không gia hộ, không che chở cho mình và gia đình? Trong kinh
Đại thừa, đức Phật dạy: “vạn pháp giai không, nhân quả bất không”
(Tất
cả pháp đều không chân thật, đều hư giả, chỉ có nhân quả là chân thật, đúng đắn).
Nghĩa là, nhân quả của mỗi người thì tự mình thọ nhận, chứ chư Phật,
Bồ-tát không thể giúp được. Thiện nhân
có thiện quả, ác nhân có ác báo, gieo gió nhất định gặp bão, ai ăn đấy no, ai
tu đấy chứng, v.v… Trong Phật pháp đại thừa, hoa tượng trưng cho Lục độ vạn
hạnh của Bồ-tát, tức Bố thí – Trì giới –
Nhẫn nhục – Tinh tấn – Thiền định – Bát nhã.
- Thứ nhất là
Bố thí: gồm:
- Bố thí tài:
v Ngoại tài: chúng ta đem những tài sản như tiền bạc,
những vật ngoài thân thể để giúp đỡ những người nghèo khó khổ, trong khả năng
của mình có thể làm được.
v Nội tài: hiện nay trong xã hội có chương trình hiến
máu nhân đạo, Phật tử có thể hiến máu của mình cho những người bệnh; hoặc đem
sức khỏe, thể lực, tinh thần của mình để phục vụ nghĩa công (làm những việc từ
thiện) như trông nom chăm sóc những người bệnh, già, neo đơn v.v… Phật dạy: bố
thí nội tài công đức lớn hơn bố thí ngoại tài. Nhưng điều quan trọng là chúng
ta làm với tâm từ bi, giúp đỡ, không mong cầu danh lợi, tiếng tăm, không cầu
hồi báo, không mong sự biết ơn, không thấy mình thí, không thấy người nhận thí,
không thấy vật để thí, thì công đức mới tròn đầy viên mãn. Đó gọi là Bố thí
Ba-la-mật. Nếu Phật tử làm được hạnh bố thí như vậy thì kết quả sẽ được giàu
sang, được nhiều người kính mến, yêu thương.
- Bố thí pháp:
Là đem
tiền bạc của mình dùng vào việc ấn tống kinh sách, tượng Phật, biếu tặng đến
mọi người. Hoặc đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quý
báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác, đó là dùng khẩu giáo. Hoặc
y theo giới luật của Phật mà tu hành thành thật, làm khuôn mẫu cho người bắt
chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh…, đó đều là pháp thí, gọi là thân
giáo. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, vì tài thí chỉ có thể
giúp người khác lúc túng thiếu về phương diện vật chất trong một thời gian nhất
định, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí thì có thể giúp
đỡ mọi người rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người
nghèo khó, mà cả người giàu sang, không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một
giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời nhiều kiếp về sau.
c. Bố
thí vô úy:
Vô úy
là không sợ hãi. Đem sự bình an, niềm vui, hạnh phúc đến mọi loài, như an ủi,
phóng sanh. Cổ đức khuyên dạy ăn chay là việc làm tốt nhất đem đến sự không sợ
hãi đến với chúng sanh. Phật tử làm được ba việc bố thí trên, như Bố thí tài sẽ
được giàu sang. Bố thí pháp được thông minh,
trí tuệ. Bố thí vô úy được khỏe mạnh, sống lâu.
Bố thí
còn được hiểu theo nghĩa rộng, là sự buông xả. Trên con đường tu tập, Phật tử
muốn đạt giác ngộ, giải thoát khỏi lục đạo luân hồi, thì cách tốt nhất là buông
xả năm món phiền não: tham lam, sân giận, ngu si, ngã mạn, nghi.
- Thứ hai là Trì giới.
Trì:
là cầm lấy, giữ gìn.
Giới:
là răn dạy, phòng hộ.
Trì giới nghĩa là giữ gìn những điều răn dạy,
ngăn cấm; gìn giữ những giới luật mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ tử
của Ngài đi vào con đường chân chánh nhằm đạt đến quả vị giải thoát. Người Phật
tử tại gia cần giữ gìn năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm,
không nói dối, không uống rượu). Đây là những điều căn bản của việc tu nhân học
Phật. Nếu người chưa thọ giới thì giữ gìn những hiến chương, pháp luật của nhà
nước đã qui định. Trong cuộc sống, chúng ta làm tròn nghĩa vụ của một người
công dân, gương mẫu trong gia đình và xã hội, hoàn thiện bản thân, để đạt đến
chân-thiện-mỹ.
Là
Phật tử không chỉ giữ những giới cấm của đức Phật đã chế định như không sát
sanh mà ngược lại còn phải phóng sanh những loài vật. Vì tất cả chúng sanh đều
có bản chất ham sống và sợ chết, đều có chung một Phật tánh, đều có thể thành
Phật. Do vậy Phật tử chúng ta cần giảm tối thiểu sự sát sanh trong từng bữa cơm
gia đình.
Chúng ta không nên lấy vật của người, vì sẽ gây đau
khổ cho người khác, bởi trong cuộc sống ai cũng quý đồ vật của mình. Ngược lại,
ta còn phải giúp đỡ người khác, ví như thấy những người nghèo khổ, bệnh tật, ta
nên chia sẻ và đồng cảm với họ. Ca dao Việt Nam có những câu: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong
một nước phải thương nhau cùng, v.v…”
Không
tà dâm, nghĩa là trong gia đình thì vợ chồng sống phải có sự yêu thương, đoàn
kết, thủy chung và tin tưởng lẫn nhau, đối xử với nhau như những người bạn tâm
giao, tri kỷ; không quan hệ tình ái với
người khác, đánh mất đi hạnh phúc gia đình.
Cuộc
sống sẽ tốt đẹp, bình yên nếu như ai ai cũng nói lời yêu thương, hoan hỷ, nói
lời thật. Vì đó là chân lý đem đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người xung
quanh.
Trong
cuộc sống khi giao tiếp với mọi người đôi khi chúng ta cần phải sử dụng đến
rượu, nhưng nên uống biết chừng mực, xã giao để không dẫn đến những tệ nạn xã
hội.
Phật
dạy: “Không làm các điều ác. Siêng làm
các việc lành” là nền tảng cốt tủy của đạo Phật. Đó là trì giới.
- Thứ ba là Nhẫn nhục.
Nhẫn: là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt
nghịch lòng.
Nhục: là điều sỉ nhục, xấu hổ, làm tổn thương đến
lòng tự ái của mình.
Người xưa viết chữ nhẫn (忍) nhằm dụng ý rất lớn. Bên trên là chữ đao (刀– con dao) bên dưới là chữ tâm (心 – con tim). Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết
nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại
thành thắng, dữ thành lành…
Phật dạy: “Tất cả pháp (thế gian và Phật pháp) muốn
thành tựu, đều bắt đầu từ việc nhẫn nhục. Người có tâm nhẫn nhục ít thì thành
tựu ít. Người có tâm nhẫn nhục nhiều, thành tựu lớn”. Ví như ở thế gian
ngày xưa muốn đậu trạng nguyên thì phải khổ công đèn sách mười năm.
