PHẢI TRÁI CUỘC ĐỜI
Thích Đạt Ma Phổ Giác
ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Chúng ta sống trên cõi đời này mà chưa
từng nếm trải hương vị ngọt ngào hay đắng cay, từ người thân thiết của mình quả
là một điều quá hạnh phúc vì không bị ai làm tổn hại. Đâm sau lưng chiến sĩ,
luôn làm cho con người phiền não, hận thù, oán ghét xã hội và trách đời sao quá
đen bạc, để rồi dính vào vòng lao lý trong cơn thịnh nộ khi không làm chủ được
bản thân.
Hầu như tất cả mọi người ai cũng mong muốn
có quyền lực và thành công để đạt được hạnh phúc như giàu có, vật chất sung túc
đầy đủ, danh tiếng và sắc đẹp. Nếu chúng ta giàu có và quyền thế mà cuộc sống
không hạnh phúc, luôn bất an lo âu và sợ hãi, như vậy chúng ta có quyền lực để
làm gì?
Ngày xưa, tại một đất nước nọ dân chúng
đang sống trong an lạc và thái bình. Bổng nhiên tai họa bắt đầu ập đến, có một
loài yêu tinh ma mị đã bắt đi nàng công chúa xinh đẹp, là đứa con duy nhất của
nhà vua. Quá buồn rầu và đau khổ, nên nhà vua truyền lệnh cho khắp tất cả đất
nước, nếu ai cứu được công chúa thì trẩm sẽ nhường ngôi cho và được quyền lấy
nàng làm vợ. Có hai dũng sĩ vốn là bạn bè thân thiết tên Cường và Bảo cùng phát
tâm đi cứu công chúa. Hai chàng trai ấy quả là dũng cảm và tuyệt vời, trải qua
bao gian nan vất vả, trăm đắng nghìn cay tưởng chừng như mất mạng. Nhưng cuối
cùng hai chàng, cũng hạ gục được yêu tinh và đem công chúa trở về an toàn.
Nghiệt ngã và trớ trêu thay. Vậy ai sẽ là
người chồng lý tưởng của công chúa, bởi hai người đều khôi ngô tuấn tú và tài
giỏi ngang nhau. Quả thật là điều khó xử, không lẽ công chúa phải lấy hai
người? Không thể được! Nhà vua cho mời tất cả các quan trong triều họp lại, để
tìm ra giải pháp tốt đẹp nhất. Cuối cùng mọi người đều đi đến thống nhất, trong
hai dũng sĩ chỉ chọn một. Và hai người bắt buộc phải đấu kiếm với nhau, để chọn
người thắng cuộc, kẻ bại trận phải chịu chết.
Cường và Bảo giao đấu cả ngày trời nhưng bất
phân thắng bại. Mọi người đang hồi hộp để chờ kết quả, cuối cùng Cường bị thất
thế và nằm đo ván trước mũi kiếm sắc bén của Bảo. Tới đây thì mọi người đã biết
công chúa thuộc về ai rồi. Nhưng trong khoảnh khắc chớp mắt, thời gian như
ngừng lại và một sự yên lặng chưa từng có, Bảo đang phân vân lưỡng lự. Chàng tự
nghĩ thầm, không lẽ vì chút công danh sự nghiệp của riêng mình mà ta đành lòng
giết chết người bạn thân thiết nhất từ xưa nay, không thể được? Lương tâm không
cho phép Bảo làm như vậy!
Bảo liền thu kiếm lại và quay lưng bỏ đi. Vì
không nỡ xuống tay. Nhưng, trong cuộc chiến bắt buộc một người phải thắng và
một người phải chết. Cường nhân cơ hội này nhanh tay lượm kiếm lên và lao đến
đâm sau lưng Bảo. Cả khán đài đều la ó lên và đội ngự lâm quân của nhà vua đã
kịp thời ngăn chặn lại, nên cứu được Bảo trong tầm tay. Nhờ vậy Bảo được cứu
sống và thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Công chúa liền trình với vua cha,
người xứng đáng để cho con làm vợ đó là Bảo, Cường là người đâm sau lưng chiến
sĩ, con không thể nào lấy người đó được? Nếu lấy anh ta, chắc sau này con cũng
có thể bị như vậy!
Đây là một câu chuyện ngụ ngôn, có tính cách
triết lý sâu sắc vì cộng đồng xã hội loài người. Chúng ta sẵn sàng gây tạo tội
lỗi hoặc giết hại người thân một cách dã man, để được chút danh vọng, tiền bạc,
sắc đẹp, do đó bất chấp luân thường đạo lý, miễn sao được lợi cho mình thì
thôi.
Đúng là đâm sau lưng chiến sĩ ! Bảo, người
đã chiến thắng nhưng lương tâm đã không cho phép mình làm tên sát nhân, để
hưởng quyền lực tối cao và sắc đẹp. Bảo và Cường là đôi bạn chí thân, hai người
đã thề nguyền sống chết có nhau, có phước cùng hưởng, có họa cùng chia, họ sống
với nhau rất là thâm tình tưởng như không có gì, có thể chia cắt nỗi. Trước tấm
lòng bao dung và độ lượng của Bảo, cầm chắc chiếc vé vinh hoa phú quý sờ sờ
trước mắt. Nhưng chàng dũng sĩ này không nỡ nhẫn tâm, vì mưu cầu hạnh phúc cho
riêng mình mà đành lòng giết đi người bạn thân thiết. Thà mình chấp nhận chịu
chết để bạn mình được sống, hưởng trọn vẹn vinh hoa phú quý.
Quả thật trong cuộc đời này, chúng ta khó
tìm đâu ra được những con người như thế, hành động và tấm lòng cao thượng của
Bảo, đã chiếm trọn tâm hồn và trái tim của công chúa. Chàng dũng sĩ ấy đáng
được người đời ca tụng tôn vinh, như là hiện thân của một vị Bồ tát đi vào đời
để cứu độ chúng sanh, phần thiệt hại nhận về mình, phần lợi lộc nhường cho
người.
Và chúng ta cũng không nên vội chê trách
Cường, vì lúc này không có con đường nào khác, nhất là phần thưởng đã dành cho
mình quá lớn, có được quyền lực trong tay và cô công chúa xinh đẹp kiều diễm.
Chúng ta ai cũng muốn có được quyền lực và sự thành công, nhưng nếu vì quyền
lực và sắc đẹp mà chúng ta đành lòng giết hại người thân. Sao ta nỡ, nhẫn tâm
tàn ác đến thế ư?
Nếu quyền lực và sự thành công của mình để
đem lại sự chết chóc và đau thương cho người khác, thì quyền lực đó có ý nghĩa
và giá trị gì? Chúng ta có thể tạo dựng một thứ quyền lực đích thực mà vẫn luôn
có cuộc sống cao sang và tôn quý. Khi ấy mọi người sẽ sống thoải mái hơn, cảm
thấy mình an lạc và hạnh phúc trong từng phút giây. Một thứ quyền lực này sẽ
làm cho con người bớt khổ đau và luôn được phúc lộc bình an, ngay tại đây và
bây giờ. Nếu cuộc sống của chúng ta
không có tâm từ bi và tình thương yêu nhân loại, thì dù có quyền lực và giàu
sang cách mấy, cũng không thể an vui hạnh phúc được.
Đa số, người có quyền lực đều sống trong lo
âu sợ hãi và bất an, vì sao? Vì sợ người khác tranh giành chiếm đoạt quyền lợi
địa vị của mình, nên bằng mọi cách triệt tiêu đối thủ trước, dù biết đó là đê
hèn, ti tiện và thấp kém. Thà ta phụ người chớ không để người phụ ta, nhất là
một thứ quyền lực chính trị nó giống như con dao hai lưỡi, đụng vô đầu nào cũng
bị đứt tay hết.
Có một thứ quyền lực giúp chúng ta an lạc
hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, vượt qua rào cản của tranh đấu và giết hại.
Đây là một thứ quyền lực đích thực mà ai cũng có thể nắm bắt và an hưởng được,
mà không cần phải có địa vị cao sang hay thấp hèn. Sống ở đời, đứng trước sự
cám dỗ của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, nhiều khi là người thân của nhau mà ta
còn đành lòng giết hại để tranh danh đoạt lợi. Huống hồ là Cường đứng giữa làn
ranh sống chết, ai dại gì phải bỏ giang sơn gấm vóc, bổng lộc vương tước và sắc
đẹp, nếu không vậy thì mình sẽ mất hết tất cả hay sao?
Thật ra Cường đáng thương hơn đáng ghét, vì
chỗ này chỉ có một người thắng và kẻ bại, người sống kẻ chết. Không thể nào
khác được. Ai cũng biết rằng sự sống con người vô cùng quý báu và ai cũng ham
sống sợ chết. Không chết mà lại có tất cả, tội gì không đâm sau lưng chiến sĩ,
quả thật giữa quyền lực, sắc đẹp và tay trắng, ai dại gì bỏ qua. Khó có ai đủ
can đảm và bản lĩnh, để nhận lấy đau thương về phần mình. Có nhiều người quan
niệm rằng, thà một phút huy hoàng còn hơn ngàn năm tắt lịm, nên suốt đời sống
trong si mê lầm lỗi.
Vào thời xa xưa khi đất nước Việt Nam còn
nghèo nàn lạc hậu, quân Mông cổ thừa cơ hội xâm lăng định thôn tính đất nước
ta. Thế lực của người Mông Cổ rất hùng mạnh, nên vị vua thời đại đó cho họp hết
các tướng lãnh, ba quân chiến sĩ và dân chúng, góp ý kiến nên chống lại hay nên
đầu hàng. Tất cả đều đồng ý phải quyết tâm gìn giữ đất nước. Cuối cùng, do tinh
thần của người Việt Nam quá mạnh mẽ nên đã đẩy lui được thế giặc.
Chiến tranh vừa kết thúc, một chàng lính
người Việt Nam mặt mày còn bê bết bùn đất, đang lấy một bình nước để uống. Bổng
lúc này bên tai anh nghe tiếng ai đó, đang rên siết từ phía trước mặt mình.
Bước tới nhìn xem, thì ra một người lính Mông Cổ bị thương tích đầy mình, đang
lăm lăm nhìn vào bình nước trên tay của anh một cách thèm thuồng. Chàng lính
Việt Nam liền rót nước kê vào miệng cho người đó uống, bất ngờ tên lính Mông Cổ
chụp cây kiếm chém thẳng vào anh. Anh né kịp, nên chỉ bị thương nhẹ nơi cánh
tay thôi. Thay gì giết chết người lính Mông Cổ, nhưng, người lính Việt Nam
không làm thế và sẵn sàng bao dung tha thứ cho anh ta. Tinh thần của người lính
Việt Nam là như thế, khi chiến tranh thì phải bảo vệ và gìn giữ đất nước. Khi
hòa bình, thì mọi người phải có trách nhiệm và bổn phận yêu thương giúp đỡ lẫn
nhau, lúc gặp hoạn nạn hay khó khăn.
Sau này một vị quan biết được mới hỏi, tại
sao lúc đó anh không giết chết tên lính vong ân bội nghĩa đó đi. Người lính
nói, tôi vì giặc ngoại bang xâm chiếm nên mới đứng lên bảo vệ biên cương bờ
cõi. Bất đắc dĩ lắm mới ra tay giết hại, còn hiện tại anh ta là người bị thương
và là kẻ bại trận. Tôi không thể giết người dưới ngựa. Nghe xong, vị quan liền
ban thưởng cho anh ta vô số vàng bạc. Qua câu chuyện trên chúng ta thấy tấm
lòng từ bi, tinh thần cao thượng của người Việt Nam, xứng đáng để cho mọi người
học tập và noi theo. Vì bị giặc ngoại bang xâm lăng nên mới phải gìn giữ và
chống trả lại, chớ không có tâm cố ý giết hại.
Kẻ nịnh thần hoặc người vong ân bội nghĩa,
thường hay gian dối phản bội để trục lợi cho riêng mình, nên sẵn sàng gây tạo
tội lỗi, dù đó là người ơn. Nhân cách phẩm chất cao quý của một con người, sẽ
mất đi và mãi mãi bị tiếng đời bêu rếu, rồi đến giai đoạn nào đó bộ mặt thật
cũng lòi ra. Vậy thì, chúng ta thành công và có quyền lực bằng xương máu của
người khác để làm gì? Kẻ phản bội dù có quyền lực và danh vọng ngay tức khắc,
nhưng họ sẽ trả một giá rất đắc ngay tại đây và bây giờ. Đến khi phước hết họa
đến, thì không làm sao cứu kịp, lúc này dù có ăn năn hối hận cũng phí công vô
ích. Kính mong mọi người hãy nên chính chắn suy xét cho tường tận, đừng chờ quả
xấu đến rồi ngồi đó than phân trách phận.
Ngày hôm nay trước đà tiến bộ của nhân
loại, con người tăng trưởng quá nhanh chính vì thế kéo theo nhiều tệ nạn xã
hội. Nhân cách đạo đức con người ngày càng tuột dốc, nạn cướp của giết người
quá tàn nhẫn chỉ vì một chút vật chất cỏn con. Nạn bạo lực học đường, bạo lực
gia đình, nạn đam mê vui chơi quá đáng dẫn đến bạo lực dâm dục. Nhiều vụ án
cưỡng dâm, hiếp dâm đối với trẻ chưa đến tuổi trưởng thành và còn vô số chuyện
đau thương khác đang xảy ra trong cuộc đời. Vì tham vọng quyền lực không chân
chánh chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, nên đã làm tổn hại cho nhiều người.
Đôi lời tâm sự chân thành xin gửi đến chư
huynh đệ pháp lữ gần xa, một chút duyên lành có được ngày hôm nay mong được kết
nối yêu thương cùng với tất cả mọi người.
Kính ghi
PHONG TRẦN CUỒNG NHÂN
ĐẠO VÀ ĐỜI
Trong thời Phật còn tại thế có một vị quan
tổng trấn, đã từng làm quan gần hai chục năm nhờ nhân duyên tốt nên từ bỏ quyền
lực, danh vọng, xuất gia làm Tỳ kheo. Sau thời gian áp dụng lời Phật dạy, thầy
cố gắng siêng năng tinh cần tu tập, miên mật không một phút giây lơ là. Một
hôm, thầy ngồi dưới gốc cây vô ưu thiền quán tinh chuyên, nên thấy rõ nhân
duyên thật giả trong cuộc đời, do đó phát sinh định tỉnh và hỷ lạc, cảm nhận
được phút giây bình yên nhất trong cuộc đời từ trước đến nay. Thầy hoan hỷ thốt
lên, ôi thật hạnh phúc thay! Ôi thật hạnh phúc thay! Các vị Tỳ kheo đang tu tập
gần bên, tưởng thầy than phiền đời sống xuất gia quá cơ cực, bần hàn. Ai cũng
nghĩ, chắc thầy đã quen đời sống xa hoa vương giả ngoài đời, vì bất đắc dĩ mà
phải xuất gia nên không kham nỗi cuộc sống nhà thiền muốn ít, biết đủ.
Phật biết nhân duyên tốt lành của người đệ
tử, đã thật sự cảm nhận được pháp lạc từ sự buông xả các quyền lực và lợi dưỡng
thế gian, nên mới thốt lên những lời mầu nhiệm như thế. Để động viên và sách
tấn quý thầy tu học, Phật cho mời tất cả bốn chúng lại để kiểm nghiệm sự thật,
của vị đệ tử từng có quyền cao chức trọng, nay đã khép mình vào chốn thiền môn.
Phật hỏi, này đệ tử có phải tối hôm qua con thốt lên câu, hạnh phúc quá phải
không? Vậy con có thật sự được hạnh phúc hay không? Con hãy trình bày cho tất
cả đại chúng được biết rõ ràng.
Quả thật con rất ư là hạnh phúc chưa từng có
từ trước đến nay, thưa đức Thế tôn. Khi chưa xuất gia tu học, con là vị quan
tổng trấn tối ngày bận rộn lo toan với đủ thứ công việc. Tuy con sống trong
giàu sang, phú quý và quyền lực, nhưng con chưa có một ngày an lạc hạnh phúc
thật sự, vì phải bất an, lo lắng, sợ hãi đủ điều. Nào là sợ giặc bên ngoài xâm
lăng, cho nên lúc nào binh lính cũng tập dợt phòng thủ để sẳn sàng ứng chiến dẹp
loạn. Rồi nỗi sợ hãi những người giúp việc cho mình sợ họ manh nha lật đổ. Cho
nên cuộc sống của con không có một ngày bình yên thật sự, tuy được sống trong
giàu sang uy quyền và thế lực.
Ngày nay được tắm mình trong giáo pháp của
Thế tôn, được sự chỉ dạy tận tình của Người, con như kẻ lầm đường lạc lối bị
bóng tối vô minh che phủ, nay nhờ ánh sáng giác ngộ mà vượt qua mê lầm từ muôn
kiếp. Hôm qua, trong lúc tọa thiền con cảm nhận được phúc lạc bình an nhất
trong cuộc đời, cho nên mới thốt lên những lời như thế, làm tác động và ảnh
hưởng đến sự tu học của đại chúng, cho con xin được thành tâm sám hối.
Không, con không có lỗi lầm gì cả. Con
người sở dĩ đau khổ và làm tổn hại cho nhau chỉ vì ham muốn quá đáng, cái gì
cũng muốn tóm thâu về cho mình, nên khi có quyền hành và thế lực, thì tìm cách
bóc lột và vơ vét. Quyền lực lúc nào cũng đi kèm với quyền lợi và sắc đẹp,
chính vì thế mà không biết bao người đã tàn nhẫn giết hại lẫn nhau để bảo vệ
quyền lực, khi được thì sợ người tranh giành nên tìm cách hạ bệ người khác, dẫn
đến oan gia trái chủ, ân oán hận thù nhiều đời không có ngày thôi dứt.
Vị quan tổng trấn đã từng nắm quyền hành
gần hai chục năm, tuy đang sống trong giàu sang danh vọng, nhưng thực ra chưa
có một ngày sống bình an thật sự. Lúc nào cũng sống trong lo âu và sợ hãi. Nhân
duyên xuất gia vì nể lòng người bạn, không phải vì mục đích giác ngộ và giải
thoát. Nhưng, nhờ sống gần gũi chư vị Thánh tăng, nương theo lời dạy của Phật
nên thầy đã cố gắng tinh cần tu tập, do đó cảm nhận được sự an lạc hạnh phúc
ngay tại đây và bây giờ, chẳng phải tìm kiếm đâu xa.
Đây mới thật sự là một thứ quyền lực đích
thực, mà không ai có thể cướp được vì xuất phát từ nội tâm thanh tịnh trong
sáng mà ra. Người đời vì không biết nên cứ mải mê chạy theo tranh giành triệt
buộc lẫn nhau, để được một thứ quyền lực tạm bợ bằng xương máu và nước mắt của
nhiều người. Cuối cùng chuốc họa vào thân, đến khi chết ra đi với hai bàn tay
trắng và chỉ mang theo vạn khối sầu do nghiệp xấu chiêu cảm.
