THIÊN NHIÊN VÀ CON |
|
|
Con người là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ.
Các bậc thánh triết
Phương Đông xưa quan niệm nguyên lý vũ trụ là một nguyên lý vạn vật đồng nhất
thể, nguyên lý con người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, nguyên lý thiên
địa nhân hợp nhất.
Quả thực, thế giới chúng ta sinh sống, vạn vật
đan dệt bởi biết bao nhiêu sợi tơ duyên, xuyên qua tất cả không gian và thời
gian, không một vật gì mà không có tương quan, liên hệ với nhau: các sông lớn,
sông nhỏ từ Đông sang Tây, Nam qua Bắc, cả bốn đại dương đến rừng núi đông,
tây, nam, bắc cùng hết thảy vạn hữu tụ tán, ly hợp, biến hoá, triển khai, cái
gì cũng có tương quan, liên hệ đến toàn thể dù nhỏ xíu như hạt cải, con ong,
cái kiến cũng không hề bị cô lập với môi sinh, không có cái gì đứng đơn lẻ, tất
cả những cái gì mà ta thấy được trước mắt là một trong những kết hợp đó. Nói
cách khác, tất cả những cái gì trong vũ trụ này là kết quả của những liên kết,
kết hợp vật chất hay năng lượng.
Trong vũ trụ, mặt trời
cùng với môi trường bao quanh nó liên tục truyền cái trật tự của mình tới tất
cả những gì trên trái đất. Mặt trăng, một vật thể gần trái đất nhất cũng gây
ảnh hưởng tới trái đất. Mọi sinh vật và cả những đồ vật vô tri, vô giác đều
hưởng ứng với nó và thay đổi với nó. Các con sông thay đổi dòng chảy theo ánh
sáng mặt trăng, các đại dương thay đổi các đợt sóng triều theo sự mọc và lặn
của mặt trăng. Các đợt sóng “triều lên” không chỉ bao gồm nước biển
của biển cả và đại dương mà còn cả lớp không khí của trái đất, cả lớp vỏ cứng
“mặt đất” cũng như hiện tượng “triều lên xuống”, hiện tượng
triều lên xuống cũng diễn ra ngay trong sinh thể con người và tất cả các sinh
vật trên mặt đất, dưới biển.
Các nhà vật lý học, y
học, thiên văn học và nhiều ngành khoa học hiện đại đã phát hiện ngày một nhiều
những nhịp điệu có chu kỳ khác nhau diễn ra trong cơ thể con người và các sinh
vật.
như tần số của những dòng điện sinh vật, nhịp đập của tim, nhịp thở, sóng điện
não, những nhịp điệu này có thể thay đổi theo thời gian trong ngày, theo thời
tiết môi trường. Có chu kỳ kéo dài từ vài chục phút tới vài giờ như chức năng
của thận, của máu và hoạt động của óc…
Nhịp điệu ngày 24 giờ
phổ biến ở hầu hết mọi sinh vật và nhiều chức năng của cơ thể con người, đặc
biệt có nhịp điệu đúng bằng 23 giờ 56 phút 4 giây tương ứng với thời gian trái
đất quay một vòng xung quanh mình nó.
Có nhịp điệu 24 giờ như
nhịp điệu tháng, năm mà ta đã quen được chi phối bởi ảnh hưởng của mặt trời và
mặt trăng quay vòng xung quanh trục của nó trung bình là 27.3 ngày; còn mặt
trăng quay xung quanh trái đất là 29.5 ngày. Điều này cho ta liên hệ đến nhiều
chu kỳ hoạt động của sinh vật trên trái đất, điển hình nhất là chu kỳ rụng
buồng trứng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, những diện sinh lý, thụ thai ở con
người và chu kỳ “động đực” của động vật ở trên mặt đất, dưới sông,
biển đều có liên hệ với chu kỳ chuyển động của mặt trăng. Chính vì thế cổ xưa đã
ví mặt trăng là thần ái tình.
Qua đó, chúng ta nhận ra
rằng dưới tác dụng sức hút của mặt trăng, trong con người và sinh vật đã diễn
ra những triều sinh học, sự Ion hoá khí quyển, hoặc biến động về từ trường của
trái đất đều lệ thuộc vào các pha của mặt trăng.