Cổ đức
dạy: “Trong trăm hạnh thì Nhẫn nhục đứng đầu. Trăm đức, thì Từ bi là trước
tiên”. Chính vì thế, chúng ta cần phải noi theo những tấm gương đức
hạnh nhẫn nhục của chư Phật, Bồ-tát. Trong phần giải thích ý nghĩa các danh
hiệu Phật, Bồ-tát, chúng ta thấy có một điểm chung, đó là mỗi vị đều có đức
tánh Nhẫn nhục. Đức Phật luôn khen ngợi, tán thán những ai thực hành tính Nhẫn
nhục. Trong kinh, đức Phật Thích-ca nói rằng nguyên nhân Ngài thành Phật trước
đức Phật Di-lặc cũng bởi vì hơn đức hạnh Nhẫn nhục này. Truyện kể dưới đây minh
chứng điều đó:
Tiên Nhân Nhẫn
Nhục[5]
Một hôm, ngài A-nan bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, do
nhân duyên gì mà ngài A-nhã Kiều-trần-như được nghe pháp đầu tiên?”.
Đức Phật dạy: Vào thời quá khứ xa xưa, có một nước
rộng lớn, dân chúng đông đúc, giàu vui. Cai trị nước này là một nhà vua tên
Ca-lợi rất ham chơi. Vào mùa xuân, trăm hoa đua nở, cây cối xanh tươi, khí hậu
ấm áp vua cùng các quan đại thần, cung phi mỹ nữ, nhạc công đi vào rừng đàn
hát, vui chơi, ăn uống và nghỉ trưa dưới bóng cây râm mát.
Trong lúc vua đang nghỉ thì các cung phi mỹ nữ đi hái
hoa trái. Họ đi theo dòng suối nước chảy trong veo. Hai bên bờ suối có những
cây cao lớn xanh tươi, nhiều hoa dại, trái ngon. Đi một đoạn, các cung nữ gặp
một vị tiên nhân đang tọa thiền trên tảng đá, dưới tàng cây râm mát bên bờ
suối. Các cung nữ hái hoa trái đem dâng cúng và quỳ xuống đảnh lễ ngài và xin
ngài được nghe pháp. Vị tiên nhân từ bi thuyết pháp cho các cung nữ nghe. Lời
thuyết pháp của vị tiên nhân rất hay làm cho các cung nữ nghe mê say, quên mất
nhà vua. Nhà vua sau khi thức dậy không thấy các cung nữ nên cùng với các quan
đại thần đi tìm. Đi ngược theo dòng suối một đoạn thì gặp các cung nữ đang quỳ
xung quanh vị tiên nhân nghe pháp. Thấy thế lòng sân hận ghen tức của nhà vua
nổi lên. Vua liền đến hỏi vị tiên nhân: “Ông ở đây làm gì?”.
Vị tiên nhân đáp: “Tôi ở đây tu hành”.
Vua hỏi: “Ông đã đạt được tứ thiền chưa?”
Tiên nhân đáp: “Chưa”.
Vua hỏi tiếp: “Ông đã đạt được tam thiền, nhị thiền
hay sơ thiền chưa?”.
Tiên nhân đáp: “Chưa”.
Nhà vua liền nói: “Như vậy ông chưa chứng được quả
Thánh, vẫn còn phàm phu, còn tham dục. Tại sao dám nói chuyện với các cung nữ?”.
Tiên nhân đáp: “Tôi tuy chưa ly dục, nhưng do nhiếp
tâm thiền định nên dục niệm không khởi”.
Vua liền hỏi: “Đạo là gì?”.
Tiên nhân đáp: “Đạo là nhẫn
nhục”.
Vua nói: “Nếu nhà ngươi nhẫn nhục
thì cho ta xin hai cái lỗ tai”. Nhà vua vừa nói xong, tiên nhân liền cắt hai
tai. Vẻ mặt tiên nhân vẫn không biến sắc. Nhà vua lại xin hai tay và tiên nhân
liền chặt đứt hai tay. Thấy thế các quan can vua: “Xin bệ hạ chớ làm hại vị
tiên nhân này. Vị tiên nhân này là đại sĩ, vì khi chặt tay nét mặt vẫn không
thay đổi”.
Nhà vua lại càng giận hơn và nói:
“Vậy để ta xin hai chân nữa coi có biến sắc không?” Vua liền chặt đứt hai chân
tiên nhân, khiến máu chảy lai láng.
Tứ Thiên vương thấy vậy bất bình,
nổi giông gió định đánh chết nhà vua. Vị tiên nhân ngửa mặt lên trời nói: “Xin
các vị thần đừng làm hại vị vua này”.
Nhà vua thấy giông gió bão tố liền sợ nên quỳ xuống
xin sám hối thưa rằng: “Xin ngài tha thứ cho tội lỗi của tôi. Xin đừng giận
tôi”.
Vị tiên nhân nói: “Thật tình thì tôi không giận nhà
vua”.
Nhà vua thưa: “Ngài nói không giận nhưng hiện tại thân
thể ngài bị đứt lìa, máu me lai láng mà ngài nói không giận thì tôi không tin”.
Vị tiên nhân bèn phát nguyện rằng: “Xin mười phương
chư Phật chứng minh. Nếu trong lòng tôi không giận nhà vua, thì xin cho thân
tôi bình phục lại như cũ”. Lạ lùng thay, khi vị tiên nhân vừa phát nguyện xong
thì máu biến thành sữa, thân thể bình phục lại như trước.
Nhà vua hỏi vị tiên nhân: “Ngài tu nhẫn nhục như vậy
có ích gì?”.
Vị tiên nhân nói: “Mục đích cầu thành Phật để cứu độ
chúng sanh”.
Nhà vua lễ bái và phát nguyện: “Nếu khi ngài thành
Phật thì xin độ tôi trước”.
Phật dạy: Vị tiên nhân nhẫn nhục là tiền thân của ta,
còn vua Ca-lợi là tiền thân của ông Kiều-trần-như. Do quá khứ ông phát nguyện
như thế nên đời này gặp ta và nghe pháp đầu tiên.
“Vua Ca-lợi ngày xưa độc ác,
Nổi sân si làm hại tiên
nhân.
Tiên nhân trong dạ không hờn,
Phát nguyện thành Phật độ người trước tiên”.
Nhờ hạnh nhẫn nhục này mà đức Phật
Thích-ca Mâu-ni trở thành vị Phật thứ tư trong hiền kiếp và thọ ký cho Bồ-tát Di-lặc
trở thành vị Phật thứ năm trong tương lai. Phật dạy: “Một ngọn lửa nhỏ có thể thiêu
cháy đám rừng. Cũng vậy, người tu
hành nếu như có tâm sân giận sẽ thiêu cháy hết tất cả công đức tu tập”.
Chính bởi tầm quan trọng của hạnh Nhẫn nhục, Phật tử chúng ta trong cuộc sống
hằng ngày khi đối người, đối sự, đối vật phải luôn phản tỉnh, tự làm chủ bản
thân của mình, dùng tâm hoan hỷ, hòa nhã trong giao tiếp ứng xử với mọi người
xung quanh. Làm được như vậy mới
đúng là người Phật tử của Như Lai.
