
PHẬT
HOÀNG NƯỚC VIỆT
HT.
Thích Nhật Quang
Đức
Trần Nhân Tông thị hiện vào đời tu tập và lợi ích chúng
sinh rồi lại theo luật vô thường từ giã Tăng Ni tứ chúng,
thu thần nhập diệt theo Phật, để lại cho dân tộc Việt
Nam một sự mất mát không gì có thể bù đắp nổi, cho Phật
giáo đồ Việt Nam một hồi chuông thức tỉnh lay động đến
tận tâm can mọi người.
Như
chúng ta biết Sử học Việt Nam đã dành những trang vàng sáng
chói nhất để khắc họa lại toàn bộ cuộc đời và sự
nghiệp của vua Trần Nhân Tông như một huyền sử có một
không hai, về một đức vua mang đậm chất Phật hơn là chất
đế vương.
Ngoài
một hoàng đế anh minh, một lãnh tụ thiên tài, một vị anh
hùng dân tộc, Ngài còn là một thiền sư, một hiện thân
Bồ tát đi vào cuộc đời thực hành hạnh nguyện độ sinh,
trải thân trên con đường Phật đạo. Sống ở cõi trần
mà không nhiễm mùi trần, vì lợi lạc quần sinh.
Một
ngòi bút chưa thâm đạt công phu tu chứng như các bậc cổ
đức thì có gan đâu mà dám lạm bàn về cuộc đời và công
hạnh của Tổ sư. Song là tăng sĩ Việt Nam, đặc biệt là
con cháu dòng thiền Trúc Lâm, chúng tôi luôn ngưỡng vọng
về Tổ sư, nguyện khắc ghi công hạnh và di huấn của Ngài,
học tập, hành trì, ngõ hầu thấu đạt những gì Phật Tổ
đã một đời tâm huyết truyền trao.
Vì
vậy nhân lễ kỷ niệm 700 năm ngày Tổ sư viên tịch, chúng
tôi xin được cúi đầu tưởng niệm lại công đức của
Ngài đối với dân tộc Việt Nam, tăng sĩ Việt Nam, như những
đứa con đứa cháu về lại chốn Tổ dâng nén tâm hương,
chân thành và xúc động khi tưởng nhớ về nguồn cội Tổ
tiên.
Với
dân tộc Việt Nam, Trần Nhân Tông là một vị minh quân tài
đức vẹn toàn
Vua
Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ, niên hiệu
Nguyên Phong thứ VIII (1258), là con trưởng của Thượng hoàng
Thánh Tông và hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Nhà vua
đạo mạo trang nghiêm, nhan sắc như vàng nên khi mới sinh được
vua cha đặt tên là Kim Phật. Vai bên tả có nốt ruồi đen,
đó là dấu hiệu có thể gánh vác được việc lớn.
Thánh
Đăng Lục ghi: Năm 16 tuổi, được lập làm Hoàng Thái tử,
Điều Ngự cố từ ba lần, xin cho em là Đức Việp thay mình
nhưng đều không được. Vua cha gã trưởng nữ của Nguyên
Từ Quốc mẫu cho làm vợ, tức là Thái hậu Khâm Từ. Duyên
cầm sắc tuy hài hòa, nhưng lòng vua thì rất lạnh nhạt. Đủ
thấy Trần Nhân Tông sinh ra đời không vì nghiệp lực câu
thúc dẫn dắt mà do hạnh nguyện tự lợi, lợi tha để thành
tựu Phật đạo.
Vua
bẩm chất thông minh, học rộng, biết nhiều, rất uyên áo
về Phật học nhờ được thụ giáo với Thượng sĩ Tuệ
Trung. Năm 21 tuổi được Thượng hoàng Trần Thánh Tông truyền
ngôi và chính thức trở thành Hoàng đế nước Việt vào năm
1279, lấy hiệu là Thiệu Bảo Nguyên Niên.
Tuy
ở ngôi chí tôn, vua vẫn giữ mình thanh tịnh, ban ngày làm
việc triều chính, đêm về nghỉ ở chùa Tư Phúc trong nội
thành. Ở ngôi 14 năm, Trần Nhân Tông quán triệt và thống
lĩnh toàn dân xuất sắc trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh
tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa… đưa nước nhà đi vào
thời kỳ vàng son nhất của lịch sử.
Về
chính trị
Tính
đạo đức, nhân bản thể hiện rõ qua chính sách an dân và
ổn định xã hội bằng việc “đại xá cho thiên hạ” nhân
dịp tết Kỷ Mão năm Thiệu Bảo thứ nhất 1279, sau khi vua
mới lên ngôi (ĐVSKTT).