Nhiều người lầm tưởng rằng có tiền tài,
danh vọng, địa vị là hạnh phúc nên khi có quyền hành tìm cách vơ vét thu gom về
cho mình, do đó càng thêm gây thù chuốc oán, mang đau thương mất mát đến cho
nhiều người, thì làm sao có được hạnh phúc thật sự. Hạnh phúc theo cách nhìn
của người con Phật là tâm không dính mắc vào sự thành bại, nên hư, được mất của
thế gian. Khi được giàu sang danh vọng, quyền cao chức trọng, cũng không tự mãn
kiêu ngạo hoặc khi nghèo khó thiếu thốn vẫn không buồn lòng, vì biết tất cả là
nhân duyên vô thường. Khi có phước báo đầy đủ thì muốn gì được nấy, do đó người
con Phật phải chú trọng việc gieo trồng phước đức và siêng tu trí huệ. Người tu
có phước mà không có trí tuệ, thì đời sống vật chất sung túc đầy đủ, nhưng vẫn
còn bị tham lam, sân giận, si mê chi phối do đó khó vượt qua biển khổ sông mê.
Ngược lại, người có trí huệ mà không gieo bòn phước đức thì chẳng giúp ích gì
cho nhân loại, chỉ được thảnh thơi an lạc cho riêng mình mà thôi. Như có một tu
sĩ thời Phật còn tại thế, do siêng tu trí tuệ nên đã chứng quả A La Hán, nhưng
ngược lại do không đóng góp giúp ích gì cho ai, nên từ khi mở mắt chào đời cho
đến khi viên tịch đều phải chịu thiếu thốn đói khát. Cho nên người con Phật
phải biết quân bình phước huệ song tu, vừa có phước vừa có trí tuệ thì không bị
luyến ái khổ đau ràng buộc. Lúc sống thì dấn thân phục vụ đóng góp vì tất cả
chúng sinh, lấy niềm vui nhân loại làm niềm vui chính mình, đến khi hết duyên
đời thì tự tại ra đi không một chút luyến tiếc.
Cuộc đời này ai cũng có ước mơ đáng quý và
trân trọng, nhưng vì không có hiểu biết chân chánh nên dễ rơi vào chỗ si mê,
tối tăm, mờ mịt. Vì thấy biết sai lầm, nên cứ tưởng rằng có quyền cao chức
trọng là đem lại hạnh phúc, nhưng chúng ta không ngờ rằng thuyền to thì sóng
lớn, như người đang nằm trên chảo dầu đang sôi sùng sục mà không biết. Thế gian
này sẽ không có hạnh phúc thật sự, nếu chúng ta sống mà không có niềm tin,
không biết áp dụng nhân quả vào trong đời sống hằng ngày. Và chúng ta, cũng phải tự tin chính mình có
khả năng làm được những đều tốt lành, để giúp ích cho nhân loại vượt qua cạm
bẩy cuộc đời.
Con người thường khổ đau phiền muộn vì quá
đam mê, tham đắm quyền lực, được thì càng thêm tham, không được thì oán hận thù
hằn. Do đó, tạo ra sự mâu thuẩn đối kháng trong cuộc đời, mạnh hiếp yếu, lớn
hiếp nhỏ, giết hại lẫn nhau tranh danh đoạt lợi trên sự khổ đau của nhiều
người. Nhưng lòng tham muốn của con người thì vô cùng vô tận, nhưng mấy ai được
như ý trọn vẹn. Chính vì thế dễ dẫn đến thất vọng, buồn chán, mệt mỏi và tuyệt
vọng.
Một thương gia giàu sang phú quý, đang sống
hạnh phúc bên mái ấm gia đình với nhà cao cửa rộng, bổng nhiên tai họa bắt đầu
ập đến, cô vợ trẻ âm thầm lặng lẽ ra đi không một lời từ giả và ôm đi hết số
tiền dành dụm của hai người. Công việc làm ăn đang thuận buồm xuôi gió, cuối
cùng bị phá sản do nợ nần chồng chất, không có khả năng chi trả nên đành phải
chịu ngồi tù. Sự nghiệp thế gian, bao nhiêu năm tháng dành dụm chắt chiu bây
giờ tan thành mây khói, đang sống hạnh phúc với vợ đẹp con ngoan, quyền cao
chức trọng, vậy mà giờ đây chẳng còn gì trong tay, tất cả đều đội nón ra đi.
Nhưng ngược lại, vị thương gia này từ khi
ở tù cho đến nay luôn vô cùng phấn khởi cảm thấy mình an lạc hạnh phúc chưa
từng có bao giờ, làm cho vị cai tù rất đổi ngạc nhiên. Ai ở tù, cũng cảm thấy
khổ đau tràn trề trong uất hận. Riêng vị thương gia này có sự thay đổi hết sức
kỳ lạ, chẳng ai ngờ ông ta lại được hạnh phúc như thế. Vì xưa kia khi còn ở
ngoài đời, ông ta nổi tiếng keo kiệt bỏn xẻn, vẻ mặt lúc nào cũng lắm le, lắm
lét như sợ người khác lấy của. Ấy thế mà sao khi bị ở tù, ông ta lại vui vẻ hẳn
lên. Khiến mọi người ngạc nhiên nên hỏi ông, bộ ông điên rồi sao? Vị thương gia
bình thản nói chuyện một cách tỉnh bơ, như không có chuyện gì xảy ra. Dạ thưa
tất cả mọi người, tôi có điên khùng gì đâu! Hiện giờ, tôi đâu còn cái gì để
mất.
Lòng tham con người không bờ bến là nguyên
nhân sinh ra đau khổ, được thì càng thêm tham cho nên muốn vượt qua phiền não
khổ đau chúng ta phải biết từ bỏ tham lam. Nhưng làm cách nào để từ bỏ được nó,
đó cũng là một vấn đề nan giải. Nếu lòng tham có hình tướng cụ thể, thì ta có
thể buông bỏ nó một cách dễ dàng. Đằng này lòng tham không có hình tướng, nên
khi đối diện với tiền tài danh vọng, sắc đẹp và quyền lợi thì nó mới lộ rõ chân
tướng, khiến ta phải dính mắc chạy theo bám víu vào chúng, nên khổ đau bắt đầu
có mặt.
Này các bạn, không gì không thể làm được
chỉ sợ chúng ta thất chí, nản lòng hạnh phúc hay khổ đau đều do chính mình tạo
lấy. Chính mình là thượng đế tối cao của bao điều họa phúc, đi đến tận cùng của
khổ đau là niềm vui vô hạn. Ai biết nắm lấy cơ hội tốt thì ngay bây giờ hãy
vươn lên làm mới lại cuộc đời, làm mới lại chính mình.
Thật ra trong cuộc đời này mỗi người đều
có phong cách sống khác nhau không ai giống ai, lối sống đó luôn ảnh hưởng đến
cách làm việc và tính tình của họ ngay hiện tại. Có người thích sống trong
quyền uy thế lực, nhà cao cửa rộng, giàu sang phú quý và vợ đẹp con ngoan. Họ
thích quyền hành, thích ăn trên ngồi trước, thích mọi người phải phục tùng.
Chính vì vậy, họ hiên ngang tìm cách vơ vét thật nhiều của cải về cho mình,
luôn sống trong tham lam, ích kỷ hẹp hòi, do đó làm tổn hại cho nhiều người.
Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế
gian này luôn vô thường biến đổi, nên cuộc sống lúc nào cũng bất như ý nhiều
hơn toại nguyện, vì vậy tham muốn nhiều thì càng khổ nhiều. Từ sự vọng tưởng
điên đảo tạo tác những điều xấu ác, đến khi đủ duyên mà phải nhận lãnh hậu quả
đau thương, càng điên đảo tạo nghiệp xấu ác thì đời sống con người càng thêm rối
ren, phức tạp, do đó khó tìm ra được sự an lạc và thảnh thơi. Vì tham cầu đam
mê đắm say hưởng thụ cho riêng mình, nên con người càng đánh mất giá trị tình
thương chân thật. Cũng có người suốt cả đời chỉ thích sống đơn giản không màng
đến danh vọng địa vị, mặc dù có rất nhiều tiền của. Họ không thích phô trương
thanh thế, không lãng phí xa hoa biết sống hài hòa vừa đủ và luôn tạo điều kiện
giúp đỡ mọi người.
Rồi có người thích sống “ an phận thủ
thường”, không hề có tham vọng cao xa,
chỉ sống cho riêng mình nhiều hơn, mặc cho thế sự có đổi thay họ cũng chẳng
màng đến.
Riêng người con Phật ngoài việc trao giồi
giới đức hoàn thiện chính mình lo tròn bổn phận đối với gia đình và xã hội, còn
phải có trách nhiệm hộ trì Tam bảo để làm niềm tin vững chắc cho hàng hậu học
mai sau. Vị thương gia là một Phật tử thuần thành và có thời gian quán chiếu tu
tập, nên trước sự sụp đổ về công danh sự nghiệp, gia đình ly tán và còn bị tù
đày nhưng vẫn không bị phiền muộn khổ đau chi phối. Cuộc đời vốn dĩ như vậy, nên
hư, thành bại là lẽ thường tình trong cuộc sống, ai biết tích lũy phước đức
trao giồi nhân cách, khi gặp bất hạnh không đến nỗi phải bị khổ đau ràng buộc
chi phối.
Thông thường khi thành công, thì chúng ta
vui sướng tự hào cho rằng mình là người tài giỏi. Khi thất bại thì buồn khổ bực
tức phiền muộn đổ thừa tại bị thì là hoặc đổ thừa cho số phận, định mệnh hay
ngẫu nhiên. Thật ra trong cuộc đời này mỗi thứ đều có nhân duyên với nhau, thân
tâm và thế giới luôn biến chuyển đổi thay theo từng thời gian, nó là mối tương
quan chằng chịt trùng trùng duyên khởi.
“Cái này có thì cái kia có,
cái này không thì cái kia không”.
Do đó, tất cả những vui buồn, được mất hơn
thua, thành công hay thất bại…không phải do thượng đế hay đấng tối cao nào, có
quyền ban phước giáng họa.
Hiểu được sự thật như thế, người con Phật
cần phải tin sâu nhân quả hơn để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày. Đời là
sống động, nhưng tâm ta vẫn an nhiên bất động trước nghịch cảnh cuộc đời. Muốn
được như vậy không phải đơn giản và dễ dàng, mà chúng ta cần phải có thời gian
rèn luyện và tu tập tinh cần. Khi việc tốt đến ta cũng không tự mãn coi thường
và khi việc xấu đã đến, ta cũng không buồn phiền than phân trách phận, mọi việc
xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Tham muốn quá đáng khiến con người mất
hết lương tâm là nguồn gốc dẫn đến khổ đau và làm tổn hại cho nhau.
Người con Phật dù có thành công nổi tiếng
trên trường đời cũng không tự mãn coi thường nhân loại. Đến khi bị thất bại
cũng không bị buồn khổ bức bách như trường hợp của người thương gia trên. Theo
tuệ giác của Thế tôn sở dĩ con người bị đau khổ triền miên, là do không biết
bằng lòng với hiện tại. Chính lối sống buông thả chạy theo dục vọng, là nguyên
nhân dẫn đến bất hạnh cho đời này và đời sau. Người con Phật khi bị thất bại
trên trường đời, vẫn bình tỉnh thản nhiên và luôn an trú trong giây phút hiện
tại, thì làm gì bị khổ đau chi phối. Đó là điểm đặc biệt của người Phật tử chân
chánh trong thời hiện đại.
KHÔNG PHÂN BIỆT
THÂN HAY THÙ
Ngày xưa có một vị đại phú gia tên là Tâm
Phúc, giàu có đến nỗi hơn cả tài sản của một đất nước. Ông lúc nào cũng giúp đỡ
người bất hạnh khốn khổ lại hay cung kính cúng dường các vị sa môn, ông nổi
tiếng là người nhân từ đạo đức. Tuy sống trong cảnh giàu sang, vinh hoa phú
quý, nhưng ông không bao giờ tiêu dùng lãng phí hay xa xỉ. Ông là một Phật tử
thuần thành thường xuyên đến nghe Như Lai thế tôn chỉ dạy, nhờ vậy ông thấu
hiểu thế gian này vốn biến đổi vô thường, không có gì là bền chắc và lâu dài.
Nhờ giác ngộ lý vô thường, nên ông mới
hiểu được tài sản của cải vật chất thường bị năm nhà cuốn trôi và không thể
trường tồn. Bị vua quan tịch thu, bị lửa đốt cháy, bị nước cuốn trôi, bị trộm
cướp, bị con cái bất hiếu phá sản. Chỉ có công đức bố thí cúng dường hoặc giúp
đỡ chia sẻ khi gặp người khó khăn hoạn nạn, mới là gia tài đích thực của chính
mình. Do đó, ông phát tâm giúp đỡ người già neo đơn bệnh tật, kẻ cô độc không
nơi nương tựa và những gia đình nghèo khổ, thiếu thốn khó khăn. Trưởng giả Tâm
Phúc là người nhân từ đạo đức, ông làm việc thiện không biết mệt mỏi nhàm chán,
cho nên cả nước ai cũng đều biết đến ông.
Do ông cúng dường bố thí quá rộng rãi, nên
tài sản ngày càng hao hụt và cuối cùng không còn gì để bố thí nữa. Chỉ còn lại
căn nhà năm gian ông bán đi, để chuẩn bị làm ăn phương xa. Vậy mà, ông ta vẫn
vui vẻ và cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Còn lại chút ít vốn liếng nhờ bán nhà,
ông quyết định ra nước ngoài mua bán làm ăn để có tiền trở về giúp đỡ người
nghèo khổ. Thế là ông tháp tùng cùng đoàn thương buôn, mở chuyến làm ăn phương
xa. Do phúc duyên nhiều đời đã từng làm phước, kết duyên sâu với tất cả chúng
sinh nên việc kinh doanh của ông phát đạt không thể ngờ.
Công việc làm ăn mua bán của ông thành công
dễ dàng, nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn số tiền được lời gấp mười lần những
thương buôn khác. Trên đường trở về xứ sở, nhiều người thấy ông đi chuyến này
trúng lớn nên sinh tâm tham muốn, cố ý tìm cách chiếm đoạt tài sản của ông.
Trong lúc mọi người đang ngồi nghỉ gần giếng cổ bên đường, thừa lúc ông sơ hở
chúng xô ông xuống và lấp giếng lại.
Đoàn thương buôn trở về bổn xứ nhưng chẳng
ai thấy trưởng giả Tâm Phúc đâu cả, nhà vua mới thắc mắc hỏi những người trong
đoàn. Mọi người đều đồng thanh trả lời rằng chúng tôi không biết, khi ra đến
nước ngoài ông Tâm Phúc đã tách ra khỏi đoàn. Nhà vua cảm thấy có một cái gì đó
không ổn và tự nhiên trong lòng khởi lên những ý niệm, chắc ông ta đang bị mấy
người này hại chết rồi. Do nghi ngờ như vậy, nên nhà vua lập tức ra lệnh bắt
giữ hết đoàn thương buôn lại chờ ngày xét xử sau.
Trưởng giả Tâm Phúc sau khi bị xô xuống
giếng tưởng đã tiêu đời nhà ma rồi, nhưng không ngờ số phận của ông chưa hết
duyên trần nên phía bên hông giếng có một đường hầm, ông ta lần theo đường ấy
bò ra nhờ vậy thoát ra được khỏi giếng lấp. Cuối cùng ông cũng tìm đường về
được xứ sở, nhà vua và dân chúng hay tin ai nấy cũng đều mừng rỡ, vị đại ân
nhân của đất nước đã trở về bình yên và vô sự. Vua hỏi ngài Tâm Phúc vì cớ sao
ông về muộn thế, dạ hạ thần thiếu phước báo nên làm ăn thất bại thua lỗ, cuối
cùng phải chịu trắng tay.
Nhà vua vẫn biết Tâm Phúc luôn mở rộng tấm
lòng nhân ái, luôn bao dung tha thứ và độ lượng, dù là kẻ đã cố tình hảm hại
mình nên mới khiêm tốn nói như vậy. Tâm Phúc biết được đoàn thương buôn bị nhà
vua giam giữ, nên ông ta động lòng thương xót mới xin với nhà vua rằng, những
người này hoàn toàn vô tội, họ là người tốt không hề có hành động gì xấu để hảm
hại hạ thần cả. Chính hạ thần vì tham lam quá mức, muốn có được nhiều tiền
nhiều của để về giúp dân, giúp nước, không ngờ việc kinh doanh bị thất bại.
Kính xin bệ hạ, hãy mở tấm lòng từ bi rộng lớn tha cho họ được trở về đoàn tụ
với gia đình, vợ con họ đang mòn mỏi khát khao chờ chồng, chờ cha, sau nhiều
tháng xa nhà.
Vua nghe xong cảm động lòng thành của Tâm
Phúc, nên cho người thả hết đoàn thương buôn ra. Nhờ vậy họ càng quý kính
trưởng giả nhiều hơn và từ đó về sau phát tâm theo ngài làm những điều phước
thiện. Sau đó, trưởng giả độ tất cả gia đình và người thân của đoàn thương buôn
quy y Tam bảo gìn giữ năm điều đạo đức, để họ có cơ hội hướng đến chân, thiện,
mỹ. Sau này họ cùng nhau góp vốn thành lập Trung tâm nối kết vòng tay nhân ái
để giúp đỡ những người bất hạnh, hổ trợ công ăn việc làm cho người thất nghiệp,
bảo trợ và chăm sóc người tàn tật, người già neo đơn, người cô độc, vượt qua
nghèo đói và bất hạnh.
Tâm Phúc như một vị Bồ tát hiện thân đi
vào đời để cứu độ chúng sinh, nên phần thiệt thòi nhận về mình, phần lợi lộc
nhường cho mọi người, không bao giờ có một tiếng than van hay trách móc ai, dù
người đó đã cố ý hảm hại mình. Trong mắt ngài không có kẻ oán người thù, ông
luôn đối xử bình đẳng với tất cả mọi người. Nhờ thế ông giúp và độ vô số người
ác biết quay về với chánh pháp, sau này họ là những nhà từ thiện và hoằng pháp,
luôn vì lợi ích tha nhân.
THỪA NƯỚC ĐỤC THẢ CÂU
Mặc dầu được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng,
nhưng chúng tôi vì quá ngu si mê muội từ nhỏ đã đam mê tứ đổ tường như cờ bạc,
rượu chè, hút xách, đàn điếm, nên không có dịp học hỏi và tham khảo nhiều. Đến
khi vào chùa cũng chỉ lao động tay chân, không màng đến nghiên cứu giáo lý Phật
đà, vì cứ nghĩ rằng, trực chỉ nhân tâm kiến tính thành Phật là đủ rồi. Đó chính
là sự sai lầm lớn lao trong đời tu của chúng tôi, giờ thì có nhân duyên đi
hoằng pháp nhưng lực bất tòng tâm kèm theo thân thể bệnh hoạn, mất nhiều chứng
bệnh nan y thành ra chướng ngại bất ổn, nên không thể nghiên cứu chia sẻ thấu
đáo được. Đành phải chịu lờ mờ trong ánh sáng lặp lè…. trong cuộc hành trình
hoằng pháp và từ thiện.