Khổng Tử nói: “Tiểu
bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Việc nhỏ mà không nhẫn được, thì việc lớn ắt
sẽ hỏng). Tóm lại, chữ “nhẫn”, ngoài ý nghĩa chịu đựng, điềm tĩnh, còn được hiểu
là tha thứ, từ-bi-hỷ-xả. Nhẫn là độ lượng, khoan dung, nhận đúng bản chất mà
kiên tâm nhẫn nại… Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người.
- Thứ tư là Tinh tấn.
Tinh: là
tinh chuyên (ròng rặt), không có xen tạp.
Tấn: là tiến tới mãi mãi không
dừng, không gián đoạn hay thoái lui.
Hai chữ tinh tấn nói theo nghĩa
thông thường là siêng năng chuyên cần. Nhà thơ Lỗ Tấn có viết: “Trên
đường thành công không có vết chân của người lười biếng”. Cũng vậy, trên bước đường
tu học Phật pháp, chúng ta cần phải lấy sự tinh tấn làm chìa khóa để mở những
cánh cửa giác ngộ, giải thoát. Trong kinh kể câu chuyện như sau: Có lần đức Thế
Tôn quở trách vị đệ tử A-nan-luật đã buông lung, phóng dật, giải đãi trong tu
tập, Ngài nói “Than ôi ông ham ngủ. Như sò ốc trong vỏ. Ngủ
một giấc ngàn năm. Không nghe danh hiệu Phật!”. A-na-luật nghe xong,
trong lòng rất hổ thẹn bèn phát nguyện tinh tấn tu hành không ngủ nữa. Cuối
cùng ngài đã chứng quả A-la-hán trong bảy ngày.
Trong lời di huấn cuối cùng trước
khi đức Phật nhập Niết-bàn: “Hỡi các người! Hãy tinh tấn lên để giải
thoát. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Phật tử cần nên siêng năng làm
những việc có lợi ích cho mọi người. Nếu còn nhỏ phải siêng năng học tập để
thành đạt nhằm báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ.
- Thứ năm là Thiền định.
Thiền: phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền-na, xưa dịch
là tư duy, nay dịch là tĩnh lự. Tu tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp
suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có
nghĩa là dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp.
Định: phiên âm theo tiếng Phạn là Tam-muội, có nghĩa
là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn. Vậy
Thiền định có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tán
loạn, để tâm thể được vắng lặng.
Như chúng ta nấu một bữa cơm cho gia đình, cần phải
chú tâm, đặt tâm huyết của mình vào đó để có bữa cơm ngon, bổ. Khi mọi người ăn
đều sanh tâm hoan hỷ. Trong vấn đề tu tập cũng vậy, Phật tử cần chú tâm vào
thời khóa tụng niệm để đạt được kết quả tốt.
Tùy vào căn cơ của từng chúng sanh, mà
đức Thế Tôn ứng cơ thuyết pháp. Tam tạng kinh điển mà Ngài để lại với 84000
pháp môn tu khác nhau. Đức Phật nói:“ Nước trong bốn biển chỉ có một vị, ấy là vị
mặn. Cũng như thế đó, giáo pháp của ta tuy có muôn ngàn phương tiện pháp môn,
nhưng duy nhất chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát”. Chính vì thế,
chúng ta thấy mình phù hợp với pháp môn nào: Thiền, Tịnh, Mật, v.v…thì nên
chuyên tâm nghiên cứu, tìm hiểu, tu tập để đạt được kết quả tốt. Ở thế gian
chúng ta thấy cùng là ngành giáo viên, nhưng mọi người đều chuyên khoa một môn,
người thì chuyên khoa văn, người thì chuyên khoa toán,v.v…Trong Phật pháp cũng
vậy, nhắc đến Quán Thế Âm Bồ-tát chúng ta liền nghĩ ngay đến hạnh nguyện Từ bi,
Địa Tạng Bồ-tát thì Nhẫn nhục, Văn Thù Bồ-tát thì Trí tuệ, Phổ Hiền Bồ-tát thì
Thực hành, Di Lặc Bồ-tát thì Hỷ xả, v.v… Cùng là Đẳng giác Bồ tát, các Ngài đâu
chỉ có một hạnh nguyện riêng biệt. Ví như Quán Thế Âm Bồ-tát ngoài hạnh nguyện
Từ bi Ngài còn có vô lượng hạnh nguyện khác như Nhẫn nhục, Trí tuệ, Thực hành,
Hỷ xả của các vị Bồ tát khác. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Một
là tất cả, tất cả là một”. Ngày nay, mỗi khi chúng ta nhắc đến Hòa
thượng Nhất Hạnh thì nghĩ ngay đến pháp môn Thiền, nhắc đến Hòa thượng Trí Tịnh
thì nghĩ ngay đến pháp môn Tịnh độ, nhưng ngoài pháp môn Thiền Hòa thượng Nhất
Hạnh cũng biết pháp môn Tịnh độ, và ngoài pháp môn Tịnh độ Hòa thượng Trí Tịnh
cũng biết pháp môn Thiền. Bởi thế, Cổ đức dạy: “Một môn thông rồi thì tất cả môn
đều thông”. Các Ngài đều là những tấm gương sáng, cho người học đời sau
học theo, thực hành theo. Vậy mà, hàng Phật tử chúng ta ngày nay thì pháp môn
nào cũng muốn học, cũng muốn tu, nhưng rồi có đạt được thành tựu gì không?
Chúng ta phải tự hỏi, tự kiểm điểm lại mình. Người xưa có câu: “Một
nghề cho chín còn hơn chín nghề”. Cổ đức dạy: “Nhứt môn thâm nhập, trường thời
huân tu”. Tóm lại, thiền định được hiểu trong cuộc sống cũng như trong
vấn đề tu hành tu tâm chúng ta luôn kiên định, vững vàng trước mọi hoàn cảnh,
được – mất, hơn – thua, đúng – sai, phải – trái, khen – chê. Đó là chúng ta tu
thiền định.
- Thứ sáu là Trí huệ.
Trí: phiên âm chữ phạn là Phã-na,
nghĩa là quyết đoán.
Huệ: phiên âm chữ Phạn là
Bát-nhã, nghĩa là giản trạch (chọn lựa).
Thông minh có thể hiểu là một
phần nhỏ của trí huệ. Nhưng trong Phật pháp thì trí tuệ là do từ công phu tu
tập, nhờ giữ giới mà được thiền định, định phát sanh trí tuệ. Đây mới là trí
tuệ chân thật, đúng đắn, cứu cánh. Trong xã hội có rất nhiều chuyện không như ý
muốn của mình, chúng ta cần phải đầy đủ trí tuệ để giải quyết mọi công việc một
cách tốt đẹp; phân biệt được đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái, v.v… Trong
gia đình những bậc làm cha mẹ thường dùng tình cảm để thương yêu con cái tuy
nhiên, đôi lúc cũng cần phải dùng lý trí để răn dạy con cái điều hay lẽ phải để
chúng biết ứng xử với mọi người xung quanh.