Ngoài
ra nhà vua đã để lại trong lòng quân dân nước Việt thời
ấy cũng như bây giờ một lấm lòng độ lượng bao dung, sẵn
sàng tha thứ chớ không ôm ấp thù hận, nghi kỵ đối với
các thế lực thù trong giặc ngoài, qua việc cho đốt hết
hồ sơ những ai kết cấu với giặc, phản bội dân tộc trong
lúc đất nước lâm nguy. Đây có lẽ nhờ nhà vua thấm nhuần
tinh thần bi trí dũng trong đạo Phật vậy.
Vua
cho giải quyết những oan ức, bất công tồn tại trong quần
chúng một cách anh minh, chánh trực và nhanh chóng. ĐVSKTT
kể lại có người đã đón xe vua, khiếu nại về kết quả
một
vụ án.
Ngay
trên đường, Vua sai chánh trưởng nội thư hỏa là Trần Hùng
Thao giải quyết liền tức khắc. Cũng trong giai đoạn đó,
Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản, Vua sai Trần Nhật
Duật đi dụ hàng. Trần Nhật Duật đã thành công và đem
Mật cùng vợ con vào ra mắt vua, mà không mất một mũi tên.
Về
kinh tế
Do
khéo khuyến khích và huy động lực lượng nông dân, một
năm sau khi lên ngôi, vào tháng 10 thì dân ta “được mùa to,
lúa ruộng ở hương Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò hai
bông” như ĐVSKTT đã ghi.
Để
tạo điều kiện cho sự phát triển một nền thương mại
quốc dân, năm Thiệu Bảo thứ hai 1280 vua Trần Nhân Tông đã
“ban thước đo gỗ, đo lụa cùng một kiểu”, nhằm thống
nhất hệ thống đo lường trong cả nước cho tiện việc buôn
bán. Tháng 2 cùng năm, “xét duyệt sổ đinh và các sắc dịch
trong nước”, để nắm dân số, tạo thuận lợi cho công
ăn việc làm của người dân.
Về
quân sự
Có
thể nói vua Trần Nhân Tông đã trở thành ngôi sao Bắc Đẩu
không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà là đối với cả
thế giới về tài điều binh khiển tướng, thao lược quân
sự, qua hai cuộc chiến thắng vang dội chống đội quân Nguyên
Mông hung hãn nhất thời bấy giờ.
Nhà
vua đã vươn lên đến đỉnh cao của một vị minh quân, biết
đặt ý muốn của toàn dân lên trên ý muốn của riêng mình,
biết đặt vận mệnh của đất nước và dân tộc lên trên
vận mệnh của mình, thoát khỏi chiếc võ quyền lực quân
chủ vốn rất cố hữu của các bậc đế vương thời phong
kiến.
Là
một Phật tử thuần thành trong việc giữ gìn năm giới, nhất
định nhà vua biết rõ khi cầm quân dẹp giặc phải mang tội
sát sanh, nên Ngài đã không muốn xảy ra điều này. Tính dân
tộc, dân chủ của vua Trần Nhân Tông thể hiện rất rõ qua
hai cuộc hội nghị Bình Than và Diên Hồng để xin ý kiến
toàn quân toàn dân về việc chống giặc ngoại xâm.
Khi
toàn dân đã quyết chiến, nhà vua thuận theo ý muốn của
muôn dân, thân chinh trực tiếp chỉ huy, xông pha trận mạc,
quên ăn bỏ ngủ, gối cỏ nằm sương cùng ba quân tướng
sĩ, thề nguyền sống chết với đất nước quê hương.
Cho
đến bây giờ trang Quốc sử nước Việt vẫn còn đỏ thắm
màu chiến công oanh liệt một thuở của Trần Nhân Tông và
trên hết là màu tâm đan son sắc của một đấng quân vương
biết quên mình vì đại nghĩa non sông.
Về
ngoại giao
Ngoài
việc đối phó với nhà Nguyên, chỉ mấy tháng sau khi lên
ngôi, vua Trần Nhân Tông còn nghĩ đến vấn đề ngoại giao
với Chiêm Thành, nỗ lực xây dựng một quan hệ hữu nghị
thân thiết với quốc gia láng giềng nằm ở biên giới phía
nam của tổ quốc. Bởi vì Chiêm Thành có một vị trí chiến
lược đối với nền an ninh của nước Việt.