Gần đây, người ta còn
phát hiện thấy mối tương quan giữa tuần trăng và thời tiết khí hậu càng rõ thêm
ý nghĩa ngoại sinh của các nhịp điệu tháng năm trong sinh hoạt và đời sống con
người.
Nhịp sinh học vũ trụ,
trong một năm có nhịp tuần hoàn của 4 mùa. Nước thuỷ triều có nhịp sinh học
sáng, chiều lên xuống. Cây cỏ có nhịp sinh học ban đêm hấp thụ hay đào thải
oxygen và CO2 để tổng hợp chất diệp lục. Hoa nở, quả chín theo mùa… Nhịp sinh
học trong cơ thể con người quan niệm của đông y có 12 kinh thuộc 6 hành có nhịp
sinh học vận chuyển theo ngày giờ, phế vào giờ dần, đại tràng vào giờ mão, vị
vào giờ thìn…
Thời sinh học hiện đại
(chronobilogie) cũng quan niệm hiện tượng sinh hoá, sinh vật, vật lý trong cơ
thể biến chuyển theo nhịp sinh học, có thể ảnh hưởng yếu tố thời gian. Như vậy,
nhịp điệu sinh học trên trái đất nói chung, nhịp điệu sinh học của con người
nói riêng có nguồn gốc từ nhịp điệu vũ trụ, những ảnh hưởng của mặt trời và mặt
trăng là yếu tố chủ yếu trực tiếp, còn những ảnh hưởng của những thiên thể khác
tất nhiên là có.
Người Phương Đông đã có
quan niệm này rất sớm, như khí hậu, thời tiết “thiên nhiên” thường
phát sinh bệnh tật, thậm chí có nghĩa cả về nhân thể, dáng vóc, tạng người,
tính cách… Cổ xưa cho rằng thuỷ thổ, khí hậu cũng là nhân tố cấu trúc thành
hình thể con người, như nơi khí hậu nặng thì con người chắc, mập, nơi khí hậu
nhẹ thì người gầy, mảnh. Còn biết bao nhiêu điều mà người cổ xưa đã thấu hiểu
đến kinh ngạc như:
– Không gian có 8 phương
hướng: đông, tây, nam, bắc, đông-nam, đông-bắc, tây-nam, tây-bắc, thì trong con
người cũng có đủ 8 loại mạch, mỗi mạch ứng với một phương: Mạch nhâm, mạch đốc,
mạch xung, mạch đới, mạch âm duy, mạch dương duy, mạch âm kiếm, mạch dương
kiếm… Theo Kinh dịch, phương hướng của không gian cùng với bát quái (ly, khôn,
đoài, càn, khảm, cấn, chấn, tốn).
– Trời đất có 10 thiên
can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý), thì con người cũng
có đúng 10 đường kinh chính: Đởm, can, tiền tràng, tân, vị, tỳ, đại tràng, phế,
bàng quang và thận. Quan hệ giữa những khái niệm và thực tế trên như
sau:
– Giáp – Đởm, Ất – Can,
Bính – Tiểu tràng, Đinh – Tâm, Mău – Vị, Kỷ – Tỳ, Canh – Đại tràng, Tân – Phế,
Nhâm – Bàng quang, Quý – Thận.
– Đất có 12 đại chí:
(Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) thì con người
ngoài 10 kinh chính trên lại có thêm 2 kinh chính khác là Tâm bào và Tam tiêu.
Tâm bào đóng vai trò mẹ các kinh âm, còn Tam tiêu đóng vai trò cha các kinh
dương, điều mà không một danh y nào lại không biết.
Giữa các kinh chính có
các thực tế nối lại với nhau gọi là “lạc”. Người ta thấy rằng có tất
cả 365 lạc, và trong con người lại có đúng 365 khớp, sao mà đúng chính xác đến kinh
ngạc!
Lại bất ngờ nữa, số lạc
và số khớp đúng bằng số ngày trong một năm 365 ngày. Vậy là, ta có thể suy
tưởng lại triết lý về “con người là một tiểu vũ trụ” hay vũ trụ thu
gọn lại trong một con người. Đó là hình ảnh nhỏ của không gian là trời và đất.