Đức Phật thuyết pháp rất khế lý, khế cơ. Khế lý là phù
hợp với chân lý. Khế cơ là phù hợp với căn cơ của chúng sanh. Phật tử chúng ta
cần phải có trí tuệ để phân biệt chọn pháp môn thích hợp với căn cơ của mình,
nhằm tu tập được kết quả đem lại lợi ích cho mình và mọi người.
Kinh Pháp cú, đức Phật dạy:
“Hương các loài hoa thơm
Không bay theo ngược gió
Hương người đức hạnh đó
Ngược gió
bay muôn phương”.
“Hương người đức hạnh đó”, đức Phật
dạy cho người xuất gia và tại gia chứ không riêng một đối tượng nào. Mỗi khi
nhìn thấy hoa, chúng ta nên liên tưởng đến việc tu nhân thiện bằng cách áp dụng
pháp tu Lục độ vào trong cuộc sống, dùng tâm từ bi, yêu thương, chia sẻ, cảm
thông đối với mọi người xung quanh. Nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “sống
trong đời sống cần có một tấm lòng để gió cuốn đi” 2 chữ tấm “tấm lòng” ở đây hàm ý phải chăng cố nhạc
sĩ muốn nhắc nhở chúng ta cần có một trái tim yêu thương, chia sẻ.
V.2. Ý nghĩa của
việc cúng quả (trái cây)
Cúng quả tượng trưng cho kết quả, quả báo từ việc tu
hoa Lục độ mà thành. Phật tử thường thực
hành hạnh bố thí đến mọi người, mọi loài thì quả báo đối với bản thân là phát
tài, thông minh, mạnh khỏe, sống thọ. Đối với mọi người xung quanh là việc đem
lại niềm vui, niềm hạnh phúc.
Giữ được hạnh trì giới, thì thân – khẩu –
ý được thanh tịnh, an lạc, ngăn ngừa được các hạnh nghiệp xấu ác, được mọi
người xung quanh hoan hỷ tin tưởng, kính trọng. Phật dạy: “Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng
ra”. Hiện nay, ngoài xã hội có rất nhiều loại bệnh kỳ lạ, những cuộc xảy
ra bất hòa, chiến tranh đều do bởi từ cửa miệng.
Trái cây cúng
Phật – ảnh minh họa
Không có gì giá trị, lớn lao và quý báu hơn công đức
nhẫn nhục. Không có gì nguy hiểm, tai hại hơn sự nóng giận, cộc cằn. Chúng phá
hủy hết mọi công đức của chúng ta trên đường tu tập. Trong kinh, Phật dạy: “Tham
lam, quả báo đọa ngạ quỉ; nóng giận quả báo đọa địa ngục; ngu si quả báo đọa
súc sanh”. Người có tính hay nóng giận thường bị mọi người xa lánh.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”
hay một nhà bác học nói rằng: “Thiên tài: 1% là bẩm sinh, còn 95% là khổ luyện, cần cù, siêng năng”.
Ngạn ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Cầu học như nghịch thủy hành châu, bất tấn
tắc thoái” (Cầu học như chèo thuyền ngược nước, chẳng tiến ắt lùi). Do
đó chúng ta biết rằng sự nghiệp ở thế gian, hay trong Phật pháp muốn đạt thành
tựu, điều không thể thiếu yếu tố quan trọng là sự siêng năng, cần cù, tinh tấn
đối trị lại với giải đại, phóng dật. Bồ tát thành Phật sớm hay muộn đều quyết
định ở sự tinh tấn. Tinh tấn được ví như xăng dầu làm cho chiếc xe hơi chạy.
Động cơ dù tốt, người lái dù giỏi, con đường dù bằng phẳng, mục đích dù gần, mà
không dầu xăng thì chiếc xe vẫn ở nguyên một chỗ.
Tập trung tâm ý vào một công việc, một đối tượng, cộng
với sự siêng năng, tinh tấn giúp chúng ta hoàn thành công việc một cách tốt đẹp
và nhanh chóng, đó là thiền định. Tất cả pháp môn trong Phật pháp đều không rời
yếu tố thiền định. Hành giả tu học có sự thiền định sẽ không bị đắm nhiễm bởi
cảnh duyên danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần.
Đạo Phật có câu: “Lấy từ bi làm lẽ sống. Lấy trí tuệ làm sự
nghiệp”. Vô minh là nguồn gốc của khổ đau, của sanh tử luân hồi. Do đó
trên bước đường học Phật giải thoát cần có gươm trí tuệ để chặt phá vỏ vô minh,
tát cạn sông phiền não. Trong ứng xử giao tiếp với mọi người, chúng ta phải có
đủ sự sáng suốt để phân biệt đúng-sai, tốt-xấu, phải-trái, v.v… để tránh những
chuyện không tốt xảy ra cho bản thân, gia đình, xã hội.
Thế gian hay Phật pháp đều không rời lý nhân quả. Nhân
quả là nền tảng căn bản thiết thực của chân lý vũ trụ. Chúng ta muốn ăn trái
mít thì phải trồng cây mít. Nhìn thấy hoa phải tu nhân thiện thì quả báo sẽ
hưởng là thiện quả. Đó là ý nghĩa của việc cúng hoa, trái cây cho Phật.
Hiện nay, trong xã hội nhiều người quan niệm rằng có một
số loài hoa, trái cây không thể dùng cúng dường Phật, vì họ nghĩ rằng sẽ đem
đến những điều không tốt, không may mắn cho bản thân, gia đình. Đây là một quan
niệm sai lầm, không đúng. Truyện kể rằng: Thời Phật còn tại thế, một hôm có đứa
bé cúng dường đến Phật một nắm cát, Phật liền thọ nhận và thọ ký cho đứa bé sau
này sẽ trở thành vị vua (tức là vị vua A-dục). Hoặc trong một câu chuyện khác,
một hôm đức Thế Tôn đi vào thành khất thực, có anh chàng Ba-lia nghèo khổ đã
không ngần ngại đem nửa chén cơm và nửa bát canh thừa của mình cúng dường lên
đức Phật, Ngài liền thọ nhận. Do đó, chúng ta thấy rằng cúng dường đến Phật là
cúng bằng tấm lòng, sự chân thành, tâm cung kính, chứ không phải bằng hình
tướng vật thể bên ngoài.
V.3. Ý nghĩa của
việc cúng đèn
Mục đích của đèn là tỏa ra ánh sáng. Giúp cho người sử
dụng thấy được những vật xung quanh. Do đó, việc thắp đèn cúng dường Phật được
hiểu là thiêu đốt chính mình, chiếu sáng kẻ khác; nghĩa là Phật tử đem những
lời dạy từ trong kinh điển của đức Phật áp dụng vào cuộc sống, dùng thân giáo
làm tấm gương sáng cho mọi người học theo, noi theo, để cùng nhau được giải
thoát.
Đèn cúng Phật – ảnh minh họa
V.4. Ý nghĩa của việc thắp nhang (đốt hương)
cúng Phật
Đốt hương tượng trưng cho việc truyền tín hiệu. Ngày xưa
việc truyền tín hiệu không dễ dàng như bây giờ, chúng ta muốn báo tin vui hay
cầu cứu một việc gì ở nơi xa thì chỉ cần đốt lửa, nhờ làn khói bay lên cao để
làm tín hiệu truyền đi. Ngày nay Phật tử đốt hương cúng Phật cũng đồng ý nghĩa
như thế. Chúng ta báo tin đến chư Phật, Bồ-tát biết rằng: “Hiện con đang đứng
trước hình tượng Ngài, con nguyện học theo, hành theo những hạnh nguyện của
Ngài”.