Quyền lực, danh vọng, tiền tài, sắc đẹp
trong thời tam quốc chí Trung Quốc quả thật không biết bao xương máu đổ xuống,
cũng vì mộng làm bá chủ thiên hạ bắt buộc mọi người phải phục vụ cho riêng
mình. Chính vì thế con người luôn sống trong thù hận khổ đau, được thì mặc tình
thao túng hại người hại vật, không được thì chờ đợi thời cơ, tìm đủ mọi cách để
trả thù. Con người ta cứ thế lanh quanh lẩn quẩn trong cái vòng ấy, để rồi tạo
khổ đau cho nhau không có ngày cùng.
Thái sư Đổng Trác tài ba lỗi lạc và có đứa
con nuôi Lã Bố anh hùng cái thế nên đã bình thiên hạ một cách dễ dàng, nhiều
thế lực khác hợp tác lại cũng không đủ
sức hạ bệ ông ta. Chỉ một mình Đổng Trác không thôi, các thế lực khác vẫn chưa
đủ sức tranh tài cùng ông. Lại thêm có anh hùng Lã Bố tuổi trẻ tài cao, nên Vương
Doãn đã tìm đủ mọi cách để giành cho được quyền lực đó. Điêu Thuyền một trang
tuyệt sắc giai nhân được Vương Doãn cứu mạng sống trong lúc nguy khốn, nên đã
mang nặng ơn nghĩa của người nhận làm cha nuôi.
Vương Doãn nhớ lại sự tàn bạo của Đổng Trác,
cảnh tượng giết người quá dã man như móc mắt, chặt tay, chặt chân, chặt đầu, mổ
bụng, nấu thịt người giống như loài lang sói. Ông ta ra vẻ trầm ngâm suy tư như
có chuyện gì quan trọng lắm, Điêu Thuyền không biết chuyện gì sẽ xảy ra nên vội
thưa rằng, con mang nặng ơn cứu mạng của cha có chỗ nào cần dùng nếu có chết
con cũng cam lòng. Hiện nay quyền lực đều nằm trong tay Đổng Trác và bên cạnh
lại có Lã Bố con nuôi hắn sức khỏe phi thường, võ nghệ cao cường thiên hạ khó
ai địch nổi, nên hai cha con lộng quyền mặc tình cướp bóc của thiên hạ coi
người chẳng ra gì.
Nhưng ngược lại Đổng Trác, Lã Bố đều đam mê
sắc đẹp chỉ có con mới làm được điều này, con hãy vì vận mệnh đất nước nếu
không thì nhà Hán sẽ rơi vào tay loạn tặc. Nhiệm vụ của con là làm sao tạo kế
ly gián để hai cha con Đổng Trác, Lã Bố hiểu lầm nhau và tự giết nhau. Dạ thưa
cha, xin Người cứ yên lòng dù con có chết muôn vạn ngàn lần, cũng không thể nào
đền đáp hết ơn cứu mạng của cha.
Vương Doãn liền cho người khéo léo đến mời
Lã Bố vị tướng quân tài ba lỗi lạc vô địch trong thiên hạ, về phủ mình dự tiệc
và chiêu đãi như thượng khách. Vương Doãn trong lúc rượu vào lời ra đã ca ngợi
thiên tài Lã Bố dưới sự bảo bọc của triều thần Đổng Trác làm cho Lã Bố càng
thêm kiêu hãnh. Lợi dụng Lã Bố đã có chút hơi men Vương Doãn mới cho mời người
đẹp Điêu Thuyền ra hầu rượu Lã Bố, trước sắc đẹp nghiên thành đổ nước làm cho
vị tướng trẻ mê mẫn tê tái cả tâm hồn. Biết cá đã bị cắn câu Vương Doãn liền
lên tiếng, tại hạ chỉ có một cô con gái đến nay vừa tròn mười chín tuổi chưa có
ai nâng khăn sửa túi, nếu tướng quân đồng ý thì chúng ta sẽ chọn ngày lành
tháng tốt để định bề gia thất. Không còn chần chừ gì nữa Lã Bố nhận lời ngay,
thế là hai bên đã định ngày coi như không quá một tuần, phải đưa Điêu Thuyền về
Lã phủ.
Mọi việc tưởng chừng như êm xuôi, Lã Bố đang
mừng thầm trong bụng không ngờ cuộc đời chinh chiến của mình, lại gặp một trang
tuyệt sắc giai nhân có một không ai trên thế gian này. Đang lúc hưng phấn lên
tột cùng, bổng có lệnh của Đổng Trác đi thẩm tra chiến sự gấp, Lã Bố tìm cách
thoái thác không đi đủ mọi lý do, nhưng gì không có người thay thế nên Lã Bố
đành phải vâng lời. Sợ nhạc phụ nuốt lời, nên Lã Bố đã cho người báo Vương Doãn
biết chỉ đi vài ngày rồi trở về cử hành hôn lễ. Xưa nay Lã Bố chỉ thích quyền
lực, mỹ nữ và ngựa tốt, tuy phải bận việc phương xa nhưng trong lòng Lã Bố
không thể nào quên hình bóng của Điêu Thuyền. Sắp xếp công việc xong xuôi, Lã
Bố một mình dùng ngựa Xích thố phóng nhanh về để gặp mỹ nhân, trong lòng hưng
phấn lạ thường tưởng như mình đang ở cạnh nàng. Thoáng chốc hơn một ngày Lã Bố
đã về đến Trường An…
Cơ hội ngàn vàng đã đến, Vương Doãn đích
thân mình đến mời thái sư Đổng Trác về Vương phủ dự tiệc trong ngày mai, nếu
quan tư đồ có lòng thì ta không nỡ từ chối. Thế là con mồi thứ hai sắp rơi vào
cạm bẫy, nhưng lần này Vương Doãn lại lộ vẻ lo âu, sợ hãi, nếu cơ mưu bị bại lộ
thì cả gia tộc bị tiêu diệt. Tuy lo sợ thấp thỏm trong lòng nhưng vẫn cứ phải
hành sự. Lần này thì Vương phủ chuẩn bị chu đáo hoành tráng hơn trước nhiều,
Thái sư Đổng Trác với tướng mạo oai phong đường bệ, hiên ngang vào bước phủ
chẳng khác nào ngọn núi sừng sửng hiên ngang giữa trời đất, làm cho Vương Doãn
thót cả tim. Tuy nhiên giây phút lo sợ đã qua, yến tiệc bắt đầu Vương Doãn tự
tay mình mời rượu. Đổng Trác chẳng thèm quan tâm, hầu như đang mong chờ một thứ
gì đó, Vương Doãn hiểu ý cho mời lá ngọc cành vàng Điêu Thuyền ra hầu rượu.
Vừa thoáng thấy bóng dáng của người đẹp,
Đổng Trác như người bị lạc vào mê hồn trận không ngờ Vương phủ có một trang
tuyệt sắc giai nhân. Ngài mới quay sang hỏi Vương Doãn, người đẹp ấy là con nhà
ai? Dạ bẩm Thái sư, là con gái của hạ thần năm nay vừa tròn mười chín tuổi chưa
có ai nâng khăn sửa túi, nếu Thái sư đồng ý thì tiện hạ xin dâng tặng cho ngài,
để có người hầu hạ chăm sóc. Đổng thái sư vô cùng mừng rỡ và trong ngày hôm đó,
liền cho dời Điêu Thuyền về dinh sở, sắc đẹp của nàng làm cho Đổng Trác say mê
như điếu đổ, suốt ngày không rời xa nàng nửa bước.
Lã Bố về đến nơi. Liền tức tốc cho người
đem sính lễ đến rước cô dâu về phủ của mình, nhưng sự thật quá phũ phàng. Khi
gặp cha vợ Lã Bố mới biết được, chính cha nuôi của mình đã phỏng tay trên rồi,
lòng căm hận vô cùng chẳng biết làm cách nào để giành lại người đẹp đây! VìĐổng Trác quyền lực quá mạnh, một mình Lã Bố không thể làm gì được. Đây là cơ
hội ngàn vàng cho Vương Doãn, nhân cơ hội này ông ta thừa nước đục thả câu.
Vương Doãn bèn kể lễ lại sự tình, rằng đã hứa gả cho tướng quân Lã Bố rồi.
Nhưng Đổng Trác ỷ quyền hành thế lực của mình, nên đã ép Vương gia phải giao
người đẹp về cho ngài, xin Lã tướng quân thứ lỗi cho. Quyền lực lúc nào cũng đi
đôi với quyền lợi và sắc đẹp, con người ta sở dĩ độc ác với nhau cũng vì chỗ
này. Vương Doãn biết được Đổng Trác đam mê sắc đẹp nên liền cơ hội hiến tặng người
đẹp Điêu Thuyền để gọi là đền ơn đáp nghĩa. Đó cũng là chiêu thuật của kẻ tiểu
nhân, mượn sắc đẹp để hại chết cha con Đổng Trác và Lã Bố. Nhiều nhà chính trị
luôn tranh giành quyền lực, vì họ chẳng bao giờ thấy đủ cả, khi chưa được kết
quả mong muốn thì tìm cách móc nối đưa đẩy để hảm hại người khác. Với quyền lực
trong tay, nếu người lãnh đạo biết sống vì dân vì nước dựa trên nền tảng tình
yêu thương nhân loại, thì người dân được cơm no áo ấm và hạnh phút biết bao.
Còn nếu vì quyền lợi riêng tư thì tìm cách vơ vét, bóc lột về cho mình do đó
làm tổn hại cho nhiều người. Nhưng khi quyền lực biết dựa vào tâm linh, thì dễ
thiết lập được sự công bằng, duy trì sự sống được bình ổn trên mọi phương diện.
Thông thường thì người dân lệ thuộc vào người có quyền thế, thành công hay thất
bại cũng ảnh hưởng đến người lãnh đạo đất nước.
Vương Doãn trong nhất thời nhờ mỹ nhân kế,
mà tiêu diệt được hai cha con Đỗng Trác và Lã Bố. Nhưng là kẻ tiểu nhân nịnh
thần gian dối, nên khi có quyền lực trong tay không biết nhìn xa, hiểu rộng và
trọng dụng người tài, nên cuối cùng bị kẻ dưới trướng của Đổng Trác hạ bệ. Thật
ra trong chiến tranh loạn lạc con người ta tìm đủ mọi cách để nắm được quyền
lực. Mục đích chính cũng vì quyền lợi và hưởng thụ. Có quyền lực như thế để làm
gì, trong khi đó máu đổ xương rơi, lòng người oán hận cuối cùng cũng phải chết
trong uất hận.
Vua A Dục là một bằng chứng thiết thực dựa
trên quyền lực tâm linh đã thống nhất Ấn Độ, biết áp dụng giáo lý nhân quả nhà
Phật vào đời sống con người, nhờ vậy dân chúng thời đó hạn chế tối đa việc giết
hại súc vật, luôn tu tập thương yêu và hiểu biết. Sử dụng quyền lực sai lầm là
nguyên nhân gây thù chuốc oán, làm khổ đau cho nhiều người. Những nhà lãnh đạo
đất nước là những người có nhiều quyền lực, nếu họ biết hy sinh tận tụy vì lợi
ích của chung, thì cuộc sống người dân có phần ấm no và an vui hạnh phúc.
CANH BẠC ĐỜI NGƯỜI
Cái gì đã đưa đẩy con người ta vào đường
cùng không có chút lương tâm, để rồi phải sống trên xương máu và sự đau khổ của
nhiều người. Theo quan niệm của một số người xa xưa cho rằng ai cũng có một số
mạng cố định, số sung sướng thì suốt đời được sung sướng, số khổ đau thì suốt
đời khổ đau. Số cao sang hay thân phận thấp hèn đều có sự sắp đặt nhất định của
nó. Một chú bé không cha mẹ đang sống trong một cô nhi viện, được mấy bà ma xơ
chăm sóc và nuôi nấng. Tuổi thơ bất hạnh không có cha mẹ người thân để nương
tựa, đứa bé cảm thấy cuộc sống trở nên vô vị và lạc loài. Vì bị mặc cảm dày dò
thân phận của mình, nên chú bé đã tỏ ra lì lượm và ương ngạnh hơn. Thế rồi một
hôm vô tình chú bé được các ma xơ dẫn đi ra ngoài có chút việc, khi tuổi đời
vừa lên bẩy. Được nhìn thấy thế giới bên ngoài ồn náo và hỗn độn, chú bé đã
chuồn khỏi vòng tay của các ma xơ và bắt đầu cuộc hành trình.
Lang thang làm kiếp bụi đời
Rày đây mai đó mánh mung chơm
đồ.
Bắt đầu bước vào đời, với những năm tháng
lang thang ngủ đầu đường xó chợ, cuộc sống nhờ vào móc túi chơm chỉa của người
khác. Chú bé cảm thấy hận thù tất cả mọi người và căm hờn những ai có cuộc sống
cao sang và quyền quý. Chú bé có một suy nghĩ và hành động hết sức là độc ác,
luôn mong muốn gieo đau khổ đến cho nhiều người. Và chú bé cảm thấy vui sướng
khi thấy người khác khổ đau, quằn quại trong cơn tuyệt vọng. Từ bảy tuổi chú đã
sống và tồn tại bằng nghề ăn cắp, móc túi đầu đường xó chợ. Chú đã lớn lên với
với cuộc đời đầy đau thương và tội lỗi. Chỉ biết làm cho ai đó phải khổ đau và
sợ hãi, nhất là những người có cuộc sống lạc quan yêu đời. Chú bé đã mang trong
mình dòng máu hận thù lên đến tột đỉnh, luôn lấy sự khổ đau của người khác làm
niềm vui cho chính mình. Chú thù ghét tất cả mọi người, nhất là những ai sung
túc đầy đủ và thành công trên trường đời danh lợi.
Thất học mù chữ, không cha mẹ, không người
thân và cuộc sống nhờ vào sự mất mát thiệt hại của người khác, tuổi thơ lớn lên
bằng tất cả sự căm hận, thù hằn. Khi chú trộm cướp lường gạt của ai, chẳng may
bị phát giác liền tìm cách hành hung gia chủ một cách thậm tệ. Đến năm mười sáu
tuổi chú đã có số má trong giới giang hồ, nhờ cách sống lạnh lùng không thương
tiếc. Không dừng lại ở chỗ móc túi lường gạt, chú muốn các đàn em nâng cấp nghề
nghiệp cao hơn một bậc, là tổ chức những phi vụ cướp giựt, trấn lột công khai.
Bắt đầu từ đó nỗi kinh hoàng sợ hãi gieo giắc khắp mọi nơi, chỗ nào chú đến nơi
đó đau thương mất mát và khổ đau có mặt. Chú nổi tiếng hung ác tàn bạo, trong
đám du thủ du thực. Mới hai mươi tuổi đầu đã từng vào tù ra khám và chẳng may
cho chú trong một phi vụ cướp giựt, chú lỡ tay giết chết một mạng người, nên bị
lệnh truy nã gắt gao.
Những ngày trốn lệnh truy nã là những ngày
đen đúa nhất cuộc đời, chú ta lang thang thất thỉu đã gần một tuần mà chẳng có
miếng gì trong bụng. Quả thật cuộc đời của chú, chưa bao giờ có những lúc khốn
cùng như vậy, chú đói khát mệt lả người,
nên dẫn đến kiệt sức. Vùng đồi núi hoang vu không một bóng người lai vãng, bổng
trước mặt chú là một túp lều tranh hiện sờ sờ. Đói quá ráng bò đến gần nhà, thì
bị mê man bất tỉnh lúc nào không hay. Khi chú ấy tỉnh dậy, mới biết túp lều đó
là của một vị thầy đang ẩn tu giữa rừng núi hoang vu lạnh lẽo. Chú ấy đã được
vị thầy chăm sóc rất tận tình, nhờ vậy sức khỏe dần được hồi phục.
Lần đầu tiên trong cuộc đời chú ấy mới
biết thế nào là tình yêu thương, chú đặc biệt được nằm trên cái giường duy nhất
trong túp lều. Còn nhà sư thì ân cần chăm sóc cho chú qua cơn bạo bệnh, sức
khỏe của chú dần được hồi phục. Chú cũng không ngờ cuộc đời của mình rơi vào
chỗ nông nỗi này, mặc dù đã được nhà sư cứu chữa và giúp đỡ, nhưng trong tâm chú
vẫn khởi lên suy nghĩ ác độc trước khi rời khỏi chỗ này, phải lấy một cái gì đó
để có kế sinh nhai trong cuộc hành trình kế tiếp. Nhà sư cũng chả thèm quan tâm
chú ấy vì sao như vậy, chỉ biết một lòng giúp đỡ và chăm sóc nhiệt tình. Đêm
hôm đó chú ấy chờ cho nhà sư ngủ rồi mới ra tay hành động, mọi toan tính động
tĩnh đều không qua cặp mắt nhà sư. Biết trước ý định của chú, nên nhà sư đã
chuẩn bị sẵn một số tiền. Lúc này chú dùng dao khống chế nhà sư bảo rằng có bao
nhiêu tiền bạc nên đưa ra hết, không thì toi mạng. Bần tăng tu hành làm gì có
tiền bạc, nhưng có một Phật tử tín tâm gửi tiền cúng dường để đúc một cái
chuông. Số tiền này tôi tặng cho chú làm lộ phí đường xa, sau này nếu có gì
trắc trở thì hãy quay trở lại đây ta sẽ tìm cách giúp đỡ cho.
Lấy
được số tiền quá lớn, chú ta chuồn lẹ và mất dạng trong đêm tối, nhà sư mỗi
ngày phải đi hóa duyên để làm sao có đủ số tiền đúc chuông. Thời gian thắm
thoát trôi qua, cuối cùng chú ta cũng bị tóm cổ trong một phi vụ khác. Sau khi
nhà chức trách điều tra thì chú ta có khai nhận, là dùng dao khống chế, uy hiếp
nhà sư để lấy số tiền lớn. Nhưng nhà sư quá mức từ bi nói rằng số tiền đó là do
mình tự nguyện cho chú, nhờ vậy chú thoát được bản án tử hình.
Nhờ tấm lòng hy sinh cao thượng của nhà
sư, nên đã giúp cho chú ta thay đổi nhận thức và cách sống để làm lại cuộc đời.
Suốt thời gian ở tù chú được các cán bộ trại giam dạy cho học chữ, giờ đây chú
không còn ngang tàng bướng bỉnh lì lượm như xưa nữa, mà lúc nào cũng thầm cảm
ơn nhà sư đã chỉ cho mình nhân cách sống. Từ đó chú ta luôn phấn đấu học tập
cải tạo tốt, nhờ vậy giảm án và được trả tự do trước thời hạn. Khi bước chân ra
khỏi trại giam chú liền đón xe đến chỗ nhà sư để quỳ lạy tạ lễ. Giờ đây mỗi
cảnh vật đều thay đổi tốt đẹp, túp lều tranh bé nhỏ ngày xưa không còn nữa, mà
bây giờ là một ngôi chùa khang trang tăng chúng tu học không dưới một trăm. Chú
ta cũng không thể ngờ rằng, cuộc đời có thể đổi thay nhanh như vậy và chính
mình cũng có những tâm tư khác hẳn khi xưa quá nhiều. Một con người chỉ biết
sống trên sự đau khổ của người khác, gian manh và lì lượm không ai bằng. Từ
ngày hoàn lương đến nay chú xin ở lại chùa công quả học đạo, hiện tại chú là
một tu sĩ đang sống và tu học. Ngày xưa chú ác độc bao nhiêu, bây giờ thầy hiền
thiện bấy nhiêu. Ngày xưa chú đam mê vui chơi trụy lạc sống trên đau khổ của
người khác, nhưng giờ đây thầy sống và làm việc dấn thân vì lợi ích tha nhân.