Không những thế, âm
dương còn trưởng thành nữa. Chúng trưởng thành vì chúng bổ túc cho nhau: Ngày
sáng để vạn vật sinh hoạt, đêm tối để vạn vật nghỉ ngơi, hè nóng để vạn vật
phát triển, đông lạnh để vạn vật gom lại sức tàng ẩn náu. Trưởng thành còn vì
một lẽ nữa: nếu cái nọ diệt cái kia thì không cái nào tồn tại cả. Không còn âm thì
cũng không còn dương. Không còn dương thì làm sao có âm, mà vũ trụ, vạn vật
cũng không có. Quan niệm tương phản mà tương thành đó là quan niệm phổ biến của
Trung hoa xưa, như Trường Kỳ nói:”Các bậc thánh triết Trung hoa thời xưa cho
rằng bất kỳ sự vật gì cũng là một thể mà hai mặt chỉ là biến hoá tương đối chứ
không phân lập tuyệt đối, tương phản mà tương thành chứ không mâu thuẫn đấu
tranh.”
Chúng ta biết rằng trong
triết học cổ Đông Phương có những học thuyết như đông y học, thời chân học, tử
vi, độn giáp, lục nhân đại độn, thái ất, thân kinh, bát tư hà lạc… Nói chung,
tất cả những hệ thống học thuyết này đều tuân theo cái nguyên lý và quan hệ cấu
trúc sau:
– Nguyên lý: Nói chung
của họ đều xuất phát từ những nguyên lý khái quát nhất về vũ trụ quan và nhân
sinh quan như:
Nguyên lý vũ trụ là một,
nguyên lý vạn vật đồng nhất thể, nguyên lý con người là một tiểu vũ trụ, nguyên
lý thiên địa nhân hợp nhất cũng có thể nói đến tính phổ quát của Kinh dịch hầu
như bao trùm các tiền đề của nhiều học thuyết. Nói riêng về khoa học; Kinh dịch
nêu cao cơ chế “cộng hưởng”, cơ chế về quan hệ giữa các bộ phận là cơ
chế “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, rõ ràng đây là loại
cơ chế cộng hưởng khoa học, nhưng lại liên quan đến cấp độ thiên nhân khác nhau
ở thực tại. Vì thế, các nhà sinh học nổi tiếng thế giới là Rupert Sheldrak mới
gọi cơ chế là cộng hưởng hình thái genetic (morphigentic resonance).
Con người và vũ trụ như
là một hệ thống hoàn hảo, là tập hợp của những chuỗi mã số có quan hệ thống
nhất “điều khiển” chính xác đồng bộ bởi những sợi chỉ mầu nhiệm xuyên
qua suốt vũ trụ, mà khoa học thế kỷ XX này gọi là “nhịp điệu vũ trụ”.
“Một cánh bướm vỗ bên
kia bán cầu, không khí chuyển động ở bên này nửa vòng trái đất.” Mỗi hơi thở
của chúng ta thở ra cũng đều là sự tham dự vào hơi thở của đời sống trên mặt
đất, là sự trao đổi thường xuyên giữa người với người cùng với vạn vật.
Để nhận ra điều này, thí
dụ như chúng ta ở trong một rạp hát, một buổi dạ hội hay một vận động trường…
ta thở ra, họ hít vào. Họ thở ra, ta hít vào, rồi đến cây cỏ, hoa lá sẽ hút
thán khí vào đồng thời nhả dưỡng khí lại cho chúng ta thở. Chỉ cần quán niệm
hiện tượng này ít lâu, chúng ta sẽ thay đổi quan niệm về thế giới thực vật, cơ
thể chúng ta và cây cỏ, hoa lá không phải là hai thế giới riêng biệt, độc lập,
mà chúng ta và cây cỏ cùng trao đổi chất bổ, dưỡng khí cho nhau, là máu thịt
của nhau. Chúng ta không phải chỉ thở trong không khí, với mỗi hơi thở chúng ta
đã hoà lẫn vào hydro-phere trong bầu khí quyển với từng hơi thở. Một đời người
ai biết được là bao nhiêu tỷ hơi thở ra, hít vào. Chúng ta cũng như muôn loài vạn
vật đã tham dự vào hơi thở đời sống trên mặt đất mặc dù hơi thở không mang hình
tướng, mà sự trao đổi ấy vẫn là một sự thật hiển nhiên. Kinh nhà Phật nói rằng:
“Cho dù tất cả các pháp dù vi tế đến chỗ vô hình tướng cũng dung nạp lẫn
nhau và cũng kiến lập lẫn nhau” (1)
“Nếu chúng ta liên
hệ tới mọi thứ và mọi người khác, thì một ý nghĩ, một việc làm, một hành động
nhỏ nhoi nhất, vô nghĩa nhất cũng đem lại hậu quả cho toàn thể vũ trụ. (If we
are interdependent with everything and everyone else, even our smallest, least
significant thought work and action have real consequences throughout the
universe.)