Ngoài ra, việc đốt hương còn là phương pháp nhắc nhở
người học Phật chúng ta phải tu Giới, Định, Huệ. Tam tạng kinh điển mà đức Thế
Tôn để lại cho hàng đệ tử của Ngài không ngoài khuyến tu Giới, Định, Huệ. Trong
sách Vạn Đức Pháp Ngữ, Hòa thượng Trí
Tịnh dạy: “Người học Phật muốn thoát Ta-bà thì cần tu Giới, Định, Huệ”.
Nếu những ai chưa phải Phật tử, chưa qui y Tam bảo thì trong cuộc sống cần
hướng đến sự chân-thiện-mỹ để trở thành một người tốt trong xã hội.
V.5. Ý nghĩa của
việc cúng nước
Đặc tính của nước là trong sạch, phẳng lặng, thuần
khiết. Chính vì thế khi ta cúng nước lên Phật, liền nghĩ đến tâm của ta phải
thanh tịnh, bình đẳng, trong sạch như nước. Trong cuộc sống chúng ta đối nhân
xử thế, ứng xử giao tiếp người, sự, vật, tâm chúng ta không nên có sự phân biệt
giàu-nghèo, sang-hèn, trí-ngu. Như vua Võ Tắc Thiên nói: “Con người lúc mới sinh ra đều
giống nhau, đều bình đẳng. Khi trưởng thành khoác lên mình chiếc áo lông bào
thì gọi là vua. Còn nếu khoác lên mình chiếc áo rách thì gọi là ăn mày”.
Trong nhà Thiền cũng có một mẫu chuyện rất nổi tiếng, đó là: “Lục Tổ Huệ Năng
đến huyện
Huỳnh Mai yết kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn để cầu pháp. Khi gặp, Ngũ Tổ hỏi: “Ngươi từ đâu đến? Đến đây cầu việc gì?”.
Huệ Năng đáp: “Con từ Lĩnh Nam đến.
Đến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì khác”. Tổ tiếp: “Ngươi là người xứ Lĩnh Nam lại là dân man rợ, thành Phật
thế nào được!”. Huệ Năng đáp: “Con
người tuy có phân chia Nam Bắc,
chớ Phật tánh vốn không có Nam
Bắc. Cái thân man rợ này đối với hòa thượng tuy chẳng giống nhau, nhưng cái
tánh Phật đâu có khác!”.
Qua kinh tạng Pàli,
trở về thời Ấn- độ lúc bấy giờ. Đức Phật phủ nhận sự phân chia giai cấp xã hội
và kỳ thị giới tính. Ngài dạy hành động (hay việc làm) nói lên giá trị của mỗi
người là Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá hay Thủ Đà La, mà không phải là dòng dõi
hay chủng tộc. Càng hiểu rõ được cái giá trị tôn trọng quyền bình đẳng tột cùng
của Đức Phật Thích Ca đã nói : “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ,
không có hận thù trong giọt nước mắt cùng mặn”.
Qua ba mẫu chuyện
trên ta thấy cách ứng nhân xử thế của người xưa thật đẹp, thật cao thượng. Ngày
nay trong cuộc sống, trong công việc tuy có sự phân biệt giám đốc, nhân viên,
người chủ, giúp việc, v.v…, nhưng nếu chúng ta biết ứng xử với nhau theo tinh
thần “bổn phận của người Phật tử tại gia”
thì cuộc sống sẽ tốt đẹp.
- Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà,
phải có đủ 5 điều:
– Chủ nhà trước khi
sai khiến người giúp việc làm gì, trước phải biết họ đói, no, ấm, lạnh thế nào
để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.
– Lúc nào người giúp
việc bị bệnh hoạn, phải chăm non thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi
bổ sức khỏe lại.
– Khi họ có phạm lỗi
gì, phải xét coi họ cố ý hay vô tình. Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ. Nếu họ
quyết lòng phá hại, thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhã,
cho họ biết lỗi để chừa.
–
Khi họ tiện tặn tích góp được số tiền riêng, không nên tìm cách thâu đoạt.
– Khi muốn thưởng
công lao cho họ, phải giữ mực công bình, tùy công lao của mỗi người mà phân
chia cho cân xứng.
- Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng
phải có đủ 5 điều kiện:
– Mỗi buổi sáng phải
thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu.
– Phải biết phần việc
nào của mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi
hành, không đợi chủ sai bảo.
– Khi làm việc phải
thận trọng đồ dùng của chủ, không làm cẩu thả, hư hao.
– Phải hết lòng kính
mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân cần đưa tiễn; lúc chủ trở về, phải vui mừng
tiếp đón.
– Không nên chỉ
trích, nói xấu chủ với người ngoài.
Ly Nước Cúng Phật – ảnh minh họa
Cúng nước đến Phật,
Hòa thượng Tịnh Không khuyên chúng ta nên cúng ly nước bằng thủy tinh, trong suốt,
có thể từ bên ngoài nhìn thấy nước bên trong. Nên cúng nước suối hoặc nước lạnh,
không nên cúng nước đun sôi để nguội, nước trà hoặc các loại nước có màu. Nhìn
thấy nước chúng ta phải liên tưởng đến tâm thanh tịnh, bình đẳng của chính
mình. Ứng nhân xử thế giao tiếp phải dùng tâm bình đẳng. Ngài nói các vật cúng
khác (bông, trái cây, nhang, đèn,….) có thể thiếu, không cần thiết, nhưng đặc
biệt ly nước cúng Phật thì không thể thiếu. Do tâm thanh tịnh sanh ra công đức,
tâm thanh tịnh sanh trí tuệ, tâm thanh tịnh vượt thoát luân hồi.
V.6. Ý
nghĩa của việc lạy Phật
Theo như trong kinh điển ghi chép lại thì việc lạy
Phật có từ thời đức Thế Tôn còn tại thế. Khi các đệ tử xuất gia, tại gia, các
vua quan, đến dân chúng, mỗi lần được may mắn gặp Đức Phật Thích-ca, đều cúi
xuống ôm chân Phật và đặt trán của mình lên chân Ngài để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn
thờ một bậc tối thượng, bi – trí siêu phàm. Ý nghĩa của việc lạy Phật là tỏ ra
niềm tôn kính, khiêm nhường, hạ thấp mình xuống, trừ cái tâm tự cao, ngã mạn
của chính mình. Có ba cách thức lễ Phật như sau:
- Ngã mạn lễ
Khi lễ Phật mà còn ngạo nghễ kiêu căng, năm vóc không
sát đất (đầu, hai tay, hai chân chạm đất) biểu hiện tấm lòng không thành kính,
ý tưởng vơ vẩn đâu đâu…
- Cầu danh lễ
Khi thấy có đông người thì siêng năng lạy không ngừng
nghỉ, cố ý làm cho kẻ khác chú ý đến mình. Còn lúc không có người thì thân
biếng nhác, tâm giải đãi… Cách lạy như thế này không ích gì, lại thêm mỏi
mệt, thêm nhiều tội lỗi. Người xưa ví cách lạy này như “chiếc cối giã gạo, nhấc lên rồi thả xuống”.