Vua
Trần Nhân Tông kiên quyết phải giữ cho được biên giới
phía nam hòa bình và ổn định, không để cho kẻ địch ở
phương Bắc có cơ hội khoét sâu, gây chia rẽ tình đoàn kết
Việt – Chiêm. Nhà vua đã gã công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm
là Chế Mân cũng không ngoài mục đích này. Trần Nhân Tông
quả thật sắc sảo mà nhân hậu trong đường lối chính trị
cũng như ngoại giao.
Về
văn hóa
Vua
Trần Nhân Tông đã khẳng định người nước nam phải dùng
tiếng nước nam, dân tộc ta có một nền văn hóa lâu đời
cần được giữ gìn và phát huy. Với văn tài đậm đà chất
Phật và chất thi, vua đã cho ra đời hai tác phẩm Cư trần
lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca bằng
tiếng Nôm, như một tuyên ngôn độc lập về nền văn hóa
của dân tộc ta.
Sau
này có thêm Vịnh Vân Yên tự phú của ngài Huyền Quang (1254
-1334) và Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi (1284 -1361), nền văn
học tiếng Việt mới có những tác phẩm đầu tiên hoàn chỉnh
của mình còn được bảo tồn đến ngày nay.
Do
đó vị trí văn học của vua Trần Nhân Tông đối với dân
tộc ta thật vô cùng lớn lao, sự đóng góp của nhà vua vào
nền văn trị nước nhà mang đậm bản sắc văn hóa Việt
Nam là điều không ai có thể phủ nhận.
Giá
trị sự nghiệp văn học ấy dù trải qua thời gian dài với
nhiều biến động lịch sử vẫn không hề phai mờ trong tâm
thức dân ta. Chính người dân đã giữ gìn các tác phẩm của
nhà vua và truyền trao lại cho người sau.
Trong
số hàng trăm hàng ngàn các tác phẩm tiếng Việt khác đã
ra đời cùng thời, mà bây giờ ta chỉ biết tên, chứ không
biết nội dung cụ thể là gì. Thật ra, hai tác phẩm trên
được trân trọng và giữ gìn không chỉ do uy tín và văn
tài của nhà vua mà còn vì giá trị tâm linh của nó.
Có
thể nói Cư trần lạc đạo phú là kim chỉ nam mà Phật giáo
Việt Nam đã y cứ và dẫn đạo cho hàng triệu triệu người
Phật tử Việt Nam thời vua Trần Nhân Tông cũng như sau này
một con đường hướng thượng. Và Đắc thú lâm tuyền thành
đạo ca là bản kinh sống mở lối cho tăng sĩ Việt Nam xưa
cũng như nay một đạo lộ đi đến bến bờ giải thoát an
vui.
Đọc
Trần Nhân Tông, chúng ta thấy ở đó một con người vừa
đẹp đời vừa thấu đạo, vừa dũng mãnh kiên quyết vừa
thâm trầm dung dị, vừa hòa quang đồng trần vừa an nhiên
tĩnh tại. Thật là một vì sao sáng chói trong bầu trời văn
học và Phật học Việt Nam.
Đối
với Phật giáo Việt Nam, Trần Nhân Tông là một thiền sư,
một Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm, người đã khai sáng dòng
thiền nước Việt.
Tính
xuất thế
Niên
hiệu Trùng Hưng thứ IX (năm Quí Tỵ – 1293) Nhân Tông nhường
ngôi cho con là Anh Tông. Sau vua xuất gia ở hành cung Vũ Lâm
(chỗ này sử liệu ghi năm khác nhau DDVSKTT ghi năm 1294, Khâm
định Việt sử thông giám cương mục ghi năm 1295, Thánh Đăng
Lục ghi 1299 tại Yên Tử chứ không phải Vũ Lâm) rồi ra tu
ở núi Yên Tử.
Niên
hiệu Hưng Long thứ VII (1299), vua cho dựng thảo am ở ngọn
Tử Tiêu, núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu
Đà. Tại đây Ngài tu hành đắc đạo, thấu tột bản tâm
và trở thành Sơ Tổ thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền
hoàn toàn mang trái tim và hơi thở của tăng sĩ Việt Nam. Sau
đó ngài kiến lập chùa Long Động để độ tăng và giảng
dạy Phật pháp. Số học chúng tới thụ giáo có tới hàng
ngàn người.
Con
người của Sơ Tổ Trúc Lâm một khi đã làm việc gì quyết
phải cho xong việc ấy. Lúc ở ngôi vua ngài làm tròn bổn
phận của một vị vua, khi đi tu ngài phải thành tựu cho được
bản nguyện của một người xuất gia là giác ngộ giải thoát.