– The Tibetan Book of
Days
By Sogyal Rinpoche (Rừng
núi Tây Nguyên bị Trung Quốc tàn phá, sinh mệnh dân tộc Việt Nam trôi về đâu?)
“Ta không thể đụng
tới bông hoa mà không làm kinh động đến một vì sao.” (Thou cannot stir a
flower without troubling of a star.)
– Francis Thompson
Sự thật, trái đất chúng
ta đang sinh sống, hay hàng vạn tỷ các tinh cầu khác trong vũ trụ trôi nổi
trong khoảng không mênh mông của không gian vô biên, vô cùng, vô tận vẫn hằng sống,
hằng sinh diệt, và trải qua bốn thời kỳ “thành, trụ, hoại, diệt” theo
kinh sách nhà Phật. Sự “thành, trụ, hoại, diệt” này mang nhiều đặc
tính, mầu sắc, lâu mau, ít nhiều, to nhỏ không chừng, to như trái đất có tuổi
thọ hàng nhiều tỷ năm, nhỏ như con côn trùng sống chỉ vài giờ đồng hồ… nghĩa
là tuỳ duyên. Sông, núi, đại dương hằng hà sa số các vì sao trên dải ngân hà,
nhiều tư tưởng, nhiều tình cảm lúc mới suy nghĩ thấy dường như bất biến, trường
cửu. Nhưng đó chỉ vì là một kiếp người quá chóng qua, mới trẻ liền già. So với
tuổi của các tinh cầu, ta như một ánh chớp, có rồi lại không. Mà đừng có bi
quan, vạn vật vẫn luân hồi, vô thường, chẳng miễn trừ và nó mang hai đặc tính
là biến dạng, không có tự tính. Hai đặc tính này sở dĩ có bởi là nhờ nhiều
nguyên nhân, nhiều nhân duyên hợp nhau lại mà sinh ra, rồi lại đổi thay vì nhân
duyên và hoại diệt, để rồi lại tái diễn ở một hình thức khác…
Giáo lý Đại thừa Phật
giáo khẳng định duyên sinh như huyễn, những gì có mang hình tướng, có
“động” đều vô thường sinh diệt và gọi là pháp hữu vi. Đức Phật dậy:
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng,
huyễn, bào ảnh,
Như lộ
diệc như điện,
Ưng tác
như thị quán.
Duyên sinh như huyễn,
vạn pháp như phù vân. Chúng ta biết tính chất của mây là không, thoạt tiên là
nước, nắng bốc hơi lên tụ lại thành mây, gặp gió thì tan hợp, hợp tan. Có khí lạnh
tụ lại thành đá, gặp hơi nóng bốc lên lại thành nước, xông lên từ mặt đất, rồi
lại trở về mặt đất.
Vậy, mây là nước, là
nắng, là gió, là khí lạnh, là… Phân tích kỹ, cái gì là mây? Cho nên Phật giáo
giải thích, nó không có “tự tính” là vậy.