- Thân tâm cung kính lễ
Lúc lễ lạy đặt thân tâm hết lòng thành kính nghiêm
trang, năm vóc sát đất… Cách lễ này đúng pháp. Theo cách lạy của Tịnh độ tông
thì:
Khi lạy xuống, trước tiên úp hai lòng bàn tay xuống
đất. Lạy như thế có ý nghĩa là buông xả tất cả từ vật chất bên ngoài đến ý
tưởng (vọng niệm) bên trong, nhất tâm nhất ý
đặt vào lòng thành kính.
– Sau đó ngửa bàn tay ra, đặt trán của mình lên hai
lòng bàn tay, ý nghĩa là nhằm đón nhận những giáo pháp , những công hạnh, hạnh
nguyện của đức Phật trao cho mình để chúng ta áp dụng thực hành vào cuộc sống
khi đối nhân xử thế với mọi người xung quanh. Lưu ý rằng phần lưng và mông phải
thấp sát xuống, bằng phẳng, như hình cái mặt bàn . (Xin xem đĩa “Oai nghi của người Phật tử tại gia” do
chùa Hoằng Pháp phát hành sẽ rõ thêm).
–
Cuối cùng là úp hai lòng bàn tay xuống đất (trước khi đứng lên), ý nghĩa cũng là
buông xả. Sau khi đón nhận những giáo pháp của Phật trao cho, ta đem thực hành
vào cuộc sống để lợi người lợi mình. Khi xong việc liền buông xả, không nên câu
nệ, chấp cứng vào đó, phải tùy duyên uyển chuyển. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy: “Chánh
pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp. Ngài ví những giáo pháp của mình như chiếc
thuyền, khi đã qua sông, muốn lên bờ thì phải bỏ chiếc thuyền”.
Phật tử lạy Phật – ảnh minh họa
Ấn
Quang đại sư là vị Tổ thứ 13 của Tịnh độ tông. Tương truyền Ngài là Đại Thế Chí
Bồ-tát tái lai, thị hiện ở Ta-bà nhằm giúp A-di-đà Phật giáo hóa, chỉ dạy chúng
sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Trong Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao, Ngài nói: “Tu hành, điểm then chốt quan trọng của sự
thành tựu là lòng thành kính. Một phần thành kính được một phần lợi ích (tiêu
tội nghiệp tăng phước). Mười phần thành kính được mười phần lợi ích”.
Ngạn ngữ Trung Quốc cũng có câu: “thành ư trung nhi hành ư ngoại”
nghĩa là lòng thành từ bên trong tâm thể hiện ra hình tướng bên ngoài. Trong tu
tập vấn đề tụng kinh niệm Phật thì việc có lòng thành vô cùng quan trọng vì trên
sẽ cảm ứng đến chư Phật, Bồ-tát, dưới cảm đến mọi người xung quanh, khi người
khác nhìn vào sẽ có cảm tình, nhờ thế ta dễ dàng cảm hóa được nhiều người.
V.7. Ý nghĩa của việc tụng kinh.
Trong
Tịnh Độ Hoặc Vấn của Thiền sư Thiên Như và Kinh Vô Lượng Thọ của HT. Tịnh Không
ghi: vào thời đức Phật còn tại thế thì việc tụng kinh chưa hình thành. Ngày
ngày đức Thế Tôn nhị thời (bằng 8 tiếng đồng hồ ngày nay) thuyết pháp, với 49
năm hơn 300 hội (thuyết pháp). Hàng đệ tử sau khi nghe xong, thực hành quán chiếu
tư duy tu tập thiền định chứng quả.
Khi Phật giáo từ Ấn Độ
truyền sang Trung Quốc từ năm 67 Tây lịch (niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 – đời
vua Minh Đế nhà Hậu Hán) mãi cho đến vào thời nhà Đường (618 – 907), thiền sư
Bách Trượng Hoài Hải (720 – 814) lập ra thanh qui thiền môn và soạn ra 2 thời
công phu sáng – tối. Mục đích để người đời sau nương vào đó mà tu tập, thúc liễm
thân tâm. Tụng kinh là một trong những phương pháp tu nhằm ôn lại lời Phật dạy,
đồng thời để ba nghiệp được thanh tịnh an lạc. Khi phật tử ngồi tụng kinh, tư thế ngồi bất động để tụng kinh, thân thể chúng ta
đang từng bước trở nên an tịnh, thuần khiết, nhờ đó chúng ta tránh được tất cả
các hành vi xấu ác của thân như giết hại, trộm cướp, tà dâm. Ngoài ra, do miệng
đọc tụng lời kinh, các lời nói mang tính chất sai sự thật, ác độc, thêm bớt và
nói lời vô nghĩa không có cơ hội để phát triển. Khi đọc kinh thì miệng của
chúng ta xướng lên những lời lẽ đạo đức, trí tuệ, nhờ đó chúng ta có cơ hội vun
trồng các hạt giống thiện. Như vậy, trong hành động tụng kinh, chúng ta xa lìa
được mười nghiệp ác, ba của ý, ba của thân và bốn của lời nói. Nói cách khác,
trong khi tụng kinh chúng ta đã huấn luyện ba nghiệp của mình về con đường
lương thiện và đạo đức. Kinh điển của Phật giống như một tấm bản đồ, là kim chỉ
nam hướng dẫn chúng ta sống đời chân chánh, để gặt hái kết quả hạnh phúc ở đời
này và đời sau. Đọc tấm bản đồ để biết được con đường, để đi đúng đường, để đến
đúng đích. Đây là con đường mà ba đời chư Phật đã đi qua, diệt trừ tận gốc rễ
của khổ đau, đạt được an lạc và giải thoát. Cũng để “minh Phật chi lý” hiểu rõ những lời
dạy về chân lý vũ trụ nhân sinh, sanh, già, bệnh, chết, khổ, không, vô thường,
vô ngã, v.v…và đem áp dụng vào cuộc
sống nhằm lợi người lợi mình.
