PHẬT GIÁO VÀ HOÀ |
|
|
Chúng
ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh
này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt
trời, như cá khát dòng sông êm dịu.
Thế nhưng, khi chúng ta
đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ
thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh
cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái
phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích
ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội
phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác
của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên
một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
Phật giáo là một tôn
giáo hòa bình, dốc sức cho hòa bình. Đức Thích-Ca Mâu-Ni là một sứ giả hòa
bình, Ngài thông qua việc khắc phục sự bất an và giao động của nội tâm, bệnh
thái và khuyết hãm để đạt đến bình an nội tại, từ đó thoát thai hoán cốt, giải
thoát tự do, trở thành người hạnh phúc và giác ngộ. Vì thế, hòa bình là giá trị
cần yếu của nhân loại. Đức Phật đã thể hội sâu sắc điều đó. Vậy, làm thế nào để
đem lại hòa bình cho thế giới?
Đức Phật dạy chúng ta:
Thế giới do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, là một chỉnh thể các dạng quan hệ
nằm trên sự tương tục nhân quả của thế gian, nương tựa lẫn nhau. Con người, sự
vật đều tuân theo một quy luật nhân quả có tầng thứ nhất định. Vận mạng của cá
thể và vận mạng của toàn thể tương liên chặt chẽ với nhau. Duy-Ma-Cật từng nói:
“Ta và chúng sanh là nhất thể, lấy bệnh chúng sanh làm bệnh của ta, lấy bệnh
của ta làm bệnh chúng sanh. Cá thể không tự mình sinh tồn, không tự mình điều
tiết và phát triển, nó là một điểm trong mạng lưới thế giới trùng trùng vô tận.”
Vì vậy, quy luật quan hệ của thế giới là “bứt dây động rừng”, một khi cái này
hưng thịnh thì sẽ kéo theo những cái chung quanh hưng thịnh và ngược lại. Đức Phật
dạy: “Sở hữu chúng sanh, giai hữu Phật tánh, nguyên bổn thanh khiết, nhất luật
bình đẳng.” (Tất cả chúng sanh, đều có Phật tánh, nguồn gốc thanh khiết, hết
thảy đều bình đẳng.) Bình đẳng ở đây không chỉ là không đồng quan điểm, không
đồng quần thể, không đồng nhân chủng mà còn là siêu việt nhân loại, phổ quát
tất cả chúng sanh trong vũ trụ.
Vì thế, Phật giáo yêu
cầu chúng ta trong quan hệ giữa chúng sanh, xã hội, tự nhiên, chúng ta nên giúp
đỡ lẫn nhau, hòa bình cộng xứ; nên tùy duyên đại từ, đồng thể đại bi; nên
thương người như thương mình, không tàn sát lẫn nhau; tôn trọng lẫn nhau, không
nên coi thường nhau; bắt tay hòa khí, phá trừ tự ngã, vứt bỏ tự hiềm, mang tâm
bình đẳng; cùng nhau liễu giải, không tự phong bế; nên “không làm các điều ác,
gắng làm các việc lành”; không vì sự an lạc chỉ cho chính mình, mà luôn nguyện
chúng sanh thoát ly khổ não; nên trang nghiêm quốc độ, lợi lạc hữu tình.
Phật giáo phản đối chiến
tranh, đề xướng hòa bình. Bởi lẽ, có chiến tranh là có sát hại. Phật giáo kịch
liệt phản đối sát hại sinh mạng, bao gồm con người và cả động vật cấp thấp. Cho
rằng, chúng sanh đều giống chúng ta vậy, đều ham sống sợ chết. Vì lẽ đó, lấy
lòng ta mà suy ra lòng người để rồi đem đến cho họ lòng từ bi rộng lớn, lòng
thông cảm vô biên. Đại Trí Độ Luận viết: “Trong tất cả các tội, sát sanh là tội
nặng nhất; trong tất cả các công đức, không sát sanh là công đức đứng đầu; phạm
vào giới sát sanh, giết hại các loài động vật, tự mình giết, bảo người khác giết,
vui nhìn người khác giết, giúp người khác giết, cùng đều có tội.” Phật giáo cho
rằng, chiến tranh tuy có chánh tà, nhưng chiến tranh không bao giờ được con
người cổ xúy và khen ngợi. Đức Phật cự tuyệt mọi hình thức của chiến tranh, bởi
lẽ, bất luận hình thức chiến tranh nào cũng mang lại sự hủy diệt nhân loại, hủy
diệt chúng sanh và hủy diệt địa cầu. Ngài quan niệm, chiến tranh là dẫn đến con