Như chúng ta đã biết, con người vì ham
hưởng thụ quá đáng, nên dễ bám víu vào các tài sản vật chất, khi được thì cố
gìn giữ sợ bị mất mát, khi không được thì thất vọng khổ đau phiền muộn. Cũng
vậy, chúng ta muốn từ bỏ khổ đau, thì phải biết nguyên nhân gây ra đau khổ. Chú
bé đó vì thiếu tình thương của cha mẹ từ nhỏ, nên trong người mang nhiều mặc
cảm, tự ti, rồi từ đó cảm thấy căm ghét thù hằn những ai có đời sống gia đình
hạnh phúc.
Tuổi thơ bất hạnh, không gia đình người
thân lại thất học mù chữ nên dễ dàng đưa đẩy con người ta vào vòng tội lỗi, nếu
không có chính sách khoan hồng, không có sự giáo dục của xã hội, không có những
con người giàu lòng từ bi, thì khó chuyển hóa được những kẻ đam mê trụy lạc, sa
đọa và hiểu biết sai lầm. Tinh thần từ bi là phẩm chất cao quý quan trọng trong
đạo Phật, yêu thương tôn trọng sự sống muôn loài không phân biệt là từ bi cao thượng.
Yêu thương, tha thứ và bao dung là phẩm chất cao quý rất cần thiết trong đời
sống nhân loại. Thế gian này không thể thiếu tấm lòng nhân ái, tấm lòng từ bi,
nó là chất liệu quan trọng góp phần xây dựng hòa bình hạnh phúc cho tất cả mọi
người.
Một người con gái rất thông minh và kiều
diễm, được sinh ra trong một gia đình giàu có, đã từng là học sinh xuất sắc
thời còn học phổ thông. Ấy thế mà, khi đậu vào đại học cô ta bị bạn bè lôi cuốn
vào chỗ không lành mạnh, cuối cùng rơi vào đam mê và nghiện ngập. Rồi từ đó,
bóng tối vô minh đã ăn sâu vào tâm khảm một cô nữ sinh hiền thục, thông minh
duyên dáng bổng chốc lát trở thành con người tha hóa, sa đọa.
Trong gia đình ai cũng đều thành đạt hết,
chỉ có cô rẽ sang lối khác làm cho cha mẹ thất vọng, buồn chán, ưu sầu. Cái gì
đã đưa đẩy cô ta vào vòng oan trái và tội lỗi, thượng đế ư, trời đất ư, xã hội
ư, gia đình ư, bạn bè ư? Không, không phải vậy, nếu ai vấp ngã cũng đổ thừa như
thế thì vô tình gây thêm ân oán hận thù cho nhau, mà chính mình phải can đảm
nhận chịu trách nhiệm về những hành vi sai trái đó.
Rồi cái ngày ấy đã đến cô ta được vào trung
tâm cai nghiện ma túy. Được sự giáo dục và giúp đỡ của cán bộ nhân viên, cô ta
dần dần tỉnh ngộ, nhận ra sự sai lầm của mình do tham cầu hưởng thụ quá mức,
nên bị rơi vào chỗ đam mê sa đọa. Từ đó cô ta phát tâm làm mới lại cuộc đời,
làm mới lại chính mình, cố gắng phấn đấu cai nghiện tốt và sớm trở về đoàn tụ
với gia đình. Nhờ thấy lỗi lầm của mình do đam mê hưởng thụ quá đáng, cùng với
ý chí, quyết tâm và nghị lực, cô cố gắng học tập và lao động tốt nên đã được
hồi gia trở về gia đình. Giờ đây cô đã có mái ấm gia đình đang sống hạnh phúc
bên chồng, cùng với đứa con trai ngoan hiền, dễ thương. Ngoài công việc thường
nhật ở công ty, cô còn tham gia vào hội tư vấn phụ nữ, để chia sẻ động viên,
giúp đỡ những phụ nữ bị lầm đường, lạc lối. Để họ có đủ niềm tin và nghị lực
vươn lên trong cuộc sống, vượt qua chính mình.
Sống giữa dòng đời nghiệt ngã, với vô vàn
sự cám dỗ con người khó làm chủ được bản thân, để vượt qua những khoái lạc trần
gian. Quả thật đời người giống như canh bạc, nếu ai biết khôn khéo lắm mới
không bị nó làm thất điên bát đảo. Bằng không thì cứ mãi chìm đắm trong si mê
điên đảo, để rồi phải chịu chuốc họa vào thân không có ngày thôi dứt. Sống ở
đời ai không một lần vấp ngã, vì thế con người cần phải có niềm tin trong cuộc
sống, tin sâu nhân quả, tin mình là nguyên nhân của bao điều họa phúc.
Ngày xưa khi chưa biết tu thì từ thân,
miệng, ý này gây ra biết bao điều tội lỗi do thấy biết và nhận định sai lầm.
Nay biết tu rồi thì cũng từ thân, miệng, ý, làm những việc lợi ích tốt đẹp.
Niềm tin này luôn đi đôi với trí tuệ, chứ không phải tin suông tin càn, ai nói
gì cũng nghe mà không có sự chiêm nghiệm và quán chiếu. Khi có trí tuệ rồi thì
chúng ta sẽ thấy rõ đời người giống như canh bạc đỏ đen, thân cận người hiền
lành đạo đức và cố gắng bắt chước làm theo giống như người được số đỏ trong cờ
bạc. Còn chúng ta sống gần gũi những kẻ xấu ác, thì lâu ngày sẽ tiêm nhiễm các
thói hư tật xấu như người cờ bạc lúc nào cũng bị thua gọi là số đen. Nhưng đen
hay đỏ, tốt hay xấu, chính yếu vẫn là do ta quyết định, ta có thể thay đổi và
lật ngữa thế cờ, nếu ta có đủ bản lĩnh và can đảm. Ta không thể ngồi đó để cầu
cạnh van xin, một đấng quyền năng ban phước lành cho ta.
Ta cũng không thể than phân trách phận đổ
thừa cho xã hội, gia đình hay người thân, mà chính chúng ta phải nổ lực tu tập
để đủ khả năng làm chủ bản thân trong mọi hoàn cảnh. Không ỷ lại, không đổ
thừa, tự mình làm chủ bản thân đễ vượt qua canh bạc đời người.
ĐỒNG TIỀN VÀ MẠNG
SỐNG
Ngày xưa tại một nước nọ có một vị vua tên
là Nhân Lực. Một hôm trong lúc đi săn tình cờ nhà vua ghé ngang qua một tháp
Phật, ngài sinh tâm hoan hỹ nên đã cúng dường năm xu. Vô tình có một người đi
ngang qua trông thấy, bèn vỗ tay tán thán và khen ngợi:
Hay thay phước lành! Hay thay phước lành!
Nhà vua nghe qua,
tưởng người đó cố ý châm chích, mĩa mai mình cúng dường quá ít, nên tức quá cho
quân lính bắt hắn ta và ra lệnh xử trảm vì mang tội khi quân .
Người
đó sợ quá, xin phép nhà vua cho được trình bày nguyên nhân, dù có chết cũng cam
lòng.
Được nhà ngươi cứ nói, nếu đúng sự thật thì
ta sẽ tha tội chết cho ngươi.
Dạ muôn tâu bệ hạ, con từ khi làm lại cuộc
đời, làm mới lại chính mình, mỗi khi thấy ai cúng dường con đều hoan hỹ tán
thán công đức tốt lành. Xin bệ hạ cho phép con được nói tiếp:
Cách nay ba năm về trước do con hiểu biết
thấp kém và sai lầm. Con nghĩ rằng chết là hết, không có nhân quả nghiệp báo,
không có đời sau, vì ham muốn hưởng thụ nhiều và đam mê chơi bời trác táng, nên
con đã hành nghề cướp giựt của thiên hạ.
Có lần con chặn một người đi đường, anh ta
đang mang bị hành lý trên vai con liền tước đoạt lấy kiểm tra kỹ ngoài hai bộ
đồ chẳng còn thứ gì. Nhưng lạ thay, anh ta luôn nắm chặt bàn tay lại như có vật
gì quý giá lắm. Con bèn dùng dao uy hiếp anh ta, bảo thả tay ra thì mới an toàn
mạng sống, anh ta nhất quyết không chịu buông tay ra. Cuối cùng con phải đánh
anh ta bất tỉnh và khi mở bàn tay ra chỉ vỏn vẹn có một đồng xu. Con cảm thấy
ăn năn và hối hận vô cùng về hành động tàn bạo của mình. Chỉ có một đồng xu
nhỏ, vậy mà anh ta thà chết chớ không chịu buông tay ra.
Từ đó con ăn năn hối cải, sám hối lỗi lầm,
quyết dứt khoát từ bỏ con đường lầm lỗi cướp giựt. Và sau này nếu thấy ai làm
việc phước thiện, con đều tán thán khen ngợi hết lòng không kể là người giàu
hay nghèo. Nhà vua nghe qua liền tha tội chết cho anh ta.
Câu chuyện trên làm cho chúng tôi nhớ lại
những việc năm xưa khi còn ở ngoài đời. Khi chưa đi tu tôi thường chơi thân với
những tên đầu trộm đuôi cướp và thường nghe kể lại các phi vụ cướp giựt kinh
hoàng. Mã Trường Ghì là một tên đàn anh nỗi tiếng những thập niên 90, anh ta
nghiện ma túy, đam mê cờ bạc và ham đá gà, chuyên cho vay nặng lãi. Nhưng vì anh
ta quá đam mê cờ bạc nên phải thiếu nợ lại đàn anh của mình. Túng thế, anh ta
mở phi vụ cướp giựt các chủ sạp vải Chợ lớn.
Một hôm, sau khi me được một con mồi cở bự,
nếu thành công thì dư sức trả nợ. Anh ta tính toán đường đi nước bước của con
mồi một cách rành rẽ, chỉ chờ thời cơ thuận lợi là ra tay hành động. Con mồi đã
rơi vào thế sắp đặt của anh, thế là anh ta nhanh tay cưởm đi cái túi xách gần
cả tỉ đồng mà gia chủ để trả tiền vải. Nhưng không ngờ người bị nạn là dân miền
trung chánh gốc, nên cô ta không chịu buông tha, la toán lên dữ dội, dù anh ta
cố gắng khống chế bằng mọi cách. Điểm đặc biệt của người miền trung đa số thà
chết chớ không bỏ của, đó là kinh nghiệm của giới giang hồ thứ thiệt. Biết nuốt
không trôi, nên anh ta đành phải ngậm bù hòn quăng túi xách tiền trở lại cho
khổ chủ. Nhờ vậy anh ta thoát được vòng vây truy nã của nhiều người.
Thường thì các tay giang hồ đàn anh đã có
số má trong trường đời rất khôn khéo, họ nhắm ăn không được liền bỏ con mồi
không luyến tiếc. Sở dĩ có rất nhiều các vụ án cướp của, giết người hay thường
xảy ra là những tay giang hồ dỏm còn non nớt, không phải là đàn anh thứ thiệt.
Chúng vì sợ người phát giác tố cáo và bị pháp luật trừng trị nên ra tay hành
động để bịch đầu mối.
Như trong chuyến đi giảng cuối năm tại Cà
Mau có một người gọi điện thoại tới, nói chuyện trong cơn hốt hoảng, thầy làm
ơn cứu con thầy ơi? Chúng tôi mới hỏi có chuyện gì không may đã xảy ra. Người
ấy nói, con mới vừa giết một người vì chúng đã bắt cóc con gái của con. Con bây
giờ muốn giết thêm một mạng người nữa để bịch đầu mối và cứu đứa con gái của
con. Tôi nói, đâu thể được giết người là có tội rồi mạng phải đền mạng, nặng
thì tử hình, nhẹ thì cũng từ mười lăm năm cho đến án chung thân. Anh, muốn cứu
con mình thì ngay bây giờ hãy nên ra đầu thú đi, họa may mới bảo tồn mạng sống
và có thể cứu con được. Còn nếu sợ mà giết thêm người nữa, thì luật pháp không
bao giờ tha thứ và con gái của anh cũng khó bảo toàn mạng sống. Anh tin lời tôi
nói không, dạ tin. Nếu muốn cứu con mình, thì phải thành khẩn khai báo và thú
tội, chính quyền và pháp luật sẽ cho hưởng chính sách khoan hồng, như thế vẫn
còn có cơ hội hy vọng gặp được con. Nghe đến đây anh ta mới sực tỉnh và nói một
câu rất chân thành, con rất cám ơn thầy, nhờ ơn thầy chỉ dạy, sau khi ra tù con
sẽ tìm đến gặp thầy. Tôi nói chúc anh được nhiều may mắn và cố gắng học tập cải
tạo tốt để sớm trở về đoàn tụ với gia đình, từ đó không còn nghe anh ta gọi tới
nữa.
Các bạn thấy chưa, vì một phút si mê nóng
lòng con mình bị bắt cóc mà anh ta phải giết chết một mạng người. Không biết
sao, anh ta lại biết số điện thoại của chúng tôi mà gọi tới nhờ cứu bồ. Đó là
phước duyên của anh ta, sao khi không còn liên lạc với anh ta được nữa. Chúng
tôi lúc nào cũng luôn cầu nguyện Tam bảo thường xuyên gia hộ cho anh ta, không
bị án tử hình và vững niềm tin trong cuộc sống, sám hối ăn năn lỗi lầm để còn
hy vọng có ngày gặp lại người thân.
Thật ra trong cuộc đời này, con người
thường bị vô minh che lấp nên khó làm chủ bản thân khi có sự cố xảy ra, vì muốn
bênh vực người thân mà nhiều vụ án giết người rất dã man, làm đau lòng nhân
thế. Lòng si mê tham ái bám víu vào người thân, khiến con người dễ sinh ra mù
quáng như người cha kia, vì thương tiếc đứa con gái bị bắt cóc, mà trở thành kẻ
giết người. Khi lòng tham tiếc của ta đã lớn mạnh rồi, thì con người bất chấp
luân thường đạo lý, không còn bình tỉnh sáng suốt, vì nóng lòng người thân mà
giận dữ bộc phát, dẫn đến giết người trông chốc lát. Sở dĩ con người ta dễ
vướng vào vòng tội lỗi, vì si mê chấp ngã quá lớn. Chấp là nguồn gốc của đau
khổ, là nguyên nhân dẫn đến bao điều tội lỗi, càng cố chấp là ta, là của ta,
nên tìm cách bênh vực, bảo vệ không được thì sinh ra thù hằn tìm cách trả đủa.
Cuộc đời là một dòng trôi chảy không dừng ở phút giây nào, thế mà chúng ta muốn
nắm giữ mãi làm sao được. Vì cố bám víu gìn giữ, mà giữ có được đâu, thân này
già, bệnh, chết, mà chúng ta cứ muốn trẻ mãi không già, muốn sống hoài không
chết. Thật ra có thân này là có khổ, già thì gối mỏi lưng còng đi đứng khó
khăn, mắt mờ tai điếc, bệnh thì đau nhức hoành hành nằm ngồi không yên, chết
thì nằm đơ bất động chẳng còn biết gì. Tuy thân này có khổ, nhưng tâm trong
sáng định tỉnh biết rõ ràng như vậy, khi hết duyên đời thì vui vẻ nhắm mắt ra
đi.
Nhiều người không hiểu cứ nghĩ rằng tiền là
trên hết, như kẻ nghèo kia khi bị cướp trấn lột trên tay chỉ có một đồng xu dù
bị đánh đập tra khảo nhưng nhất quyết không buông tay ra. Kẻ nghèo đó quý trọng
đồng tiền không đúng chỗ, cho nên bị đánh tơi bời, rốt cuộc tiền mất tật mang.
Thay vì từ buổi đầu cứ đưa đồng xu ra trước, thì còn gì để nói nữa, tên cướp dù
có tàn nhẫn cũng không thể lấy một đồng xu như vậy. Con người ta vì không hiểu
cứ nghĩ rằng tiền bạc làm ra khó khăn, nên phải cố gìn giữ dẫn đến mang họa vào
thân. Tiền là vật vô tri do ta tạo ra, tuy rằng cuộc sống này cần phải có tiền
mới sống được. Tiền mất thì có thể làm kiếm lại được, còn mạng sống này nếu mất
đi thì coi như mất hết tất cả, do đó chúng ta phải biết quý trọng mạng sống.
Nhưng chúng ta đừng nên quá quý trọng thân
này mà trở nên tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, có người quá giàu tiền của dư giả,
nên mặc tình xài phung phí chẳng biết tiết kiệm gì hết. Thấy người nghèo khổ
chẳng động tâm thương xót, họ đến xin chút miếng ăn để sống qua ngày đã không
cho còn mạt sát đủ điều, giàu như thế có lợi ích gì cho ai. Còn nghèo mà biết
nhân nghĩa, sẵn sàng sẻ chia cho người trong cơn nguy biến hoạn nạn đó mới là
đáng quý, đáng trân trọng. Cứu giúp một người trong lúc khó khăn thiếu thốn,
bằng xây chín mười ngôi chùa. Thế gian này sở dĩ xây dựng mở mang phát triển,
nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu để phục vụ cho con người được hoàn thiện. Nhưng
nhiều khi chúng ta chỉ phát triển về mặt hình thức, bề nỗi bên ngoài để phô
trương thanh thế chứ không phải vì phục vụ con người.
Thế giới ngày nay bắt đầu chuyển sang giai
đoạn cạnh tranh quyết liệt, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, bất đồng quan điểm
không chịu ngồi lại với nhau để tìm ra giải pháp tốt đẹp. Chính vì vậy mà chiến
tranh cứ liên tục xảy ra không có ngày kết thúc. Con người sống không có tình
thương yêu và hiểu biết, đam mê và sa đọa, luôn tranh chấp gây oán hận thù hằn,
tạo ra nỗi khỗ niềm đau cho nhân loại. Vì thế, chúng ta cần phải xây dựng mô
hình con người tâm linh để thiết lập tình thương chân thật, nhằm chuyển hóa những
nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
NHÀ SƯ VÀ GÃ KIẾM
SĨ NGHÈO
Hai người đã gặp nhau khi cùng đi chung một
con đường, vị tu sĩ già trong dáng vẻ gầy guộc, ốm yếu nhưng đôi mắt sáng tròn
luôn nở trên môi nụ cười.
Còn chàng kiếm sĩ nghèo, tạng người khô
đét, nét mặt khắc khổ, nước da sạm nắng và dóc dáng bơ phờ.
Hai người đồng vào một quán dọc theo lề
đường và vô tình cùng ngồi chung một bàn. Thức ăn được dọn ra rất đạm bạc và
đơn sơ, chỉ với rau muống luộc và tàu hủ kho. Trong lúc ăn cơm hai người cùng
trò chuyện thăm hỏi nhau, mới biết cùng đi chung một đường. Sau đó hai người
kết bạn đường với nhau, họ vừa đi vừa trò chuyện rất là tâm đắc, tưởng chừng
như đôi bạn đã thân quen nhau từ lâu rồi.