Tụng kinh không phải để cầu nguyện Phật và Bồ tát gia
hộ cho mình, gia đình và thân quyến tai qua nạn khỏi, thăng quan tiến chức, làm
ăn thịnh vượng, tuổi thọ tăng trưởng, sở nguyện tùy tâm, kiết tường như ý. Tụng
kinh cũng không phải là sự mua bán hay trao đổi về sức khỏe, tài sản, giàu sang
và phước báu. Tụng kinh không phải ngày ngày đọc cho Phật nghe – biết là hôm nay
chúng ta có tụng kinh, trả bài cho Phật. Tụng kinh như thế còn có tội thêm. Mà
theo HT. Tịnh Không thì ý nghĩa và giá trị của việc tụng kinh buổi sáng là phản
tỉnh bản thân xem hôm nay đức Phật dạy chúng ta làm những gì, ứng xử giao tiếp
đối đãi người – sự – vật như thế nào, khi chúng ta mang trên người 2 chữ “Phật
tử”. Cũng giống như một học sinh ở nhà học bài, chuẩn bị bài vở trước khi đến
trường học. Tụng kinh buổi tối là kiểm điểm bản thân xem hôm nay đức Phật dạy
những điều gì nên làm chúng ta đã làm chưa, những điều gì Phật dạy không nên
làm chúng ta có sai phạm không, nếu có thì mau mau phản tỉnh tự thân sám hối. Ngài
nói: “kinh điển như một tấm kính”. Mỗi ngày chúng ta thường có thói
quen soi mặt vào tấm kính để xem có vết bẩn trên khuôn mặt. Cũng vậy, chúng ta
đọc kinh để nhằm soi rọi, hóa giải những vết bẩn trong tâm hồn. Để tìm lại con
người thật của chính mình. Tìm lại “bản thiện”, “Phật tánh chân như” bất
sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa và giá trị của việc tụng kinh.
Cũng theo HT. Tịnh Không
thì việc tụng kinh đám ma (chết) có từ năm 755 tức đời Vua Đường Minh Hoàng (Đường
Huyền Tông). Đường Minh Hoàng say đắm Dương Quý Phi (một trong tứ đại mỹ nhân
Trung Quốc), suốt ngày đêm cùng nàng yến tiệc đàn ca, bỏ cả việc triều chính.
Nhà vua lại tin dùng An Lộc Sơn là một võ tướng người Đột Quyết, cho giữ phần
chỉ huy nửa lực lượng quân sự của triều đình.
Bấy giờ, anh Dương
Quý Phi là Dương Quốc Trung nắm giữ toàn quyền binh lực. Thấy An Lộc Sơn như
cái gai trước mắt nên định mưu hại. Năm 755, An Lộc Sơn cử binh từ quận Ngư
Dương đánh thẳng vào kinh đô Trường An, lấy lí do “trừ bỏ gian thần Dương
Quốc Trung”. Trong triều đình lúc bấy giờ phó nguyên soái Quách Tử Nghi
đem binh dẹp tan được cuộc nổi loạn. Thấy quân lính và nhân dân chết nhiều, vua
Đường Minh Hoàng thỉnh quý thầy soạn ra một nghi thức tụng kinh. Sau đó ra
ngoài chiến trận lập đàn siêu độ cho các quân lính, lúc này nhằm năm Khai
Nguyên. Trong dân gian thấy triều đình làm như thế liền bắt chước theo. Từ đó
việc tụng kinh đám được hình thành.
Tuy việc tụng kinh
đám tang không phải do đức Thế Tôn đích thân nói ra, nhưng do vì lòng từ bi nên
chư tổ muốn dùng phương tiện thiện xảo “dĩ giả độ chơn” nghĩa là thông qua lời
kinh tiếng kệ nhằm đánh thức chúng sanh còn đang mê muội quay về với Phật tánh
chân như. Người viết xin dẫn một câu chuyện có thật, chuyện này xảy ra nơi quê
của mình.
Có một gia đình nọ, vợ
chồng đều là tri thức giáo viên. Họ chưa một lần đi chùa, tìm hiểu giáo lý đạo
Phật. Một hôm, trong gia đình có người con trai chết. Qua lời chỉ bày hướng dẫn
của làng xóm, gia đình đến chùa thỉnh quý thầy về nhà tụng kinh siêu độ cho con
trai. Nhờ qua lời kinh tiếng kệ của quý thầy đã đánh thức tâm hồn họ và từ đó
gia đình thường xuyên đến chùa làm công quả, tụng kinh, tìm hiểu giáo lý để tu
tập. Do đó, người viết nghĩ rằng nếu gia đình này không có người con trai chết
thì có lẽ phải đến một thời gian lâu sau, gia đình này mới có cơ hội đến chùa,
tìm hiểu giáo lý đạo Phật.
V.8. Ý nghĩa của
chiếc áo dài lam
Màu lam biểu trưng cho sự giải thoát, nhẫn nhục. Mục
tiêu chung của người học Phật là giác ngộ giải thoát. Tùy vào căn cơ lãnh thọ
của từng người mà đức Phật ứng cơ thuyết pháp, nhằm giúp họ giải thoát khỏi
biển luân hồi sanh tử.
Nhẫn nhục là hạnh tối quan trọng không chỉ đối với
người học Phật mà còn với người chưa quy y Tam bảo. Từ trên ý nghĩa các danh
hiệu Phật, Bồ-tát, ta thấy hạnh nhẫn nhục được các Ngài luôn xem trọng. Trong
kinh Di giáo, Phật dạy: “Nhẫn
nhục là một đức độ cao siêu hơn các đức trì giới và khổ hạnh. Thực hành được
đức nhẫn nhục là bậc đại nhân đầy đủ đạo lực”. Cũng trong kinh Ưu-bà-tắc, phẩm Nhẫn nhục, Phật dạy: “Nếu có người trí ưa tu nhẫn nhục, người ấy dáng
điệu hòa nhã, hằng tươi tỉnh, ưa vui cười, mọi người trông thấy đều hoan hỉ,
nhìn không biết chán”. Trong gia
đình nếu như ba mẹ, anh chị em biết nhẫn nhục với nhau, yêu thương, cha từ con
hiếu, trên kính dưới nhường thì gia đình hạnh phúc, yên vui. Ngoài xã hội, nếu
mọi người đều biết nhẫn nhục, thông cảm, chia sẻ lẫn nhau thì xã hội bình an. Câu tục ngữ của Việt Nam
ta: “Chữ nhẫn
là chữ tương vàng. Ai mà nhẫn được, thì càng sống lâu”. Cũng từ kinh
nghiệm sống mà người xưa có câu nói: “Người
mà chưa biết nhẫn, chưa phải là người hay”. Qua đó, chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của chữ nhẫn là hết sức
to lớn.
VI. KẾT LUẬN
Phật dạy: “Không ai có quyền ban phước hay giáng họa
cho một người nào. Chính suy nghĩ, lời nói, việc làm sẽ đem đến phước hay họa
cho bản thân họ mà thôi”. Những việc ở thế gian hay trong phật pháp như
giàu-nghèo, mạnh khỏe-ốm đau, sống thọ-chết yểu, thông minh-ngu dốt đều không
ngoài định luật nhân quả. Cổ nhân nói: “Một miếng ăn, một miếng uống đều là do nhân
tiền định”. Trong kinh Phật dạy: “Muốn biết nhân đời trước xem quả hưởng đời
nay. Muốn biết quả hưởng đời sau xem tạo tác nhân đời này”.