Xét về mặt hiện tượng,
cái vi mô và vĩ mô lớn nhỏ tất cả đều là hiện tượng “tổng hợp” và
tương tác lẫn nhau, dụ như sự có mặt của chúng ta là sự có mặt của toàn thể, và
những gì được cấu tạo ở đây được sinh ra trong cái mênh mông của vũ trụ, cái gì
xảy ra trong hành tinh bé nhỏ của chúng ta tuỳ thuộc vào toàn thể những cấu tạo
vũ trụ. Sự thật này điều hành theo nguyên tắc nhân quả hỗ tương, liên hệ như
mặt trời với trái đất và các hành tinh khác, nếu không có sự tương tác liên hệ,
thì sự sống cũng chẳng thể có. Mỗi liên hệ theo đường mắt lưới vô hình và hữu
hình. Chúng ta dù ở dạng nào cũng đều là họ hàng của nhau, cái này có thì cái
kia có. Tất cả chúng ta đều được cấu tạo bởi những hạt bụi “nguyên tử”
của hằng hà sa số các vì sao, của mặt trời, mặt trăng anh em, họ hàng với các
loài vật và bạn bè thân hữu của những bông hoa đồng nội. Tất cả chúng ta đều
mang chung trong mình máu thịt của nhau; bằng cách này hay bằng cách khác mọi
thứ đều đương nhiên có liên hệ đến tất cả những cái khác. Thiên nhiên như người
thợ nối liền ta với muôn loài, muôn vật, mà nhiều bậc vĩ nhân, thi sĩ đã hiển
lộ.
Nhà hiền triết Rishis
của thơ Veda diễn đạt ra lời một trạng thái sống sinh động của thực tại siêu
nhiên. Lúc xuất thần các Ngài đã “kiến tánh”, thấu thị và tiếp nhận
nơi tinh thần giác ngộ. Cái đại chân lý đại đồng, bất tử và khách quan hơn là
các Ngài quan niệm ở ý thức.
Chân lý, như Shri
Aurobindo đã viết: “là mục đích tối cao mà các nhà thần bí ấy theo đuổi,
một chân lý tâm linh nội tại, cái chân lý ở tại nơi ta, cái chân lý của sự vật,
cái chân lý của nhân gian và của thần tiên, cái chân lý ẩn tàng sau tất cả hiện
hữu của chúng ta và của sự vật.2 ”
(La Clef du
Veda – Approches de L’inde)
S.
Aurobindo
Cái khuynh hướng mỹ cảm
tâm linh ấy nhìn thấu qua các sắc thái tạo vật thiên nhiên để cảm thông với cái
hoà điệu huyền bí ở thơ Veda đã thấm nhuần tinh thần văn hoá và triết học Ấn độ
như thi hào R. Tagore gần đây đã giới thiệu:
“Cái vô hạn vì sự
biểu hiện của mình đã hạ cố xuống trong thiên hình vạn trạng của cái hữu hạn.
Và cái hữu hạn vì sự thực hiện của mình phải vượt lên cái duy nhất của vô hạn,
có như thế thì bây giờ vòng chân lý mới hoàn toàn đầy đủ.”
(“Duy nhất
sáng tạo”)
Cái triết lý ấy thi sĩ
đã diễn đạt bằng lời thơ tượng trưng như sau:
Hạt sương rơi than khóc
với thái dương:
– “Tôi mơ mộng
Ngài, nhưng để hầu hạ Ngài, không bao giờ tôi dám hy vọng. Tôi quá nhỏ bé để
kéo Ngài về với tôi, hỡi Chúa tối cao, và suốt đời tôi đầm đìa giọt
lệ.”
Vầng thái dương đáp
lại:
– “Ta chiếu soi
khung trời vô hạn, nhưng ta cũng hạ cố đến giọt sương nhỏ mọn. Ta sẽ chỉ là một
tia sáng tràn ngập lấy mi và cuộc đời nhỏ bé của mi sẽ là một bầu trời tươi
sáng.”
(Mâm Trái
cây)
William Blake cũng mô tả
thật đẹp:
Nhìn thấy vũ trụ trong
một hạt cát
Và đất trời
trong một bông hoa dại
Cầm không
gian vô cùng trong lòng bàn tay
Và thời
gian vô tận trong một giờ. 3
Toàn thể vũ trụ đã được
thực chứa trong một hạt cát bởi vì sự giải thích những hiện tượng giản dị nhất
cũng viện dẫn tới lịch sử của toàn thể vũ trụ.