Chàng kiếm sĩ nghèo vừa đi vừa than phân
trách phận, đổ thừa cho trời đất chẳng linh hiển và công bằng, vì đã tạo ra sự
sai biệt trong cuộc đời. Kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ tốt người
xấu, có kẻ ăn trên ngồi trước muốn gì được nấy, có kẻ khốn cùng thiếu thốn khó
khăn. Chàng kiếm sĩ ấy luôn than phiền trách móc đủ điều, rồi uyên thuyên kể về
cuộc đời kiếm sĩ của mình, phải đụng độ biết bao nhiêu trận và giết được bao
nhiêu người với vị sư già, suốt trên đường đi. Là một kiếm sĩ muốn có tiền để
sống bắt buộc phải thi đấu để tranh tài hơn thua, cao thấp, vì vậy mà phải
đánh, phải giết. Kẻ thắng thì được danh tiếng lẫy lừng, tiền bạc dồi dào, nhưng
mấy khi cuộc đời kiếm sĩ hoàn toàn được thắng có những lúc cũng bại trận nơi
đấu trường. Cuộc đời kiếm sĩ hết sức thăng trầm, thắng thì sống trên xương máu
và sự đau khổ của kẻ bại trận. Còn thua thì phải chịu thân tàn ma dại, vậy có
gì là hay ho mà nhiều người vẫn ngưỡng mộ.
Ngược lại, vị sư già là người tu hành hành
chân chánh, chỉ biết làm sao điều phục thân mình để chuyển hóa những nỗi khổ
niềm đau, thành an vui hạnh phúc. Suốt đời không hề gây tổn thương cho ai và
không làm đau khổ cho người và vật. Hai người sau mấy ngày làm bạn đồng hành,
họ trở nên thân thiết hơn nhưng cuộc sống của họ khác biệt nhau. Nhà sư với
dáng vẻ trang nghiêm điềm đạm, chỉ lo tu hành trên cầu thành Phật, dưới cứu độ
chúng sinh giúp mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau. Còn chàng kiếm sĩ suốt đời
chỉ biết thách đấu và sống nhờ vào sự chết chóc và thất bại của kẻ khác. Mỗi
người có một tâm tư sở nguyện khác nhau, nếu ai biết nhận thức đúng đắn tin sâu
nhân quả, thì sẽ chọn việc làm thánh
thiện không làm tổn hại cho người và vật.
Hành lý của hai người rất đơn giản và gọn
gàng, nhà sư mang trên vai chiếc bị vải trong thật cũ kỷ và nghèo nàn. Còn
chàng kiếm sĩ ngoài túi hành lý mang theo cùng với hai thanh kiếm. Nhà sư vừa đi
vừa kể lại cuộc đời hành đạo của mình, có những bước thăng trầm lên xuống phải
trải qua nhiều gian nan thử thách, mới giữ vững được chí xuất trần thượng sĩ.
Còn chàng kiếm sĩ lúc nào cũng khoe khoang về sự chiến thắng và luôn hãnh diện,
vì đã từng hạ gục nhiều đối thủ tiếng tăm, trên bước đường phiêu bạc giang hồ
của mình.
Hai người tuy đi chung đường cùng một chỗ
đến, nhưng mỗi người có một chí hướng và quan niệm sống khác nhau. Vị sư già
suốt cả cuộc đời chẳng màng đến danh lợi, chỉ biết ngày ngày rày đây mai đó
sống cuộc đời tha phương cầu thực, luôn khuyên nhũ mọi người biết thương yêu
đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, không hại người, hại vật. Sau mấy ngày làm bạn đồng
hành với nhau họ trở nên thân thiết hơn, vị sư già có điều gì tâm đắc điều nói
hết cho gã kiếm sĩ nghe. Một hôm, hai người đang ngồi nghỉ bên vệ đường, nhà sư
mới thật thà nói với chàng kiếm sĩ, nhà ngươi có biết cái gì trong túi vải của
ta không?
Gã kiếm sĩ nói: Có lẽ là một pho
tượng Phật?
Không phải đâu!
Hay là một bộ kinh quý giá, mang lời
dạy vàng ngọc của Như lai thế tôn?
Ngươi đã đoán sai hết rồi.
À! Tôi đã biết rồi, chắc chắn là đôi
hàm răng xá lợi của đức Phật.
Thú thật với ngươi, trong bị vải này
đựng hơn 200 nén bạc.
Chàng kiếm sĩ nghèo nghe nói vậy quá đổi ngạc nhiên, chẳng lẽ nhà sư nói
đùa với tôi sao?
Nhà sư nói, bần đạo là người tu hành
đâu biết nói dối. Nếu ngươi không tin thì hãy xem nè, vị sư già mở banh túi ra
quả thật không sai.
Chàng kiếm sĩ chắc lưỡi ra chiều thèm thuồng,
không ngờ nhà sư già có số bạc quá lớn như vậy.
Nhà ngươi biết không, bao nhiêu
năm xuất gia học đạo ta chỉ ước mơ một điều duy nhất là làm sao đúc được một
tượng Phật bằng đồng để mọi người được chiêm ngưỡng và tu tập.
Từ nhiều năm nay ta rày đây mai đó, để xin
mọi người hãy mở rộng tấm lòng bố thí và hỷ cúng, đến bây giờ đã được trên hai
trăm nén bạc đựng cả trong túi vải này. Giấc mơ của ta sắp biến thành sự thật,
ngươi là kẻ đầu tiên được ta tin tưởng nói cho biết đó.
Chàng kiếm sĩ nghèo bị hoa mắt lên, bởi
một sự thật không thể ngờ. Cuộc đời kiếm sĩ của mình tung hoành ngang dọc vào
sống ra chết, vậy mà chưa khi nào có được một số tiền chỉ bằng một phần mười
thôi. Ta hiện giờ đang thiếu thốn khó khăn, trong khi vị sư già đầy ấp bạc
trong túi chỉ để đúc tượng Phật. Chàng kiếm sĩ tự than phân trách phận, sao
cuộc sống mình quá hẩm hiu tuổi đời bắt đầu vào hàng bốn mươi rồi mà chưa có sự
nghiệp trong tay. Nhà sư già kia chẳng cần phải nhọc nhằn gì cả, mà lại có hơn
hai trăm nén bạc, thật ra ông trời sao quá bất công chẳng ưu đãi cho ta chút
nào. Chàng kiếm sĩ tự nghĩ thầm, giá mà ta có trong tay số bạc đó thì … ?
Từ khi chàng kiếm sĩ biết được vị sư già
mang túi bạc trong mình, làm gã toan tính đủ thứ. Chàng kiếm sĩ cố suy nghĩ để
tìm cách nào lấy được túi bạc mà không bị ai nghi ngờ, phát giác. Cứ thế trong
suốt đoạn đường trở về quê hương anh ta bị túi bạc làm mờ mắt và trong tâm anh
ta chỉ có bạc và tiền.
Rồi cái gì đến sẽ đến, hai người phải đi
bằng thuyền để qua một eo biển, thế là anh ta dìu nhà sư ra ngồi phía sau
thuyền chỗ vắng người nhất, anh ta tự cười thầm vì đã có cách để chiếm đoạt túi
bạc. Trong lúc thuyền đang chạy nhân dịp sóng đánh lắc lư anh ta vờ ngã người
vào nhà sư và sau đó đẩy luôn vị sư già xuống biển. Một hồi sau khi con thuyền
đi quá xa, anh ta mới la toán lên rằng nhà sư vừa bị rớt xuống biển. Chủ thuyền
cũng tìm cách để cứu nhà sư nhưng mọi người đều thất vọng, vì không tìm ra tung
tích. Nhiều người trên thuyền, đồng chia buồn cho nhà sư xấu số kia không được
may mắn. Khi tàu vừa cặp bến, chàng kiếm sĩ vội vàng ôm túi bạc chuồn một cách
lẹ làng, không ai còn thấy bóng dáng của anh ta đâu nữa.
Đêm hôm đó, trong phòng riêng tại một nhà
trọ chàng kiếm sĩ ung dung mở túi bạc ra xem, một sự thật không thể ngờ số bạc
làm anh ta hoa mắt lên. Anh ta tự nhủ thầm, từ nay ta sẽ thoát kiếp nghèo khó.
Bắt đầu anh ta đến một thành phố lớn thay tên đổi họ, rồi kinh doanh nghề bất
động sản. Anh ta tự nhiên phất lên như diều gặp gió, rồi anh ta cưới vợ, có
con. Việc làm ăn của anh ta ngày càng phát đạt tiến triển một cách nhanh chóng.
Giờ đây, anh ta có trong tay tất cả quyền lực, tiền bạc, sống hạnh phúc bên vợ
con, nhưng một nỗi ám ảnh lớn luôn dằn dặt anh ta, cái mà anh ta có được ngày
hôm nay là do tội lỗi quá khứ của mình làm nên.
Anh ta cứ ray rức, ân hận mãi không thôi.
Chính sự thiếu thốn nghèo khổ khiến anh ta tạo nên tội ác tày trời, anh ta chợt
nghĩ đến nhà sư mà rùng mình kinh sợ. Nhà sư từ bi nhân từ đạo đức bao nhiêu,
thì anh ta xấu xa độc ác bẩn thỉu bấy nhiêu. Nỗi ám ảnh cứ dày dò làm anh ta
đột nhiên phát bệnh, bao nhiêu thầy thuốc đến đều bó tay xin chào thua, bệnh
tình của anh ta ngày càng thêm trầm trọng.
Một hôm có vị sư già trên đường đi hóa duyên,
vô tình đi ngang chỗ anh ta đang ở, thấy nhiều người dụm năm dụm bảy, bàn tán
xôn xao, rằng anh ta bị quỷ ám ma nhập, nên suốt ngày cứ chùm chăn nói nhảm
chẳng còn thiết ăn uống gì cả. Vợ anh ta, trong cơn túng quẩn gặp được nhà sư
liền thỉnh ngài quang lâm chửa trị dùm. Động lòng thương xót nhà sư hứa khả.
Vừa gặp nhà sư anh ta hoảng loạn la toán lên, đó, đó, ma quỷ kìa! Ma sư trở về
trả thù ta kìa. Lúc này nhà sư mới từ tốn nói, phải tôi là bạn đồng hành của
ông mấy năm về trước. Tôi hiện giờ vẫn còn sống, nhờ một tàu đánh cá vớt
lên.
Hơn bốn năm nay, tôi phải tiếp tục cuộc
hành trình quyên góp và tôi cũng đã mãn nguyện khi hoàn thành sứ mệnh đúc tượng
Phật. Ngày nay tôi đã biết vì sao ông mất chứng bệnh kỳ lạ kia, tôi lúc nào
cũng thương tưởng nhớ nghĩ tới ông, vì quá tham lam mê muội mà ông đã gây ra
lỗi lầm năm xưa. Nhưng tôi là người tu hành, nên sẵn sàng độ lượng, bao dung và
tha thứ cho ông. Tôi chỉ khuyên một điều duy nhất ông hãy nên chính chắn suy
nghĩ, khi muốn làm việc gì phải nên xét kỹ đến hậu quả của nó. Ngày xưa ông
nghèo khổ nên bất đắc dĩ phải làm như thế, tôi rất cảm thông cho ông. Giờ này,
ông đã có sự nghiệp trong tay rồi, vậy từ nay trở đi hãy nên ăn năn sám hối và
luôn làm những điều thiện ích, để chuộc lại lỗi lầm xưa.
Dạ
thưa thầy, con ăn năn hối hận vô cùng, xin thầy mở rộng lòng từ độ con và gia
đình quy y cửa Phật để con có cơ hội làm mới lại chính mình, làm mới lại cuộc
đời dấn thân phục vụ vì cộng đồng xã hội. Xin thầy hoan hỷ cho con được trả lại
hơn bốn trăm nén bạc, tức gấp đôi số bạc con đã cướp của thầy.
Thầy nói, bây giờ thì ta không cần số bạc
đó nữa, vì ta đã đúc xong tượng Phật. Dạ thưa thầy bây giờ con đã thật sự ăn
năn hối lỗi, kính mong thầy hãy vì đệ tử, mà lấy số bạc đó để giúp cho những
người nghèo khổ, thiếu thốn.
Nhà sư nói, nếu vậy thì được! Ta suốt đời
tu hành rày đây mai đó trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sanh, không bám
víu vào tài sản sở hữu chỉ tùy theo nhân duyên mà đàm đạo. Ngươi cùng ta có
duyên nên mới gặp nhau như thế này. Ta luôn từ, bi, hỷ, xả, lấy ân nghĩa làm
đầu mà sẵn sàng tha thứ cho ông không một lời oán trách. Chỉ mong từ nay về sau
ngươi phải thật sự là một con người sống có nhân cách đạo đức, luôn cố gắng dọn
mình cho trong sạch sống có tình, có nghĩa, có trước, có sau, đừng để làm tổn
hại cho ai cả. Nói xong nhà sư liền ra đi, từ đó chàng thương gia bệnh tình
ngày càng thêm giảm.
Con người do lòng tham lam sai khiến, nên
sẵn sàng làm những điều xằng bậy dù biết đó là bất nhân, bất nghĩa. May mà
chàng kiếm sĩ đó, gặp phải nhà sư tu hành chân chánh, nên chỉ đem tình thương
để chuyển hóa hận thù và còn hướng dẫn chỉ dạy tận tình, để anh ta có cơ hội
tốt làm lại cuộc đời hoàn thiện chính mình. Trong kinh Phật dạy:
Ai lấy hận thù diệt hận thù
Thì hận thù càng thêm chồng chất
Lấy tình thương xóa hận thù
Bao nhiêu oan nghiệt nhiều đời tiêu
tan.
Tấm lòng từ bi cao cả của nhà sư đã chuyển
hóa được một con người lầm lỗi, giúp cho vị thương gia thay đổi nhận thức và
cách sống như thế nào để trở thành một con người có ích cho mình và có lợi cho
người. Từ đó vị thương gia này hết lòng tôn kính Tam bảo, luôn thành tâm hộ trì
cúng dường những vị tu hành chân chánh và hết lòng giúp đỡ người bất hạnh,
người già cả, người tàn tật, người cô độc, người nghèo khổ. Thế gian là một
trường đời phức tạp lúc nào cũng song hành hai mặt, thiện ác, tốt xấu, đúng
sai, phải quấy, hơn thua, được mất, nhưng người hướng thiện thì quá ít chỉ điếm
trên đầu ngón tay, người làm ác thì quá nhiều không sao kể siết. Nhà sư luôn
sống nhân từ và đạo đức, tâm hồn lúc nào cũng rộng mở, sẵn sàng tha thứ và
khoan dung cho những ai còn đang lầm đường lạc lối vì bị bóng tối vô minh che
phủ.
Hình ảnh hai nhân vật nhà sư và chàng
kiếm sĩ, nói lên tấm lòng vị tha của người tu hành chân chánh, đã vượt qua rào
cản của luân hồi sinh tử nên không buồn phiền trách móc người cố ý hại mình.
Ngược lại còn tìm cách giúp đỡ để người đó biết ăn năn sám hối lỗi lầm, vươn
lên làm mới lại cuộc đời, nhờ vậy chàng thương gia sau này trở thành một Phật
tử thuần thành luôn sống vì lợi ích tha nhân.
Cũng như trường hợp của lục tổ Huệ Năng một
kẻ giết người mướn tên là Hành Xương tìm đến ngài để thủ tiêu. Tổ biết trước sự
việc nên chuẩn bị sẵn mười lượng vàng, sau khi tên thích khách hành hung không
được và quá hoảng sợ nên té xỉu tại chỗ. Tổ cứu tỉnh dậy và đưa vàng, rồi nói
rằng ta chỉ nợ vàng chớ không nợ mạng, nhà ngươi hãy mau rời khỏi nơi đây kẻo
tăng chúng hay thì nguy đến tính mạng. Khi nào ông trở lại ta sẽ độ cho ngươi làm
đệ tử. Thật là Tổ hết sức từ bi rộng lượng, kẻ đến giết mình mà Ngài vẫn không
hề trách móc oán giận, lại còn tạo điều kiện để độ người đó nữa. Đến đây chúng
ta mới thấy khi người đạt đạo, không còn thấy kẻ thân hay người thù đều đối xử
bình đẳng như nhau.
Nhưng trong cuộc đời này mấy người được
như vậy, nhiều chuyện xảy ra làm đau lòng thiên hạ cảnh người thân giết hại lẫn
nhau chỉ vì chút vật chất cỏn con. Con giết cha vì chia gia tài không đồng đều,
mẹ giết con vì tình nhân trẻ, chồng giết vợ vì ghen tuông vô cớ. Muốn chuyển
hóa được lòng tham lam ích kỷ, mở rộng lòng nhân ái đối với tha nhân, chúng ta
phải biết nhận diện được lỗi lầm. Thấy rõ được bản chất tạm bợ hư dối của nó,
do đó người con Phật hãy nên thường xuyên tinh cần quán chiếu một cách sâu sắc,
nhờ vậy tâm tham lam ích kỷ hẹp hòi, hại người, hại vật, từ từ thuyên giảm,
thay vào đó là tâm từ bi ngày càng rộng mở. Tu tập tâm từ là vấn đề quan trọng
và cần thiết trong cuộc sống của nhân loại, thế gian nếu thiếu tinh thần từ bi
thì dễ trở thành những con người thù địch với nhau. Nhờ tu tâm từ con người dễ
dàng cảm thông, bao dung và tha thứ, thích sống gần gũi với nhau hơn trong tình
thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, trên tinh thần vô ngã vị tha, tốt
đạo đẹp đời.
PHẢI TRÁI CUỘC ĐỜI
Có một gia đình nọ nhà giàu sang quyền
quý, chẳng may cha mẹ mất sớm để lại gia tài kết sù nhưng chỉ có hai anh em
trai. Họ lấy làm tiếc nuối, buồn tủi vì chưa kịp hiếu dưỡng cha mẹ già.Tuy là
anh em ruột với nhau nhưng hai người hai
chí hướng, người anh thì hay làm việc phước thiện, bố thí cúng dường, giúp đỡ
chia sẻ khi gặp người khó khăn nên tài sản ngày càng ít đi. Ngược lại người em
thì ham mê tài sản vật chất nên cố gắng kinh doanh mở mang phát triển, do đó sự
nghiệp ngày càng thêm phát đạt. Vì thấy anh mình không chí thú làm ăn mà suốt
ngày chỉ tìm đến các vị sa môn, để cúng dường cung phụng.
Một hôm, nhân ngày giổ mẹ hai anh em mới
gặp lại nhau. Người em phân trần với anh rằng, cha mẹ chúng ta mất sớm để lại
gia tài sự nghiệp cho anh em chúng ta, bổn phận làm con chúng ta phải kế thừa
gia tiên làm rạng rỡ công danh sự nghiệp, để cha mẹ ngậm cười nơi chín suối.
Không biết mấy cái ông sa môn đầu trọc, có bùa phép gì mà anh cứ tối ngày quanh
quẩn ở đó, có bao nhiêu tài sản của cải đều dâng cúng hết cho họ.