Nhân quả tương thông ba đời. Chúng ta nếu như đời này
được giàu sang, thông minh, mạnh khỏe, xinh đẹp là do đời trước tu bố thí tài,
bố thí pháp, bố thí vô úy. Ngược lại, đời này nghèo cùng, ngu si, ốm đau, xấu
xí, v.v… là do đời trước thiếu tu. Nếu như chư Phật có quyền ban phước hay
giáng họa cho ai thì chúng ta không cần phải tu nữa, cũng không cần phải lạy
lục, cầu khẩn, van xin. Vì chư Phật, Bồ-tát với lòng đại từ đại bi bao la rộng
lớn, thương chúng sanh như mẹ hiền thương con thơ. Các Ngài sẽ không đợi cho
chúng sanh đến để cầu nguyện, van xin. Ví như ánh trăng nào có chê bai mặt nước
trong mới chiếu bóng, còn nước đục thì không chiếu bóng. Ánh trăng là vật vô
tri mà còn không có tính khen-chê, lấy-bỏ như thế. Ngay như đức Phật khi còn
tại thế còn phải bị luật nhân quả chi phối, không vượt thoát qua được (Ngài bị
đau đầu ba ngày, phải ăn lúa mạch ngựa ba tháng, v.v…) Đó là do cái nhân không
tốt, nhân ác, mà trước khi Ngài thành Phật đã tạo ra.
Thuở xưa vua Tỳ-lưu-ly
cử binh đến đánh dòng họ Thích, đức Thế Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn
giả Mục-kiền-liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì Ngài bảo
đó là định nghiệp. Tôn giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ
Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-ly vương đánh dẹp xong dòng tộc họ Thích,
thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Đây là một sự kiện chứng
minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ. Cho nên chư Phật có ba việc
làm được và ba việc làm không được, gọi là “Tam năng tam bất năng”.
Các điều ấy là:
– Chư Phật có thể
thông tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể diệt được định nghiệp.
– Có thể biết cùng tận
nghiệp tánh của chúng sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị
lai, song không thể độ những chúng sanh vô duyên với Ngài.
– Có thể độ vô lượng
chúng sanh, song không thể độ hết chúng sanh giới.
Sức người cố nhiên là
hữu hạn, nhưng sức Phật vẫn chưa phải toàn năng. Nếu chúng sanh không tín hướng
đức Như Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-tát cũng
không thể hóa độ được. Đức Phật giải
thích rằng vị cứu tinh hay chỗ nương tựa của ta, phải là chính ta chớ không ở đâu khác. Chính
ta là chủ của ta, chứ không ai khác hơn:
Tự mình là vị cứu tinh
Tự mình nương tựa vào mình tốt
thay
Nào ai cứu được mình đây?
Tự mình điều phục hàng ngày cho chuyên
Thành ra điểm tựa khó tìm.
(kinh pháp cú
160)
Bàn thờ Phật tại nhà – ảnh minh họa
Bởi thế, người xưa thường nói: “Muốn ăn thì phải lăn vào bếp.
Muốn hưởng quả ngọt thì phải trồng cây”. Mong rằng qua bài viết này,
hàng Phật tử chúng ta mỗi khi bước chân về chùa nên hiểu về “Ý
nghĩa
chân thật của Phật giáo” để không còn việc thắp nhang cầu nguyện van
xin. Nếu không, vô tình chúng ta biến chư Phật, Bồ-tát thành những vị thần
chuyên ban phước giáng họa. Theo Hòa thượng Tịnh Không còn nói, Phật tử về chùa
dâng cúng lên Phật một ít hoa, trái cây, cúng vô thùng Phước sương mấy đồng rồi
thắp nhang cầu nguyện, van xin nào là cầu cho con làm ăn phát tài, mạnh khỏe,
bình an, hạnh phúc, v.v… Vô tình chúng ta biến chư Phật, Bồ-tát thành những vịquan tham ô, nhận hối lộ. Còn chúng ta là những tội nhân chuyên đút lót. Về
chùa để tạo phước đâu không thấy, chỉ thấy tội nghiệp ngày càng thêm dày, thêm
nhiều.
Nhân đây, người viết xin trích dẫn một bài kinh về lời
Phật dạy vấn đề Cầu Nguyện trong kinh tạng Nikaza, để minh chứng về việc ý
nghĩa chân thật của Phật giáo, cũng để khẳng định rằng Phật giáo không phải là
một Tôn giáo chỉ biết van xin, cầu nguyện, ban phước, v.v…
CẦU NGUYỆN[6]
Một thời, Thế Tôn trú
ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba.Cóvị thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến đảnh lễrồi bạch đức Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, các vị
Bà-la-môn có thể cầu nguyện cho một người đã chết bằng cách kêu tên vị ấy lên
và dẫn vị ấy vào Thiên giới?
Này Thôn trưởng, Ông
nghĩ như thế nào khi có một người sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh
trong các dục, vọng ngữ, tham lam, sân hận, tà kiến. Khi người ấy mạng chung, mọi
người tụ họp cầu khẩn, mong rằng người này được sinh vào Thiên giới.
Này Thôn trưởng, ví
như có người lấy một tảng đá lớn ném xuống hồ nước sâu. Rồi tụ họp mọi người lại
cầu khẩn, mong rằng tảng đá hãy nổi lên. Ông nghĩ thế nào, tảng đá đó do nhân
duyên cầu khẩn mà có thể nổi lên không?
– Thưa không, bạch đức
Thế Tôn.
Cũng vậy, những người
sống theo ác hạnh như trên, khi mạng chung dù được cầu nguyện sinh vào Thiên giới
nhưng vẫn phải đọa vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
Ông nghĩ thế nào, này
thôn trưởng, khi có một người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống
tà hạnh, không vọng ngữ….có chánh tri kiến, khi người ấy mạng chung, mọi người
tụ họp cầu khẩn, mong rằng người này bị đọa vào địa ngục?
Này thôn trưởng, ví
như có người đem dầu đổ xuống hồ nước. Rồi tụ họp mọi người lại cầu khẩn, mong
rằng dầu hãy chìm sâu xuống nước. Ông nghĩ thế nào, dầu ấy do nhân duyên cầu khẩn
mà có thể chìm xuống đáy hồ?
– Thưa không, bạch đức
Thế Tôn.
Cũng vậy, những người
sống theo thiện hạnh như trên, khi mạng chung dù bị cầu nguyện đọa vào địa ngục
nhưng vẫn sanh lên Thiên giới.
(ĐTKVN, Tương Ưng IV,
chương 8, phần người đất phương Tây hay người đã chết, VNCPHVN ấn hành, 1993,
tr.488)
Rất mong hàng Phật tử thực hành đúng theo lời Phật dạy
để được nhiều lợi ích cho việc giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
__________________________________________-
[1] Trích trong Phật Pháp bách vấn – tập 1
Biên soạn: Huyền Ngu – Quảng Tánh – NXB Tôn
giáo
[2] Trích trong Phật giáo là gì?
Tác
giả: HT. Tịnh Không – Thích Tâm An dịch – XNB Tôn giáo
Nội dung bài viết này tác giả dựa đều trên tư
tưởng của HT. Tịnh Không trong quyển Phật giáo là gì. Ngoài ra, người viết còn
tham khảo một số tài liệu trên Internet của những bậc thiện tri thức.
[3]
[4] [5] Trích trong
Góp Nhặt Lá Bồ đề
Biên soạn: Thích Tịnh Nghiêm
[6] Trích trong Lời Phật dạy trong kinh tạng
Nikàya tập 2 chương V
Biên soạn: Quảng Tánh – NXB Tổng Hợp Tp.
Hồ Chí Minh.
Discussion about this post