đường khổ nạn. Sẽ không có người chiến thắng, chỉ có kẻ chiến bại. Kẻ được gọi là
người chiến thắng ấy sẽ đắm mình trong kiêu ngạo; kẻ được xem là người chiến
bại ấy thì ngập chìm trong đau khổ. Muốn nhân loại an bình, phải vứt bỏ khái
niệm thắng bại, loại trừ chiến tranh. Đức Phật dạy: “Chiến thắng hàng vạn quân
không bằng tự chiến thắng mình, vì tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt
nhất.” Ngài cho rằng, chinh phục sẽ dẫn phát cừu hận, cừu hận sẽ dẫn phát chiến
tranh, hình thành một vòng luân chuyển chiến tranh không bao giờ chấm dứt. Cừu
hận không thể chấm dứt bằng cừu hận. Vì vậy, cừu hận chỉ nên dùng thiện ý, lòng
bao dung mới có thể hòa giải được. Đức Phật dạy: “Lấy nhu thắng cương, lấy
thiện thắng ác.” Cho nên, khi nóng giận ta phải biết trầm tĩnh. Thiền Tăng Hàn
Sơn hỏi Thập Đắc: “Người thế gian phỉ báng tôi, khích bác tôi, làm nhục tôi,
cười tôi, khinh tôi, rẻ rúng tôi, lừa tôi thì làm thế nào để đối trị?” Thập Đắc
trả lời: “Chỉ nên nhẫn họ, nhường họ, tránh họ, vì họ, nhịn họ, kính họ, không
để ý đến họ rồi qua một thời gian đến thăm họ.” Phật giáo quan niệm, thắng lợi
đến từ lời nói ôn hòa, giải quyết xung đột nên dùng lời nói từ tốn, dịu dàng
mới có thể mang lại kết quả khả quan như ý muốn. Đức Phật dạy: “Các ngươi dùng
lời nói để nói, lấy lưỡi làm vũ khí, xây dựng nền hòa bình chân chính.” Bản
chất của chiến tranh là bạo lực phi lý tánh, đức Phật khuyên người nắm quyền
hành một đất nước phải lấy hòa bình làm nền tảng cho việc trị quốc an dân. Ngài
từng nói với vua A-Tư-Nặc rằng: “Quân vương nên thương dân như con, không lấy
quyền thế áp bức người dân, cuộc sống luôn bình đẳng, không có gì quý bằng mạng
sống con người, nên điều chỉnh việc làm sai trái của mình, rộng lượng với người
khác, không xây dựng hạnh phúc của mình trên nỗi đau của kẻ khác, nên giúp đỡ
kẻ khổ nạn, an ủi người ưu phiền, cứu tế người bệnh tật. Quân vương nên vì
chúng sanh mà mưu cầu hạnh phúc.” Ngài dạy tiếp: “Nhà vua lấy chính pháp mà trị
vì, không nên dùng đao kiếm thì đất nước sẽ an ổn.” Đức Phật không chỉ trực tiếp
phản đối chiến tranh mà còn phản đối việc mua bán chế tạo vũ khí. Vì rằng, càng
có nhiều vũ khí, trước tiên sự đe dọa đến tính mạng càng tăng thêm. Ngài xác định,
trí tuệ thanh khiết là vũ khí lợi hại nhất để vượt qua chiến tranh. Ngài dạy
chúng đệ tử nên “Thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa
đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân.” Vì rằng, hòa hợp, thanh tịnh,
an lạc là ba đức tính lớn của Tăng già. Đức Phật không chỉ dựa trên lý luận đề xướng
hòa bình, phản đối xung đột chiến tranh, mà trong đời sống thực tiễn tự bản
thân Ngài đã hành trì. Vua Lưu Ly từng ba lần đem đại quân sang chinh phạt nước
Ca-Tỳ-La-Vệ, đức Phật ba lần đích thân khuyên bảo vua Lưu Ly bãi binh hòa giải.
Có một lần, bộ tôc Câu-Lợi với bộ tộc Thích-Ca tranh giành nguồn nước, cuộc
nghênh chiến chuẩn bị xẩy ra thì đức Phật đã kịp đến và nói với họ rằng: “Lấy máu
đổi nước, xin hỏi: nước quý hay máu quý?” Hai bộ tộc nghe xong tỉnh ngộ, liền
buông bỏ vũ khí. Trong tác phẩm “Kính úy sing mạng” của Schweitzer (1875-1965),
người đoạt giải Nobel hòa bình năm 1952, có đoạn viết: “Thiện là bảo trì, trân
quý và thực hiện việc phát triển giá trị sinh mạng đến mức cao nhất. Ác là hủy
diệt, tổn hại và làm ngưng trệ sự phát triển sinh mạng. Đây là nguyên tắc vật lý
tất yếu, phổ biến tuyệt đối”. Đức Phật lấy thiện thắng ác, lấy nhu thắng cương,
lấy hòa chế thắng. Chiến tranh và xung đột không thể không làm tổn hại đến sự hòa
bình nhân loại. Tiếp nữa, chúng ta cần đề cập đến các loại bệnh thái khuyết hãm
của xã hội, tất cả đều là nhân tố của sự bất an, vì do vô minh dẫn đến việc phân
biệt màu da, kỳ thị chủng tộc, phân chia giai cấp… Trong khi đó, theo Phật