Suốt thời gian hạ thủ công phu tu hành, ngài không hề xuống
núi. Tu hạnh đầu đà thì nhất định cuộc sống của thiền
sư vô cùng đạm bạc.
Từ
một đấng quân vương ngồi trên ngôi cửu trùng, vậy mà
ngài có thể dễ dàng phủi rũ tất cả, chỉ để sống một
đời “vận giấy vận sồi” mà “thân lòng hỷ xả”.
Xưa
nay sơn tăng ở núi quả thật không nhiều, chớ đừng nói
là quân vương xuất gia mà lại như thế. Trải qua năm năm
miên mật tu trì, cuối cùng việc lớn đã xong, bài Đắc thú
lâm tuyền thành đạo ca là một thành quả vô giá mà Tổ
sư dùng cả thân tâm mới có được và để lại làm kim chỉ
nam cho tăng sĩ Việt Nam sau này.
Cương
lĩnh tu hành duy nhất của Thiền phái Trúc Lâm mà Sơ Tổ thụ
giáo từ Thượng Sĩ Tuệ Trung là “phản quan tự kỷ bổn
phận sự” tức xoay lại chính mình là việc bổn phận chính
yếu. Cương lĩnh này đã dẫn đạo cho Điều Ngự và thiền
tăng Việt Nam từ 700 năm qua, cho tới ngày nay vẫn còn nguyên
giá trị soi sáng trên con đường thực tu, thực chứng của
hành giả tu thiền Việt Nam.
Hình
ảnh vua Trần Nhân Tông đi tu có một ý nghĩa và giá trị
ưu việt trong Phật pháp mà chúng ta cần biết rõ. Nếu như
trong Cư trần lạc đạo phú, dường như Thượng hoàng chỉ
khuyến khích người tu tại gia thì ở Đắc thú lâm truyền
thành đạo ca, chúng ta thấy rõ với tư cách người xuất
gia, đạt đạo, Ngài khuyên dạy hàng tu sĩ với ý chí xuất
trần, phải tu hành thế nào mới đạt được kết quả viên
mãn.
Lại
nữa, trong đạo Phật, người cư sĩ tại gia tu hành vẫn có
thể ngộ đạo như người xuất gia, nhưng không thể đi truyền
bá Phật pháp, phổ độ quần sinh như người xuất gia. Vua
Trần Nhân Tông có duyên với Phật pháp từ thuở bé, đến
khi làm Thái thượng hoàng, ngài làm việc một buổi, còn một
buổi nghiên cứu kinh điển, thấu suốt được lý thiền nên
mới viết được bài Phú cư trần lạc đạo.
Song
nếu giữ tư cách cư sĩ thì chỉ tự lợi cho mình và những
người thân chung quanh, mà không truyền bá chính pháp nơi đời
được, nên Ngài quyết định xuất gia.
Hơn
nữa, những ai có đi sâu trong đạo mới hiểu, đôi khi chúng
ta biết rõ lẽ thật nhưng chưa sống được với lẽ thật.
Tại sao? Vì ngoại duyên chung quanh ngăn trở, không cho phép
chúng ta thực tập sống với lẽ thật ấy.
Ngài
Nhân Tông thấy rõ điều này nên quyết tâm vào núi rừng,
sống lặng lẽ một mình, mới có cơ hội nhận ra được
lẽ thật nơi chính mình. Khi sống được hoàn toàn với lẽ
thật ấy rồi, ngài vui mừng tấu lên khúc ca thành đạo.
Từ đó con đường truyền bá chính pháp mới được mở ra.
Ý
nghĩa siêu thoát nằm ở chỗ này. Vì muốn nối tiếp ngọn
đèn Phật Tổ, hướng dẫn mọi người tiến đến giải thoát
sinh tử nên ngài xuất gia. Do ngài xuất gia nên những vị
Tổ kế thừa ngài đều là người xuất gia cầu đạo giải
thoát, có vậy Phật pháp mới không bị thế tục hóa.
Quả
thật chân tinh thần Phật giáo Việt Nam đã được vua Trần
thắp sáng bằng chính cuộc đời tu hành của ngài, không để
cho người tu cầu đạo giải thoát trở thành hoen ố. Đó
chính là điểm đặc biệt của Phật giáo đời Trần mà cũng
là của Phật giáo Việt Nam.