Anh đồng ý với em là công khó nhọc của cha
mẹ đã gầy dựng mấy chục năm nay. Nhưng em nên nhớ rằng tài sản của cải vật chất
thường bị năm nhà cuốn trôi, nếu chúng ta không biết tích lũy phước báu. Của
cho là của mình, của ăn là của hết, em thấy không biết bao nhiêu người khốn đốn
khổ sở, sống lang thang đầu đường xó chợ, ít có được một ngày no đủ. Đạo và đời
vốn không tách rời nhau, chúng ta không nên tham cầu cho riêng mình quá nhiều,
mà hãy cố gắng mở rộng tấm lòng ra, để góp phần chia sẻ tình thương tùy theo
khả năng của mình. Gìn giữ gia tài của cha mẹ để lại, là một việc làm hết sức
tốt đẹp và cao cả, nhưng em phải nhớ rằng không phải vì thế mà chúng ta chỉ
biết bo bo giữ của cho mình, vô tình tăng trưởng lòng tham lam, ích kỷ, nhỏ hẹp.
Sau này chết đi có thể bị đọa lạc vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh
chịu nhiều ác báo. Người em nghe anh nói vậy, giận quá bỏ đi và còn nói rằng,
anh em mình về sau mạnh ai nấy lo.
Biết không thể nào giúp được em mình, nên
người anh một lòng hướng về đạo để tìm cầu giác ngộ và giải thoát. Tất cả tài
sản còn lại người anh liền đem bán hết và lấy số tiền đó, để nuôi dưỡng người
già yếu, tàn tật. Sau đó người anh liền xuất gia làm hạnh sa môn rày đây mai
đó, trên cầu thành Phật để cứu độ chúng sinh thoát ba đường khổ. Nhờ siêng năng
bền chí tinh cần miên mật nên sau một thời gian chứng được đạo quả, không còn
bị luân hồi sinh tử nữa.
Còn người em vì mải mê làm ăn, nên bận rộn
suốt cả ngày đến nỗi không có thời gian chăm sóc vợ con. Cuối cùng sự nghiệp
ngày càng thành đạt do chèn ép và bóc lột của người khác, đến khi con quỷ vô
thường đến rước đi. Vì quá ư si mê và tham dục, nên người em bị đọa làm súc
sinh đầu thai trở lại làm con trâu đen. Con trâu thời xa xưa là để phục vụ cho
nhà nông, ngoài việc cày ruộng phục vụ cho con người, thời gian rảnh phải kéo
xe chở thêm hàng hóa. Vì thế trâu càng ngày càng mất sức, gầy mòn ốm yếu trông
rất thảm thương. Những lúc kéo xe mệt nhọc đi quá chậm, bị chủ roi rọt đau đớn
vô cùng, vậy mà suốt ngày chỉ có ăn toàn là cỏ khô không.
Một hôm trên đường đi hóa duyên, người anh
dùng đạo nhãn biết được em mình do si mê tham dục nên mới bị đọa làm trâu. Bước
đến trước mặt trâu người anh nói chú thấy chưa, tham đắm luyến ái tài sản thế
gian bo bo giữ của không giúp gì cho ai, nên bây giờ phải chịu khổ thế này.
Trâu nghe nói, nước mắt tuôn trào ra, nằm mọp xuống trông rất thê thảm. Người
anh dùng thần thông để cho con trâu nhớ lại túc duyên đời trước của mình và sau
đó đến gặp người chủ, xin được mua lại con trâu. Người chủ nghe kể lại tiền
kiếp của trâu, hoảng quá không dám bán trâu và chỉ hoan hỷ cúng dường cho vị sa
môn. Con trâu từ lúc biết được duyên phận của mình, nên chỉ một lòng nhất tâm
hướng về Tam bảo với tâm niệm mong cầu thoát kiếp. Không bao lâu, con trâu chết
đi được tái sinh về cõi trời hưởng phước báu thù thắng.
Qua câu chuyện trên đã cho chúng ta thấy
một bài học thiết thực trong cuộc sống đời thường, đối với những ai còn tham
đắm dục lạc trần gian quá mức hãy nên suy gẩm lại, một đời người có là bao. Nổ
lực tìm kiếm tiền bạc để đáp ứng nhu cầu vật chất phục vụ cho con người, là
điều cần thiết không thể thiếu trong cuộc sống. Nhưng nếu chúng ta vì mưu cầu
lợi ích cá nhân, cái gì cũng phục vụ cho riêng mình nên trở thành ích kỷ và nhỏ
mọn. Do đó đến khi chết không mang theo được thứ gì, mà chỉ mang theo nghiệp
tốt hay xấu mà thôi.
Còn tiền bạc của cải vật chất, tùy theo khả
năng mà chúng ta có thể đem ra san sẻ giúp đỡ người bất hạnh, khi thấy họ khó
khăn thiếu thốn thì tiền bạc ấy mới chính là thật của ta. Giống như người có
tiền đem gửi ngân hàng, tuy thấy dường như không có tiền, nhưng lúc nào cần xài
thì rút ra xài. Đó là ngân hàng nhân quả, cái gì mình ăn thì hết, còn cho hay
giúp người khác mới đích thực là của mình.
Cho nên người xưa thường nói: “ Của cho là
của mình, của ăn là của hết”. Nhưng không phải nói như vậy, rồi có bao nhiêu
đem ra cho hết thì không được à. Phật dạy tài sản của cải chia ra làm năm phần,
hai phần góp vốn làm ăn, một phần dành dụm lo gia đình người thân, một phần thủ
hậu mai sau đề phòng bất trắc, một phần bố thí cúng dường giúp đỡ chia sẻ. Nếu
ai cũng biết sống như vậy thì thế gian này sẽ tràn ngập tình yêu thương và
không có bóng dáng của khổ đau có mặt. Như vậy mọi người có thể góp phần giúp
đỡ cho tha nhân, mà không bị khánh kiệt tài sản.
BẠN TỐT VÀ XẤU
Ở đời ai cũng thích lời tâng bốc và nịnh
hót, nên một số người có quyền cao chức trọng bị chết chìm trong lời nói ngọt
ngào nhưng chứa đầy gươm đao, chính vì vậy sống trên thế gian mấy ai vượt qua
khỏi chỗ này, ngoại trừ các vị Bồ tát phát tâm đi vào đời để cứu độ chúng sinh.
Thèm khát, tham ái, ganh tị, tật đố, thù hận, giết hại lẫn nhau, cũng vì lời
ngon tiếng ngọt mà quên đi ân nghĩa thuở nào. Vào thời xa xưa tại một đất nước
nọ, con người và các loài vật thường sống gần gũi với nhau. Có một gia đình chú
sư tử sống bên nhau rất ư là hạnh phúc, có được hai đứa con, một trai và một
gái. Cậu sư tử con trai sau nhiều năm sống bên cha mẹ nay đã khôn lớn, nên cưới
cô vợ xinh đẹp kiều diễm. Thế là gia đình sư tử có thêm miệng ăn, nên mỗi ngày
chú ta phải ra khỏi hang để kiếm thức ăn về nuôi cha mẹ, vợ và em gái.
Một hôm trên đường đi kiếm thức ăn, chú ta
nhìn thấy một con chồn nằm sát dưới cỏ, đầu cúi chào rất lễ phép. Sư tử ta làm
bộ ra oai rống lên như sấm nổ, rồi hậm hự hỏi rằng, con chồn bé kia ngươi đang
làm gì vậy?
Chồn con ra vẻ khép nép cung kính, dạ. Bẩm
chúa công hôm nay con biết ngài đi ngang đây, nên con quỳ kính cẩn từ sớm đến
giờ để chúc mừng ngài sống lâu trăm tuổi. Vốn sẳn tánh kêu ca tự phụ, chú sư tử
nghe mấy lời tâng bốc bợ đở của chồn, lấy làm kiêu hãnh và hài lòng đắc ý. Sư
tử ta lần đầu tiên bước chân ra đường được chồn tôn vinh ca ngợi, tưởng mình
như là vua của muôn loài thú. Thôi được, ta miễn lễ cho chồn đấy hãy đứng dậy đi
về cùng ta. Chồn ta liền dạ, dạ, liên hồi rồi khép mình đi sau sư tử.
Sư tử cha thấy con mình dẫn loài chồn theo
sau, liền bỉu môi tỏ vẻ không hài lòng. Hỡi con yêu quý của ta, chồn là giống
loài quỷ quyệt xảo trá vô cùng, thường bất nhân, bất nghĩa, con hãy nên cẩn
thận đề phòng. Con mà chứa chấp loài đó, coi chừng mang họa vào thân. Sư tử con
chẳng nghe lời cha khuyên bảo, một mực giữ chồn ở lại làm bạn đồng hành. Một
hôm chồn ta nói với sư tử rằng bấy lâu nay quá thèm thịt ngựa, nhưng không biết
phải làm sao để có ăn. Sư tử mới hỏi, loài ngựa chúng đang ở đâu. Dạ, chúng ở
đồng cỏ gần đây ạ! Vậy ngươi hãy dẫn đường, việc ấy đối với ta đâu có khó khăn
gì?
Chồn ta mừng quá liền hối hả dẫn đường,
chẳng bao lâu cả hai đã đến chỗ loài ngựa đang ở. Bầy ngựa lớn có, nhỏ có, đang
cùng nhau vui đùa gặm cỏ non rất ư là thú vị chẳng hề hay biết, tai họa sắp đến
nơi mà chúng vẫn vô tư đùa giởn. Nhanh như chớp nhoáng, sư tử ta phóng mình ra
vồ một chú ngựa con đang mải mê gặm cỏ, rồi nhanh chân chạy về hang động của
mình, chồn ta chạy chạy theo sau vừa mừng vừa vui, trong lòng cảm thấy hạnh
phúc tràn trề.
Sư tử cha thấy con bắt ngựa về trong lòng
rất lo sợ, vì đây là ngựa của nhà vua nuôi. Con đã vô tình gây ân oán hận thù
với ông vua loài người, coi chừng mất mạng như chơi đó con ạ. Từ xưa đến nay
chưa có ai ăn thịt ngựa mà bảo tồn mạng sống được, vì đụng đến của quý của vua.
Mặc dù được cha khuyên nhũ và chỉ dạy kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống,
nhưng sư tử con chẳng hề quan tâm đến, chỉ một bề biết nghe theo lời nịnh hót
và tâng bốc của chồn. Cứ thế là vài ba hôm, sư tử cùng chồn mang một chú ngựa
con về đánh chén rất ngon lành.
Sự việc đến tai nhà vua. Tức quá nhà vua
liền cho người bố trí sắp đặt, giăng bẩy để chờ con mồi đến. Quá kiêu căng và
tự phụ, sư tử con nghĩ mình là chúa tể loài thú nên chẳng mảy may đề phòng và
còn hiên ngang tung hoành ngang dọc. Đã quen ăn nhậu vui chơi trác táng, đêm
hôm đó sư tử và chồn cùng đi, nhưng chồn khôn ngoan xảo quyệt chỉ ở đầu bìa
rừng chờ đợi. Lần này sư tử ăn quen, chẳng lường trước sự việc sẽ xảy ra có
chiều hướng xấu cho mình. Một mặt cứ nghĩ mình tài ba lỗi lạc, không ai có đủ
khả năng làm được gì mình, chính vì vậy mà sư tử bị bắn trọng thương. Mặc dầu
đã bị trọng thương, nhưng sư tử vẫn cố gắng nhanh chân thoát khỏi vòng vây bao
hảm của con người. Chồn thấy sư tử trở ra toàn thân máu me bê bết, biết chuyện
không may đã đến, nên chỉ còn cách duy nhất là nhanh chân chạy về hang động của
mình, mặc tình để cho sư tử ra sao thì ra!
Máu ra quá nhiều, nhưng sư tử con vẫn cố
gắng về tới nhà và nhìn thấy được cha mẹ, vợ và em gái, rồi ngã lăn ra chết. Mẹ
chàng thấy con mình vì quá mê muội nên nghe những lời xúi quẩy, nịnh hót của
chồn mà ra nông nỗi như thế này. Con ơi là con, mẹ đã nói trước rồi mà con còn không
nghe, hể giao du với kẻ ác là trước sau gì cũng gây nên tội lỗi tày trời, để
bây giờ phải chịu chết chóc tang thương một mình.
Lúc này thì sư tử cha mới lên tiếng, cha
đã nói rồi mà con chẳng chịu nghe kết bạn với kẻ xấu thì có ngày sẽ mang họa vào
thân. Con nghe chi loại chồn gian dối hay dua nịnh đó mà bây giờ chết chẳng
toàn thây, con thấy không “ gieo gió thì gặt bão” người xưa nói chẳng sai chút
nào.
Em gái chàng nghe cha nói vậy cũng không
cầm được nước mắt, vừa khóc vừa phân trần, anh thấy chưa. Chỉ vì anh chẳng nghe
lời cha mẹ dạy nên giờ đây anh em phải chịu xa cách chia lìa, kẻ ở người đi
biết chừng nào mới gặp lại.
Vợ chàng nghe thế càng khóc lớn hơn, bấy
lâu nay em sống được và hạnh phúc biết bao là nhờ chàng mà giờ đây anh vĩnh
viễn ra đi vì nghe lời bạn xấu ác. Để lại mình em côi cút bơ vơ lạc loài, em
biết sống làm sao đây hở chàng. Anh chết đi để lại tiếng đời bêu rếu chỉ vì
giao du và kết thân với bạn bè xấu ác mà ra cớ sự thế này. Hu…hu…
Câu chuyện ngụ ngôn trên là một bài pháp
sống, đã được Phật dạy trong các bản kinh để răn nhắc hàng đệ tử chúng ta,
không nên thân cận và gần gũi với bạn bè không tốt khi chưa sáng đạo. Người
Phật tử chân chánh cần phải biết tránh duyên, thì mới có thể vượt qua cạm bẩy
cuộc đời không thì uổng công tu hành của mình. Nhất là trong thời hiện đại sự
tiến bộ về văn minh vật chất dễ làm cho con người sa ngã, dễ bị dòng đời cuốn
trôi.
Trong đời sống tu hành người xuất gia hay
tại gia gì cũng vậy, phải biết khép mình nương vào thầy lành bạn tốt. Thầy giúp
cho ta có được tuệ giác từ bi, để vượt qua cạm bẩy cuộc đời sống trong sạch và
dấn thân đi vào đời vì lợi ích chúng sinh. Đặc biệt là bạn đồng tu hay bạn
ngoài đời, vì sống chung với nhau nên dễ tác động mạnh mẽ đến nhân cách đạo đức
và tiêm nhiễm những điều xấu ác. Đâu phải người tu hành nào cũng đều tốt hết
cả, có những người vào chùa chỉ vì chén cơm manh áo biếng nhác lười lao động
hoặc vì bị người yêu phụ bạc mà thất tình đi tu, cho nên không có lý tưởng giác
ngộ và giải thoát. Do đó, chỉ lợi dụng màu áo tu hành để làm mê mờ thiên hạ, vì
vậy người xuất gia trong thời hiện đại hãy nên cẩn thận chọn bạn mà chơi.
Người bạn tốt là người luôn khuyên nhũ,
động viên và nhắc nhỡ chúng ta tu hành luôn vì Tam bảo, vì lợi ích số đông, mà
đóng góp dấn thân và phục vụ không vì lợi ích riêng tư. Nếu chúng ta không ý
thức rõ được điều này mà thường xuyên giao kết với bạn bè vì lợi dưỡng, cung
kính, danh tiếng thì e có ngày hoàn tục như chơi. Người xưa thường nói chỉ nhìn
người đó chơi với ai và làm cái gì, thì biết người đó là hạng người nào rồi.
Tục ngữ Việt Nam có câu “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” nhưng, vẫn có
những người gần mực mà không đen, vì người đó đã có con đường sáng rõ ràng, dù
có bị bụi trần che phủ nhưng khi phủi sạch là xong. Tuy vẫn có người gần đèn mà
không sáng, vì tâm tư của họ chỉ mang một cặp mắt kính màu đen. Dù được gần
thầy lành bạn tốt nhưng họ chỉ mong cầu hưởng thụ, lợi dưỡng và cung kính. Cuối
cùng phước hết họa đến, đành vẫy tay xin chào thua.
Trong đời sống Tăng đoàn thầy bạn là nhân
tố cực kỳ quan trọng giúp ta thăng tiến trên đường tu. Nhiều người vì quá tham
lam mong tu hành mau có kết quả, nghe ở đâu nói tu chỉ trong thời gian ngắn
thành Phật ngay. Liền bỏ thầy ra đi, còn nói lại chỗ này không có tu hành gì
hết. Tu hành cái gì mà khuya phải dậy sớm để nấu cơm làm bếp, sáng đến vác cuốc
ra đồng làm việc, tối ngày chỉ biết lăng xăng lộn xộn hết việc này đến việc
kia. Thế là quảy gói ra đi. Không biết chỗ mới tu như thế nào, mà chỉ thấy
trong thời gian ngắn người ấy không còn tu nữa để tóc mặc đồ đời.
Bởi vậy trong nhà thiền các tổ thường nói,
các ông đã bị môi lưỡi của các ngài lường gạt rồi. Nghe nói dễ ăn quá nên sanh
lòng tham, mà tham là nhân dẫn đến đọa lạc, làm sao có thể thành Phật chỉ một
thời gian, có chăng chỉ là Phật nhân mà thôi, còn quá trình đi đến Phật quả
không thể tính kể thời gian bao lâu, cho đến khi công viên quả mãn thì mới
thành tựu. Người bạn tốt là người biết chia sẻ, biết nhường nhịn, biết lắng
nghe, biết nhẫn nhịn, luôn sẵn sàng giúp đỡ, không bỏ rơi khi bạn gặp hoạn nạn.
Có nhiều người rơi vào hoàn cảnh bi đát,
nợ nần chồng chất dẫn đến tù tội chỉ vì thương bạn mà làm gia đình tan nát, vợ
chồng ly tán con cái bơ vơ. Cho nên bạn bè có nhiều hạng, khi chưa hiểu hết
nhau hãy nên dè dặt thận trọng, chớ nên hết mình vì bạn mà mang họa vào thân.
Chúng tôi có biết một người Phật tử, vì thương bạn cho nên mới mượn nợ dùm với
lãi suất mười phần trăm một tháng. Nhưng vì chơi với bạn mà không tìm hiểu kỹ
càng, anh này nghiện ma túy và lại đam mê cờ bạc. Anh ta chẳng chịu làm ăn gì
cả, nhưng điệu bộ ra vẻ con người làm ăn chân chính, nên đã lừa bịp gạt anh bạn
mượn tiền dùm.
Anh bạn mượn tiền dùm có một vợ và một đứa
con gái xinh đẹp, hai vợ chồng cùng kinh doanh mua bán một cửa hàng, nên đời
sống cũng có dư chút đỉnh. Anh bạn tốt phải trả tiền lời mỗi tháng lấy từ tiền
mua bán chung, nhưng sau này cô vợ biết được nên quản lý tiền chặt chẻ không
cho anh chồng lấy nữa. Túng thế, không có tiền trả lời lại bị chủ nợ hăm he
chửi mắng làm khó dễ. Anh này bản tính vốn hiền lành thật thà chất phát, cuối
cùng không còn cách nào khác, anh ta đành phải chọn giải pháp cờ bạc để có tiền
trả nợ.