giáo, chúng sanh đều có Phật tánh, bản chất bình đẳng, không có sai biệt. Vì
thế, các hạng người, các giai tầng xã hội đều nhất loạt bình đẳng, không phân
cao thấp. Xã hội Ấn Độ xưa kia được chia thành 4 giai cấp, mà 2 giai cấp chênh
lệch nhất là giai cấp Bà-La-Môn, giai cấp cao nhất hưởng thụ vinh hoa phú quý;
giai cấp Thủ-Đà-La chỉ làm thân trâu ngựa, chịu mọi đọa đầy khổ ải. Đức Phật
phản đối việc phân chia gia cấp này, Ngài luôn bảo vệ những người thuộc giai
cấp thấp, ai chưa được đi học phải có quyền được giáo dục, ai chưa có quyền tự do
tín ngưỡng phải được có quyền tự do tín ngưỡng. Ngài dạy: “Mưa tưới khắp mặt
đất thấm nhuần cỏ cây hoa lá không có phân biệt, vì thế phải từ bi bình đẳng
cùng thương yêu kính trọng lẫn nhau.” Thế giới hôm nay sau hơn 2500 năm, tôi
muốn nói các dân tộc, các chủng tộc đều là những di sản quý báu của tạo hóa, là
chứng nhân đi qua thế giới, là chủ nhân của thế giới hiện tại và là hy vọng của
thế giới tương lai. Mọi người đều có dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, cùng
huynh đệ tỷ muội dưới vòm trời xanh bao la. Do vì đạo đức suy đồi, cộng thêm
các loại khuyết hãm bệnh thái hoành hành, tà giáo liên tục xuất hiện, thế lực
ma quỷ ngày càng tinh quái, thậm chí có không ít người phải tử vong và rối loạn
tinh thần nên dẫn đến một thế giới dẫy đầy sự bất an và bạo động.
Đức Phật phản đối việc
sản xuất và kinh doanh độc phẩm, thậm chí cả những chất tương đương như rượu
cũng bị cấm đoán. Ngài cho rằng, độc phẩm có nguy cơ làm suy nhược cơ năng, làm
giảm thiểu phẩm chất ưu việt của con người. Phật đã sớm thức tỉnh chúng ta, nên
tôn trọng thuận theo tự nhiên, bảo vệ tốt hệ sinh thái và môi trường. Đức Phật
cho rằng, thực vật cũng có sinh mạng không thể xâm hại. Phật đã từng thuyết
giảng về bảy điều có thể làm phồn vinh quốc gia với đại thần Vũ Thế. Một trong những
điều đó là bảo vệ thiên nhiên cây cỏ.
Thế giới bất hòa, con
người bất đồng, giàu nghèo chênh lệch đã tạo nên hố thẳm ngăn cách giữa chúng
ta. Người giàu kiêu ngạo, người nghèo cáu gắt, oán hận dẫn đến mâu thuẫn nội
tâm giữa họ, để rồi nghèo lại hoàn nghèo, giàu lại càng giàu thêm. Mâu thuẫn
ban đầu như một đốm lửa nhỏ, nhưng một ngày nào đó nó sẽ bùng phát thành một ngọn
lửa khổng lồ sẵn sàng thiêu hủy cả địa cầu chúng ta. Đức Phật coi thuờng việc
tham đắm vật chất, nhưng khuyến khích tạo ra của cải vật chất để duy trì sự
sinh tồn cho loài người.
HIV bắt nguồn từ loài
tinh tinh Châu Phi, nhưng con người đã tự hạ mình như loài động vật cấp thấp.
Hút chích, mại dâm là nguyên nhân trở thành mục tiêu công phá của căn bệnh quái
ác này. Đức Phật đã phản đối hút chích, mại dâm. Trong năm giới căn bản của
Phật Giáo, giới thứ ba là cấm tà dâm, bởi lẽ tà dâm không chỉ tổn hại đến thân
tâm mình mà còn làm tổn hại đến đạo đức, gia đình và xã hội, sẽ dẫn đến sự bất
an của toàn cầu; xa hơn, khiến con người không thể nào giải thoát được.
Tất cả đều do tâm sinh
ra, chiến tranh loạn lạc không phải do tự nhiên mà có. Đức Phật cho rằng, lòng
tham đắm và mưu cầu quyền lực của con người là căn nguyên khơi mào cho các cuộc
chiến tranh bùng phát.
Có thể thấy, nhân loại
đang có nguy cơ đối mặt với những gì tồi tệ nhất, mà nguyên nhân chính là nguy
cơ xuất phát từ nhân tâm. Tâm bệnh nên dùng thuốc tâm để chữa trị. Đức Phật cho
rằng, muốn đoạn diệt nguồn gốc chiến tranh và các biến cố loạn lạc của thế gian
thì phải loại bỏ tham sân si, đề cao phẩm chất nội tại ưu việt của con người.
Đây là con đường nhân bản tối ưu nhất. Cứu cánh của hòa bình thế giới chỉ có
thể xây dựng trên cơ sở của hòa bình nhân tâm. Và, những kiến giải này không
ngoài mục đích nhằm chỉ ra đâu là bóng đêm của vũ trụ và đâu là nguồn sáng ở
cuối chân trời.
(Theo Putixin.com.cn)
Sacramento,
PL 2551, 2007
Discussion about this post