Rõ
ràng chư Tổ nước ta không đi lệch với căn bản Phật giáo
từ thuở ban đầu. Là tăng sĩ Việt Nam, chúng ta cần phải
nắm thật vững ý nghĩa thâm sâu này và lấy đây làm phương
châm tu hành cho giới tu sĩ Việt Nam.
Tính
nhập thế
Một
khi đạo quả viên thành, bấy giờ Sơ Tổ Trúc Lâm bước
sang con đường hoằng pháp. Có thể nói Phật giáo đời Trần
nổi bật nhất với hai con đường trái ngược nhau, mà thật
ra là bổ sung cho nhau để thành tựu viên mãn hạnh nguyện
tự giác, giác tha của người con Phật. Đó là con đường
vừa xuất thế lại vừa nhập thế.
Dòng
thiền Trúc Lâm vì thế trở thành dòng thiền tinh khiết tuôn
chảy vào đời, len lỏi bất cứ nơi đâu, đem ánh sáng Phật
pháp đến cho mọi người, giúp chúng sinh hết khổ được
vui. Cho nên không thể nói tu sĩ Phật giáo Việt Nam bi quan
yếm thế, mà ngược lại rất lạc quan đến với cuộc đời
bằng tâm hạnh rộng lớn an vui.
Niên
hiệu Hưng Long thứ XII (1304), vua lấy đạo hiệu là Trúc Lâm
Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, rồi cùng với đệ tử là
tôn giả Pháp Loa và mười đồ đệ đi khắp thôn quê giảng
pháp, khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, thực hành giáo
lý Thập Thiện, với mục đích xây dựng một xã hội đạo
đức hoàn thiện, biến nhân gian trở thành cõi tịnh lạc.
Vua
còn mở Vô Lượng Pháp Hội tại chùa Phổ Minh bố thí tiền
của, vải vóc, vật thực và trợ cấp cho những nơi mất
mùa nghèo đói… Đây chính là việc làm thiết thực thể
hiện lòng từ bi trong đạo Phật. Bởi vì trí tuệ và tình
thương là hai yếu tố song hành không thể thiếu đối với
một hành giả tu Phật.
Ngày
01/11 năm Mậu Thân 1308, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông
an nhiên thị tịch, thọ 51 tuổi, sau khi đã hoàn thành tâm
nguyện của mình. Tương truyền khi ấy hương thơm tỏa ngào
ngạt, nhạc trời vang lừng, mây ngũ sắc tụ lại thành tán
lọng che trên hỏa đàn trà tỳ của Tổ sư.
Ngài
thị hiện vào đời tu tập và lợi ích chúng sinh rồi lại
theo luật vô thường từ giã Tăng Ni tứ chúng, thu thần nhập
diệt theo Phật, để lại cho dân tộc Việt Nam một sự mất
mát không gì có thể bù đắp nổi, cho Phật giáo đồ Việt
Nam một hồi chuông thức tỉnh lay động đến tận tâm can
mọi người.
Tất
cả pháp chẳng sinh,
Tất
cả pháp chẳng diệt,
Nếu
hay hiểu như thế,
Chư
Phật thường hiện tiền.
Đối
với Ngài, một thiền sư liễu đạt vạn pháp giai không thì
cuộc sinh tử này chỉ là thế thôi, nào có đến đi gì. Chúng
ta là hàng môn hạ của Tổ sư phải noi theo tấm gương sáng
chói ấy, sống và tu tập sao cho xứng đáng là đệ tử của
thiền phái Trúc Lâm nước Việt.
Tóm
lại, vua Trần Nhân Tông đã có những đóng góp to lớn cho
quê hương và dân tộc Việt Nam. Dòng thiền Trúc Lâm do Ngài
sáng lập đã có những ảnh hưởng nhất định đối với
lịch sử dân tộc và làm khuôn mẫu cho Phật giáo Việt Nam
lập cước tu hành.
Cho
đến ngày nay dòng thiền này vẫn là niềm tự hào cho tăng
sĩ Việt Nam, rất được tôn quý, cần phải giữ gìn và phát
huy đến chỗ tinh tủy của nó bằng sự nỗ lực tu tập,
hành trì chuyên tâm nhất ý.
Có
thế Phật giáo Việt Nam mới đáp ứng được nhu cầu phát
triển đời sống tâm linh của người dân Việt, thực hiện
di huấn và hoài bão của Tổ sư. Chỉ có thế mới đền đáp
được thâm ân vô lượng của Ngài – một Phật Hoàng nước
Việt.
HT.
Thích Nhật Quang
Discussion about this post