Nhưng càng ngày càng lún lầy tiền mẹ đẻ
tiền con, cuối cùng anh phải vai mượn đủ chỗ để bù đắp tiền lời. Chủ nợ ban đầu
cho vay lãi mười phần trăm, bắt đầu từ năm 2005 là tên cáo già, hắn khôn ngoan
tráo trở viện lý do giấy nợ củ rách phải làm giấy mới lại, hắn ghi giấy mượn nợ
mới bắt đầu từ cuối năm 2009. Và sau đó, hắn ta làm đơn thưa với lý do từ lúc
mượn nợ đến bây giờ không trả vốn lẫn lời. Hiện giờ anh bạn nhờ mượn nợ dùm
đang bị ở tù, còn anh bạn tốt từ khi gánh, gánh nợ trên vai làm tình cảm giữa
hai vợ chồng sức mẻ cuối cùng hai người phải ly dị. Còn anh bạn tốt bây giờ chờ
ngày tòa xét xử. Thử hỏi, chỗ này luật pháp làm sao xử lý được.
Vì thương bạn mà anh phải gánh nợ dùm, giờ
phải chờ ngày xét xử, còn người bạn nhờ mượn nợ đang ở tù, anh ta có cắn rức
lương tâm hay không? Có bốn cái ngu mà dân gian Việt Nam thường nói là: Làm
mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu. Tuy nhiên có nhiều người sa ngã, thất bại,
trong cuộc đời nhờ bạn bè giúp đỡ mà vươn lên làm mới lại chính mình và thành
công trở lại. Gặp được người bạn tốt là một phúc duyên quý báu hiếm có khó
được, nên ta cần phải trân quý và gìn giữ tình bạn cao cả ấy. Chơi thân với bạn
bè ảnh hưởng rất lớn và tác động mạnh mẽ đến đời sống của chúng ta hằng ngày,
như người đi trong sương sớm lâu ngày sẽ bị ướt áo.
Do đó chúng ta nên chọn bạn mà chơi, tìm
bạn tốt để cùng nhau học hỏi rèn luyện nhân cách đạo đức tu dưỡng thân tâm, để
trở thành người tốt, có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Người bạn tốt
luôn biết sống điều hòa, không vui chơi hoang phí quá đáng cho nên có nhiều
người làm nên cơ nghiệp cũng nhờ từ bạn tốt, tuy vậy tìm được người bạn tốt để
cùng nhau thân cận học hỏi sẻ chia, cùng nhau hướng thượng không phải là chuyện
dễ dàng. Người bạn tốt thường chân thật khuyên nhủ ngăn cản chúng ta, không nên
làm các việc xấu ác để hại người tổn vật. Cuộc sống vốn biến đổi với vô vàn ngang
trái, éo le và những chướng duyên trong cuộc đời nên dễ làm cho con người rơi
vào hố sâu tội lỗi, bởi si ái, tham lam, thù hận. Người có phúc duyên gặp được
bạn tốt, hãy cố gắng trân quý gìn giữ những tình cảm bạn bè ấy, để cùng nhau tu
học tiến bước trên con đường an vui hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát.
AI BAN PHƯỚC, AI GIÁNG HỌA
Đất nước Ấn Độ là nơi xuất hiện nhiều
trường phái tâm linh và triết học, đa số đều chấp nhận có một đấng tối cao ban
phước giáng họa, ai tin và làm theo thì sẽ được hưởng phước báu vô lượng vô
biên, ai không theo thì sẽ bị đọa lạc. Vì thế các ông vua thời phong kiến
thường tự xưng mình là thiên tử tức con trời, thay trời trị vì thiên hạ. Một
ông vua nọ vì quan niệm như vậy nên nghĩ rằng tất cả thần dân thiên hạ đều do mình
ban cho phúc lộc. Nhà vua có một vị hoàng hậu rất tin kính Tam bảo, bà hay làm
việc phước thiện cúng dường trai Tăng và thường giúp đỡ người nghèo khổ. Cả
nước ai cũng đều biết đến bà, như là một vị Bồ tát Quán Thế Âm thị hiện đi vào
đời để cứu độ chúng sinh.
Vua thường nói với hoàng hậu rằng sở dĩngày nay thiếp được hưởng vinh hoa phú quý, nàng được ăn ngon mặc đẹp, có kẻ
hầu người hạ và được hưởng hạnh phúc đều do trẩm ban cho. Dạ thưa đại vương,
thiếp thì lúc nào cũng yêu thương và quý trọng đại vương, nhưng nếu đại vương
cho phép thiếp sẽ trình bày một số quan điểm và hiểu biết mà thiếp đã học được
qua lời Phật dạy. Được thần thiếp cứ nói đi, trẩm cho phép đó. Ngày nay thiếp
làm hoàng hậu được hưởng vinh hoa phú quý, là không phải do bệ hạ ban cho mà
chính thần thiếp đã gieo trồng phước đức từ nhiều kiếp, nên ngày nay mới hưởng
được quả báo tốt đẹp.
Vua nghe hoàng hậu nói vậy trong lòng
không được vui, vì vua nghĩ rằng ta là thiên tử tức con trời là người có quyền
ban phước giáng họa. Để cho hoàng hậu biết được quyền uy thế lực của mình, đêm
hôm đó nhà vua cho nàng uống thuốc ngủ và nhân cơ hội này, nhà vua liền lấy
chiếc nhẫn kim cương đã trao tặng cho nàng nhân ngày cưới đem quăng xuống sông.
Sáng thức dậy không thấy chiếc nhẫn đâu cả, hoàng hậu trong lòng cảm thấy buồn
đôi chút liền trình cho nhà vua biết. Nhà vua nói, nếu là phước do nàng tạo ra
thì hãy làm sao có chiếc nhẫn trở lại đi, nếu đúng như vậy ta mới tin lời Phật
dạy là chân lý ta sẽ qui hướng Phật đà, hộ trì chánh pháp và cung kính làm theo
lời Phật dạy. Nói xong nhà vua cảm thấy khoan khoái trong lòng, vì ngài biết
chắc rằng chiếc nhẫn dù có mọc cánh cũng không thể nào bay trở về chỗ của hoàng
hậu được.
Quả thật là rất khó cho hoàng hậu, một
đàng vô tình, một người cố ý, vậy luật nhân quả có công bằng và bình đẳng hay
không? Nhưng lời Phật dạy không sai, nhân gì do chúng ta đã tạo, dù trăm kiếp
ngàn đời vẫn không mất. Khi hội đủ nhân duyên thì quả báo hoàn tự hiện. Hoàng
hậu lúc này thật sự quá lo lắng, không biết phải làm sao để có chiếc nhẫn trở
lại đây. Nàng ta chỉ biết thầm nguyện trong lòng, nếu Phật pháp linh hiển không
thể nghĩ bàn, thì sẽ khiến cho nàng có được chiếc nhẫn trở lại. Lạ thay, cái gì
đến sẽ đến khi hội đủ nhân duyên. Không thể có cái gì đó, do một nhân mà hình
thành.
Ba ngày sau, một cô cung nữ phát giác ra
chiếc nhẫn nằm trong bụng cá và đem trả lại cho hoàng hậu. Lúc này sự thật đã
quá rõ ràng nhà vua không thể ngờ Phật pháp quá cao siêu và mầu nhiệm. Từ đó,
nhà vua tín kinh ngôi Tam bảo và phát nguyện thọ trì gìn giữ năm điều đạo đức.
Khuyên dân chúng giữ giới không được giết người và hạn chế tối đa giết hại các
loài vật, xóa bỏ tập tục giết vật cúng tế thần linh. Không được gian tham trộm
cướp lường gạt lấy của người dù là cây kim cọng chỉ. Trộm là lén lấy, cướp là
công khai lấy, cho đến dùng quyền lực để ép lấy cũng gọi là cướp. Giới thứ ba
người Phật tử có quyền lấy vợ lấy chồng, ngoài vợ chồng chính thức không được
quan hệ dan díu với vợ chồng người khác. Làm như vậy coi như phạm giới tà dâm
vô tình phá nát hạnh phúc gia đình người. Không được nói dối để hại người, nếu
nói dối để cứu người giúp người thì không sao. Không được uống rượu say sưa và
dùng những chất kích thích như xì ke ma túy, vì là nhân dẫn đến si mê đọa lạc
gây đau khổ cho nhiều người.
Xưa nay các vị vua thời phong kiến đều cho
rằng mình là thiên tử thay trời trị vì thiên hạ, họa hay phúc của con người đều
được vua sắp đặt nên làm vua thì muốn giết ai thì giết, muốn phong quan tiến
chức cho ai thì phong, không ai có quyền cãi lại. Chính vì quan niệm độc tôn
đó, đã làm cho thế giới loài người phải chịu khỗ đau bởi quyền lực phong kiến.
Ngày nay trên đà tiến của nhân loại con người thông minh hơn, nên đã thấy rõ
ràng thế giới này là trùng trùng duyên khởi. Tất cả mọi hiện tượng sự vật tương
quan, tương duyên, tương sinh lẫn nhau theo chiều nhân duyên.
“Cái này có thì cái kia có, cái này không
thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia
diệt”.
Không có cái gì do một nhân mà hình
thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõ lý nhân quả. Lý nhân
quả là nền tảng cơ bản sống còn của con người, nếu chúng ta biết áp dụng vào
thực tiển thì người người sẽ được cơm no áo ấm, nhà nhà an vui hạnh phúc, xã
hội sẽ không còn lầm than đau khổ vì con người biết sống yêu thương hơn.
TÌNH THƯƠNG VÀ HẬN THÙ
Nhân loại lúc nào cũng chìm ngập trong
binh đao và khói lửa, cũng chỉ vì lòng tham không bờ bến. Từ việc tranh giành
từng tấc đất cho đến các tài nguyên thiên nhiên, mà con người đành giết hại lẫn
nhau. Vua Trường Thọ là một người nhân từ đạo đức, không bao giờ dùng uy quyền
thế lực để trị nước, ông ta dùng tâm từ bi kêu gọi mọi người hãy sống đoàn kết
yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, nhờ vậy người dân của nước ông luôn sống trong ấm
no và hạnh phúc. Vua Phên một nước láng giềng biết được nhược điểm đó, nên muốn
xua quân tìm cách xâm lăng mở mang bờ cõi. Quần thần trong nước biết được hung
tin nên đề nghị nhà vua cho xuất binh để bảo vệ nước nhà.
Vua Trường Thọ nghĩ đến thảm cảnh con người
máu đổ xương rơi, kẻ mất cha người mất mẹ, vợ trẻ chờ chồng mòn mõi, con côi
buồn tủi khóc cô đơn, gia đình ly tán. Kẻ sống và thắng cuộc thì đắc ý kiêu
hãnh, kẻ chiến bại thì máu đổ đầu rơi gây nên nỗi oán hận vô cùng, chiến tranh
loạn lạc, kẻ khóc người cười. Trong cuộc binh biến mấy ai dám đảm bảo an toàn
mạng sống, vua nghĩ vậy liền cảm thấy tâm cang héo sầu và lắc đầu chán ngán con
người sao quá tham tàn?
Không còn con đường nào khác, nhà vua quyết
định từ bỏ ngai vàng và dẫn thái tử Trường Sanh vào núi tu hành, bỏ mặc cho thế
sự đến đâu thì đến. Hai cha con bây giờ trở nên người bần hàn ở nơi rừng sâu
nước độc, vui thú tu hành nơi hang sâu núi thẳm. Hằng ngày thái tử đi tìm hoa
quả rừng để cúng dường cho cha. Một hôm đang ngồi tịnh tọa trong hang động,
bổng từ xa có một người đang tiến gần chỗ nhà vua, thốt lên tiếng vui mừng, a
nhà vua đây rồi. Người đó nói, hiện nay kinh thành đã bị vua Phên chiếm rồi và
còn dán thông báo tầm nã quân vương. Dân tình bây giờ đang sống trong phiền
muộn khổ đau, họ đang oán trách nhà vua vì bỏ trốn, mà dân chúng phải chịu lầm
than cơ cực.
Vua nghe vậy trong lòng cảm thấy xót xa
thương cảm, không lẽ chỉ vì ta mà dân chúng phải chịu đau khổ lầm than? Ta đã
nguyện hy sinh bản thân này để mọi người sống trong an lạc thái bình, ta phải
trở về nạp mạng để muôn dân được ấm no hạnh phúc. Nói rồi, vua liền viết mấy
chữ vào thân cây để cho thái tử biết. Thôi chúng ta đi ngay bây giờ. Trường
sanh trở về cầm giỏ trái cây đầy ắp trên tay, nhưng không còn thấy cha mình đâu
nữa. Chàng cứ tưởng rằng cha mình dạo quanh đâu đó. Nhưng, vô tình chàng đọc
được dòng chữ trên cây biết cha mình gặp nạn, nên theo đường cũ chàng trở về
kinh thành. Từ xa chàng đã thấy nhiều người nhốn nháo trước cổng thành, linh
tính có điềm xấu sắp sữa xảy ra. Lúc này vua Trường Thọ đã bị đưa lên giàn hỏa
chuẩn bị thiêu sống, dân chúng bao quanh lấy giàn hỏa khóc lóc rất thảm thương,
họ đang thương tiếc cho vị vua hiền từ đức độ phải chịu chết để dân chúng không
bị cảnh lầm than cơ cực.
Thái tử nhanh chân len lõi đến tận giàn hỏa
và chàng cố tìm cách để cho vua cha nhìn thấy mình. Lúc này đã đến giờ châm
lửa, vua Trường Thọ liền lớn tiếng nói rằng: Này thái tử con ta hãy nên lấy
tình thương xóa bỏ hận thù, đó là lời cuối cùng của cha mong con ghi nhớ để cha
yên lòng ra đi. Giàn lửa bốc cháy lên hừng hực, như reo hò trong tiếng hát.
Người con buồn bã cố nuốt hận trong lòng, nghĩ rằng mình phải trả thù cho cha.
Hình ảnh nhà vua chết đau thương trên giàn hỏa, đã làm cho đứa con căm thù lên
tột độ.
Nhưng nhớ tới lời cha dặn dò lần sau cuối,
thái tử cũng không cầm được nước mắt. Lời người cha cứ văng vẳng bên tai, con
hãy lấy từ bi xóa bỏ hận thù, nhưng không thể được con phải quyết chí trả thù.
Vì nó đã giết cha ta, đã cướp đất nước của ta, thù này quyết trả. Thái tử quyết
tâm báo thù, nên đã ở lại kinh thành tìm cách làm quen với các quan cận thần.
Vốn khỏe mạnh và thông minh nên thái tử đã xin vào phụ việc trong nhà một quan
đại thần. Nhờ siêng năng cần mẫn, lại có sức khỏe hơn người nên chỉ trong thời
gian ngắn chàng đã được lòng vị quan.
Một hôm hai người đang trò chuyện với nhau
rất là thân mật, vị quan mới hỏi ngươi còn tài năng nào đặc biệt nữa không. Dạ
thưa đại quan tôi có tài nấu ăn. Ngày hôm sau thái tử được giao nhiệm vụ nấu ăn
để thử tài nghệ của chàng đầu bếp mới
này. Không ngờ chàng quá tài giỏi, nấu ăn ngon hơn các đầu bếp trong nhà. Vị
quan vì muốn khoe tài với đức vua mình có người đầu bếp giỏi, nên ông ta cung
thỉnh nhà vua đến dự tiệc tại tư gia. Nhà vua có dịp được thưởng thức những món
ăn tuyệt hảo, nên rất thích người đầu bếp. Cuối cùng nhà vua ra lệnh, cho dời
anh chàng đầu bếp giỏi về nấu ăn cho ngài.
Nhờ tài nấu ăn ngon, nên chàng đã lấy được
lòng vua Phên và sau đó trở thành kẻ hộ vệ tâm phúc nhất, nên vua đi đâu chàng
cũng được đặt cách theo sau hầu cận. Một hôm trong lúc đi săn hai người mải mê
chạy theo con mồi, nên vô tình lạc vào rừng sâu. Trời đã tối dần, mà đoàn tùy
tùng cũng chẳng thấy đâu vua đành phải ngủ lại dưới gốc cây cổ thụ. Thái tử lúc
này đang đứng kế bên hầu cạnh nhà vua, giờ thì mạng sống của vua nằm trong tay
thái tử. Chàng định rút kiếm ra nhưng nhớ lời cha dặn, chàng không nỡ xuống
tay. Lúc này vua Phên vừa giựt mình tỉnh giấc, vì đã trải qua một cơn ác mộng
thật là kinh hoàng trong lúc mơ màng, nhà vua thấy có người muốn giết mình.
Khanh ơi, trẩm vừa chiêm bao thấy thái tử
con vua Trường Thọ vừa tha tội chết cho ta, vậy đó là điềm lành hay điềm dữ. Dạ
thưa ngài, khanh chính là thái tử đây, vua nghe nói lông tóc đều dựng đứng.
Bàng hoàng sửng sốt một hồi lâu mới lấy lại bình tỉnh, vua Phên nói đây là sự
thật hay là chiêm bao. Trước tấm lòng bao dung và độ lượng của thái tử làm vua
Phên cảm động và ăn năn hối lỗi vô cùng. Vua nói, ta vì tham tàn bạo ngược mà
giết oan biết bao người lương thiện, chiến tranh lúc nào cũng chết chóc tang
thương chất chứa hận thù ngất trời cao. Đều do lòng tham muốn quá đáng của con
người mà gây nên tội lỗi.
Ta bây giờ đã hiểu ra, không có gì cao cả
và quý hơn bằng tình thương yêu chân thật của con người. Trời dần sáng vua cùng
thái tử tìm cách trở ra bìa rừng gặp lại đoàn tùy tùng. Vua hỏi, các ngươi biết
người cùng đi với ta là ai không? Đó là thái tử con vua Trường Thọ mà ta đã hỏa
thiêu, người chính là vị ân nhân của ta vì lòng nhân ái mà quên hận thù. Sau đó
vua Phên ra lệnh cho toàn thể quan quân hãy mau rút lui về, trả lại đất nước
cho thái tử. Câu chuyện trên đã nói lên tấm lòng từ bi cao cả không thể nghĩ
bàn của vua Trường Thọ và tấm lòng cao thượng của thái tử. Vua Trường Thọ thà
chịu chết để cho muôn dân được sống còn, khỏi phải bị chiến tranh tàn sát giết
hại lẫn nhau gây đau thương tang tóc hận thù. Còn thái tử nhớ lời cha dạy nên
đã mở rộng tấm lòng, lấy tình thương để chuyển hóa hận thù. Nhờ vậy hai nước
kết tình láng giềng cùng đóng góp chia sẻ, trong tình đoàn kết yêu thương giúp
đỡ lẫn nhau.
Như chúng ta đã biết, không có gì quý hơn
khi mọi người sống thương yêu và hiểu biết, bao dung và độ lượng, từ bi và tha
thứ, dấn thân và phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh.
PHẬT VÀ MA
Có một chàng nghệ nhân rất nỗi tiếng vì tài
năng của mình, nhưng anh ta lúc nào cũng tỏ vẻ khó chịu vì muốn tạc một tượng
Phật và ma quỷ. Thực tế thì anh chưa tìm ra hình mẫu lý tưởng nào cho phù hợp
với ước muốn của mình, trong lúc đang suy tư tìm tòi thì có một người bạn rủ đi
chùa lễ Phật. Anh ta hỏi, Phật ở đâu. Người bạn nói đi thì biết. Một cơ hội
ngẫu nhiên anh ta cùng bạn đến chùa lễ Phật, được vị sư trụ trì tiếp đãi, với
phong cách trang nghiêm, điềm đạm và có vẻ tự tại trong cuộc sống nên đã hấp
dẫn anh nghệ nhân.
Lần đầu tiên được gặp vị sư, anh ta hoan
hỷ phát tâm cúng dường một số tiền lớn với điều kiện, ngài phải làm người mẫu
để anh ta tạc tượng. Bức tượng đã làm xong trong thời gian ngắn, ai nhìn qua
cũng trầm trồ khen ngợi vì phong thái trang nghiêm trong sáng lạ thường. Ai
được thấy cũng đều quỳ xuống đảnh lễ với tâm cung kính hết sức chân thành. Từ
đó về sau không ai còn gọi anh ta là nghệ nhân nữa, mà gọi anh ta là bậc Thánh
tượng.
Tiếp theo đó anh ta chuẩn bị công trình tạc
tượng ma quỷ, nhưng hình dáng của ma quỷ ở đâu để anh tạc đây, đó là vấn đề nan
giải. Phải mất một thời gian dài để tìm người nào hung dữ nhất, nhưng không có
người nào có hình dáng làm anh vừa ý. Cuối cùng anh cũng tìm được người như ý
muốn đang ở trong tù, với tội giết người đang chờ bản án tử hình. Anh rất phấn
khởi vì tìm được một người giống ma quỷ đâu phải dễ, nên khi đối diện với tử tù
để chuẩn bị tạc tượng, tên tử tù khóc rống lên như đưa ma mẹ. Anh nghệ nhân
ngạc nhiên hỏi, bộ ông sợ chết hả. Ngươi có nhớ ta không, lần trước tạc tượng
Phật lấy ta làm mẫu, giờ tạc tượng ma cũng lấy ta làm mẫu, sao lại oan gia trái
chủ như thế này.
Ngươi tự nhiên, biến ta từ Phật thành ma
quỷ liền. Anh nghệ nhân nói, sao có chuyện lạ kỳ như vậy, chỉ trong một thời
gian ngắn. Tôi khi trước tạc tượng Phật lấy hình dáng ngài làm chuẩn, với phong
thái siêu phàm thoát tục, còn ông bây giờ hãy xem lại hình dáng của mình đi,
thật đáng giống ma quỷ quá trời. Ông không biết đó sao, vì trước kia ông cúng
cho ta một số tiền quá lớn, nên ta không kiềm chế được bản thân, do đó vui chơi
trác táng rơi vào nghiện ngập ma túy, cuối cùng tiền hết tật mang. Ta vì không
chịu nỗi cơn nghiện hoành hành, nên túng thế đi cướp giựt của người khác và
phạm tội cướp của giết người, giờ phải chịu bản án tử hình chờ ngày xử trảm.
Giờ đây ta vì buồn rầu, lo sợ, tiếc nuối thân mạng nên không ăn, không ngủ được
mà ra nông nỗi này. Anh nghệ nhân nghe lời trình bày thống thiết đó cảm thấy
xúc động nghẹn ngào, không ngờ bản tính con người thay đổi quá nhanh, vì chút
đam mê dục vọng thấp hèn mà thân tàn ma dại như thế này.
Anh ta mất thấy tai nghe sự thật quá phủ
phàng, nên không còn tâm huyết làm việc nữa quyết định từ bỏ nghề nghiệp này,
do đó bức tượng ma quỷ dang dỡ không thành. Vì vậy cho đến ngày hôm nay, không ai
biết chính xác về tướng trạng của ma quỷ như thế nào. Chỉ biết rằng nếu tâm tư
suy nghĩ xấu ác và hành động vô lương tâm luôn làm hại người, hại vật, làm khổ
đau cho thiên hạ thì ma quỷ hiện tiền. Ngược lại nếu tâm trong sáng thanh tịnh
không chút bợn nhơ hay làm việc thánh thiện giúp người, cứu vật, thì Phật hiện
tiền, Phật hay ma cũng từ tâm niệm tốt xấu của chính mình tạo ra.
Vị sư ở câu chuyện trên trước kia nhờ
nương thầy lành bạn tốt, nên có nhân duyên xuất gia tu hành thanh tịnh do đó
phát ra tướng tốt giống Phật, nhưng vì ỷ lại mình đã thành tựu đạo pháp nên mặc
tình ăn chơi dong ruỗi, lấy phòng trà tửu điếm làm bạn, để rồi bị dòng đời cuốn
trôi và cuối cùng phải chịu thân tàn ma dại chờ ngày xử án. Tâm Phật hay ma chỉ
trong một niệm, nếu ta huân tập tâm ma thì hiện hình ma, nếu ta biết gieo trồng
hạt giống Phật, thì Phật có mặt khắp nơi. Tâm Phật hay ma là do chính mình tạo
lấy, không có một đấng quyền năng hay một phép lạ nào làm cho ta thành Phật hay
thành ma. Trong thiền sử Trung Hoa có câu chuyện hết sức thú vị cũng nói về ma
với Phật. Cư sĩ Tô Đông Pha một hôm đến chùa Kim Sơn để đàm đạo với thiền sư
Phật Ấn.
Cư sĩ hỏi này thiền sư, ngài thấy tôi
giống cái gì?
Ô, ông rất trang nghiêm, trông giống Phật
hết sức.
Tô Đông Pha nghe xong cảm thấy hưng phấn
và tâm đắc vô cùng.
Thiền sư Phật Ấn mới hỏi lại cư sĩ, ông
thấy tôi giống cái gì?
Trông thiền sư giống một đống phân bò.
Thiền sư nghe xong, mà chỉ mỉm cười.
Cô em gái cắc cớ hỏi, hôm nay anh đánh cờ
thắng thiền sư hả ?
Đâu phải, chuyện này mới quan trọng chớ.
Anh đối đáp lý thiền. Cái lão già ấy không còn lý lẽ để nói, đành câm miệng
lại.
Nghe kể xong, biết anh mình bị thất bại
mà không biết. Anh thua rồi anh ơi.
Thua chỗ nào, em nói nghe coi.
Tâm của thiền sư như tâm Phật, cho nên
nhìn anh chẳng khác gì Phật. Còn tâm anh như đống phân bò, cho nên nhìn thiền
sư giống như phân bò.
Tô Đông Pha nghe nói vậy lấy làm hổ thẹn,
vì biết mình hiểu thiền chỉ trên đầu môi chót lưỡi. Thiền sư, mới đúng thật là
thiền sư.
Thiền không phải là hiểu biết suông, mà
cần phải vận dụng vào trong thực tế đời sống hằng ngày. Không phải biện luận
giỏi là trí tuệ sáng suốt Tô Đông Pha cứ nghĩ rằng đối đáp trôi chảy là chứng
ngộ lý thiền, nhưng tâm ông ta còn ma mị nhiều quá thấy cái gì cũng đen tối
hết, do đó cống cao ngã mạn sinh tâm coi thường Thiền sư. Nào ngờ mình chỉ hiểu
thiền trong kiến thức tối đen, vậy mà dám ngông nghênh coi thường thiên hạ. Quả
thật Tô Đông Pha có mắt như mù, may nhờ có cô em gái lanh lợi nên chặt cho anh
ta một phát, bao nhiêu hiểu biết suông đều rơi rụng hết.
Trong cuộc hành trình trở về đất Phật,
không phải ai cũng dễ dàng lãnh hội và sống được với chính mình. Tâm ta ma thì
thấy ai cũng ma, tâm ta Phật thì thấy bầu trời quang đảng và trong sáng không
ngần mé. Khi mới sinh ra con người bản tính vốn thiện, khi bắt đầu lớn lên tiếp
xúc với cuộc đời thì nó sẽ phát triển theo hai hướng tốt hoặc xấu. Được thân
cận gần gũi bậc thiện tri thức, thì con người có thể có một nhân cách sống đạo
đức chừng mực và đi theo chiều hướng tốt đẹp. Ma hay Phật ngay nơi một tâm
niệm, tâm thanh tịnh sáng suốt thì thấy biết rõ ràng không sai lệch và ngược
lại thì thấy biết chạy theo điên đảo vọng tưởng vậy.
THAY LỜI KẾT
Muốn vượt qua phải trái cuộc đời, người
con Phật cần nắm vững các nguyên tắc sau đây để làm kim chỉ nam trong cuộc
sống.
Tình thương yêu là nguồn an ủi vô biên,
giúp chúng sinh vượt qua biển khổ sông mê, song tình thương thế gian hoàn toàn
còn giới hạn trong phạm vi gia đình nhỏ hẹp hoặc lớn hơn là đối với một đất
nước. Chúng ta có một người bạn tốt để giúp con người vượt qua phải trái cuộc
đời đó là từ, bi, hỷ, xả. Người bạn này luôn sát cánh và kề cận bên ta, chỉ vì
chúng ta chẳng chịu thừa nhận nên lãng quên, đó thôi.
Từ có nghĩa là ban vui, Bi là cứu khổ. Từ
bi là đem niềm vui đến và chia sẻ nỗi đau của nhân loại, bình đẳng không phân
biệt kẻ oán người thù. Lòng từ này bao la không ngần mé, nên nó không giới hạn
ở con người hay muôn vật.
Trong bài thơ của vua Trần Nhân Tông, có nói
lên việc phải trái cuộc đời, giống như gió thoảng mây bay. Sau khi từ bỏ ngai
vàng giao lại cho con, Ngài lên núi tu tập cảm nhận được niềm vui thật sự, do
biết buông xả việc đời, nên tâm ngài thanh tịnh trong sáng mà cảm tác bài kệ:
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm.
Danh lợi lạnh với trận mưa đêm.
Hoa tàn mưa tạnh non im vắng.
Xuân cỗi còn nguyên một tiếng chim.
( Hòa Thượng Thanh Từ dịch )
Việc đời lúc nào cũng như thế, không bao
giờ có được những giây phút bình yên, hết chuyện này đến chuyện kia, việc phải,
việc trái, việc đúng, việc sai, việc tốt, việc xấu, việc hơn, việc thua, suốt
ngày cứ như thế và lúc nào cũng có mặt trong cuộc sống. Vua Trần Nhân Tông khi
còn ở ngai vàng, mỗi ngày phải tiếp xúc và giải quyết biết bao chuyện thị phi
phải quấy của thế nhân, thân thì sống hưởng đầy đủ lạc thú trên trần gian muốn
gì được nấy, nhưng tâm thì phải bận rộn lo toan đủ thứ mọi chuyện rắc rối trong
cuộc đời.
Giờ đi tu rồi cảm thấy hạnh phúc, an lạc,
thảnh thơi, không còn bị dòng đời lôi cuốn và chi phối nữa, nên tâm tư ngài
trong sáng thanh tịnh nhận biết rõ ràng bản chất thực hư của cuộc đời. Nếu
chúng ta không thấy rõ được bản chất thực hư của nó, suốt ngày cứ dính mắc vào
đó, để rồi gây thêm phiền muộn khổ đau cho nhau. Ngài thấy rõ ràng những niệm
phải quấy, hơn thua, giống như những cánh hoa rơi rụng buổi sáng vậy. Bởi bản
chất của hoa là sớm nở tối tàn nó không thực có, thấy phải thấy quấy là theo
cách nhìn của người đời, vậy thì chúng ta chấp mắc vào đó làm chi cho thêm
phiền muộn khổ đau. Còn tâm danh lợi cũng lạnh theo đám mưa đêm.
Ở đời ai cũng cầu mong làm sao có danh
vọng địa vị lớn trong xã hội, đã có danh vọng thì quyền lực nắm trong tay và
quyền lợi cũng được đi kèm theo, do đó khó có ai đủ can đảm để buông bỏ. Nhưng
ông vua thiền sư Việt Nam Phật hoàng Trần Nhân Tông xem ngai vàng như dép rách,
dám từ bỏ hết tất cả để lên núi tu hành. Còn chúng ta bây giờ có gì đâu, vậy mà
cứ ôm hoài rồi than phân trách phận, đổ thừa tại bị thì là…. thật là đáng tội
nghiệp quá chừng.
Thiền sư khi tu hành viên mãn rồi, thấy
việc đời giống như những chiếc lá rơi, không có gì phải bận tâm lo lắng nên
tham sân si, mạn, nghi, ác kiến không còn khả năng chi phối được nữa. Nhưng
không phải đến đây là hết, không phải là gỗ đá, không phải là vật vô tri, không
phải là không biết gì mà:
“ Hoa tàn mưa tạnh non im vắng,
Xuân cỗi còn nguyên một tiếng
chim”.
Vẫn còn lại cái biết sáng suốt hằng giác,
hằng tri, chứ đâu phải không còn gì hết. Cái biết này ngay nơi mắt vẫn nhìn
thấy rõ ràng, xanh biết xanh, đỏ biết đỏ, vàng biết vàng, nhưng không bị nó làm
biến dạng, làm méo mó, nó như thế nào thấy như thế đó, nên không dính mắc và
bám víu vào một thứ nào hết, do đó cuộc sống khỏe ru, à. Có gì phải bận rộn lo lắng để dẫn đến khổ
đau. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Thiền sư nhìn đời như vậy đó, an
lạc thảnh thơi làm sao đâu chỗ này tiền bạc, danh vọng, quyền lực có mua được
không? Khi làm vua ngài có thiếu cái gì đâu, nếu không có an lạc và hạnh phúc
thật sự, thì làm sao ngài nói lên được như thế và dám từ bỏ hết tất cả quyền
lực thế gian!
Ngài tu một thời gian cảm nhận được đạo lý
chân thật rồi xuống núi, khuyên mọi người hãy phá bỏ những tập tục mê tín dị
đoan làm con người mất tự chủ, tự do trong cuộc sống. Ngài khuyên mọi người nên
lánh ác làm lành, tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ
đau, không ai có quyền ban phước giáng họa, chính mình là đấng tối cao của bao
điều họa phúc. Cho nên chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận, yêu thương đùm
bọc giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha.
Muốn vậy, người con Phật phải phát nguyện
gìn giữ năm điều đạo đức. Không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không
nói dối hại người, không uống rượu say sưa và nghiện xì ke, ma túy và đưa các
độc tố có hại vào cơ thể. Không giết người và hạn chế tối đa việc giết hại súc
vật. Nhất là những tập tục giết hại súc vật để cúng tế quỷ thần, cúng tế thần
linh. Người ưa giết hại có lòng từ bi hay không? Chắc chắn là không rồi, đã
không có lòng từ bi thì làm sao giúp người cứu vật được. Phật đã mở cho chúng
ta con đường sáng để vượt qua si mê tối tăm, đã thương thì không giết, đã giết
thì không thương, người con Phật cần phải hiểu thấu đáo chỗ này để không bị lầm
lẫn. Không được gian tham trộm cướp vậy trộm cướp có từ bi hay không? Dĩ nhiên
là không rồi. Tài sản của cải làm ra được bằng công sức khó khổ của mình, thức
khuya dậy sớm chắt chiu dành dụm từng ly, từng tí, làm mà chẳng dám ăn xài
hoang phí. Đùng một cái, mọi thứ đều đội nón ra đi hỏi sao không buồn đau cho
được!
Lòng từ bi là một chất liệu sống không thể
thiếu trên cõi đời này, người sống với tâm từ nhờ đó thanh lọc và chuyển hóa
những mưu sâu kế độc toan tính hại người, hại vật. Một người tu tâm từ, người
người tu tâm từ thì thế gian này tràn ngập tình yêu thương. Nhân loại sẽ tránh
được khổ đau do tâm từ được trải rộng ra, nên thế giới bớt xung đột, tranh
chấp, hận thù và chiến tranh sẽ không bao giờ có mặt. Uống rượu say sưa, nghiện
ngập ma túy và dùng các chất kích thích có hại cho sức khỏe, làm hủy diệt sự
sáng suốt của con người, là căn bệnh trầm kha của thế kỷ thứ 21 này. Như thế,
nhiều người dùng những thứ đó có từ bi không, hay đang lần hồi hủy diệt sự sống
của con người đến bờ vực thẳm.
Đó là một trong những vấn nạn lớn nhất
làm đau đầu thế giới con người. Lịch sử thời hoàng kim của đời Trần Việt Nam là
một minh chứng hùng hồn, đã biết áp dụng tâm linh vào cuộc sống nên con người
sống với nhau hiểu biết và thương yêu hơn. Không có những tệ nạn xã hội trầm
trọng như ngày hôm nay, lòng từ bi luôn đi kèm với trí tuệ, mới có thể cứu giúp
được nhân loại thoát ra chỗ si mê tối tăm bao đời kiếp. Niềm vui đích thực là biết
cho ra, mà không đòi hỏi để được nhận lại, hoàn toàn không có tính vị kỷ bám
víu của sự chấp ngã, mới thật sự bền vững và lâu dài.
Vậy chúng ta ứng dụng tu từ bi tâm bằng
cách nào? Thứ nhất là quán tình thương thấy ai cũng là người thân, người thương
của mình. Đã thương thì không oán trách, giận hờn, ghét bỏ, nhờ vậy chúng ta dễ
dàng bao dung và tha thứ. Cứ mỗi ngày, sáng sớm thức dậy chúng ta nguyện cầu
cho tất cả chúng sinh luôn được sống yêu thương và hiểu biết, dấn thân và phục
vụ, với tinh thần vô ngã vị tha. Mỗi ngày sáng, trưa, chiều, tối, đều nên quán
chiếu và cầu nguyện như vậy thì tâm từ bi của chúng ta ngày càng thêm rộng lớn.
Cách quán thứ hai thấy ai cũng là cha mẹ
của mình, thường thì ai cũng kính trọng và yêu thương cha mẹ hết. Nên, quán tất
cả chúng sinh là cha mẹ của mình, vì ân cha mẹ khó đáp đền công sinh thành
dưỡng nuôi khó nhọc cho nên ai cũng thương yêu hiếu kính với cha mẹ, do đó
không gây buồn phiền giận dỗi nên không làm đau khổ cho nhau. Nếu cuộc sống này
tất cả mọi người đều như vậy hết, thì còn gì sung sướng và hạnh phúc cho bằng.
Tu tập lòng từ bi rất khó vì nó đi ngược lại
lòng tham lam, sân giận, si mê của mọi người, muốn vậy trước tiên ta phải tập
cảm thông nỗi khổ niềm đau của tất cả chúng sinh. Đầu tiên chúng ta tập cảm
thông với người thân trước, kế đến những người cùng chung làm việc, rồi đến
những người xa lạ không quen biết, cuối cùng là kẻ oán thù chuyên làm hại mình
và tất cả muôn loài. Tập dần như vậy cho đến khi nào viên mãn mới thôi. Muốn
được như thế chúng phải cố gắng buông xả tâm hại người hại vật, mở rộng tấm
lòng bố thí cung kính cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người khó khăn hoạn
nạn.
Đạo Phật là đạo của từ bi luôn mang yêu
thương đến với muôn loài và sẵn sàng chia sẻ những nỗi khổ niềm đau, hầu giúp
cho tất cả chúng sinh vượt qua biển khổ sông mê. Kính chúc mọi người luôn đem
nước mát từ bi trải rộng khắp thế gian này, để tất cả chúng ta được sống yêu
thương và hiểu biết.
,gườ
Discussion about this post