Quả thật là kỳ diệu, và
khi ta nghe những câu thơ của đại văn hào Tagore với William Blake, ta không
thể không liên tưởng tới bài kệ bốn câu của Đức Phật:
Nhìn trong một nguyên
tử,
Và trong
mỗi nguyên tử,
Toàn thể
các thế giới,
Đó là điều không thể
hình dung được.
Ở Ấn độ, các bậc hiền
triết từ buổi rạng đông của lịch sử, tôn giáo đã thực sự tìm tòi một cách ý
thức và cả quyết những thực thể tiềm tàng trong vũ trụ thiên nhiên là sự tìm
tòi về những điểm quan hệ đến con người là muốn thực hiện sự hoà điệu đời sống
giữa người với thiên nhiên. Bao bọc chung quanh ta bởi thiên nhiên che chở và nuôi
nấng ta, cho nên chúng ta cần gìn giữ mối liên hệ mật thiết không gián đoạn với
các phương diện của vũ trụ tự nhiên, trân quý hết thảy vạn hữu.
Ở Trung hoa, từ nền văn
hoá cổ truyền vẫn quan niệm: “Con người và thế giới thiên nhiên nằm trong
một chân lý vĩ đại duy nhất ‘thiên nhân hợp nhất’.” Thiên và nhân, giới tự
nhiên và con người là phạm trù cơ bản của lý học với toàn bộ nền triết học
Trung hoa. Nó cấu thành cái khung cơ bản của hệ thống phạm trù triết học, quán
xuyến từ đầu đến cuối toàn bộ hệ thống cả phạm trù lý học.
Điều đó đã phản ảnh đặc
trưng cơ bản của toàn bộ duy lý học, còn cái gọi là “trời”, Nho gia
nói chung là chỉ sự tồn tại cao nhất của giới tự nhiên, và cái gọi là
“thiên nhân hợp nhất” là chỉ sự thống nhất, hài hoà giữa con người và
giới tự nhiên. Đạo gia phủ nhận sạch trơn tính thần bí tôn giáo của trời,
Thượng đế đã khôi phục lại thuộc tính “tự nhiên” của nó.
Các nhà triết học và lý
học Trung hoa đã tiếp thu thành quả tư duy biện chứng của triết học Phật giáo,
đặc biệt là phạm trù chủ thể và khách thể, bản thể và hiện tượng… Từ đó, họ
nâng lý thuyết thiên nhân lên tới giai đoạn của bản thể luận, hình dung thượng
đã hoàn thành thuyết “thiên nhân hợp nhất”.
Ở Phương Tây thì ngược
lại, người ta tự hào đã thắng phục được thiên nhiên, làm như họ đang sống trong
một thế giới ác cảm, mà họ cần phải tranh thủ giành giật, phải tranh lấy tất cả
những gì cần thiết cho mình, chống giữ từng bước một, tưởng như một hệ thống xa
lạ, họ chống phá lại nơi mà chính mình đã nương tựa. Bởi vì họ coi họ ở vị trí
cao nhất, xem thiên nhiên như một nguồn của cải mà Thượng đế ban cho họ, đặt
dưới sự thống trị của con người “chủ nhân” với họ nhiên chỉ có một
chức năng cống hiến cho con người những nguồn lợi và những thú vui. Bắt nguồn
từ tư tưởng đó dẫn đến sự khai thác thiên nhiên một cách triệt để, và thiên
nhiên trở thành đối tượng chiếm hữu, tranh chấp, khai thác nguồn lợi đôi khi đưa
đến những cuộc chiến tranh tàn khốc, rồi phá rừng, bom đạn, thuốc độc, hoá học
không chịu dừng lại một phút. Họ ý thức một cách rất trễ về vấn đề thiên nhiên và
môi sinh. Nên ta có thể nói, người Phương Đông đã thấu triệt nhân sinh vũ trụ
hơn hẳn người Phương Tây nhiều thế kỷ. Còn về phương diện tôn giáo, thì kinh
luận nhà Phật đã nói tới sự “tương sinh, tương diệt”, lệ thuộc hỗ
tương từ hơn hai ngàn năm trước rằng: “Không có sự vật đứng độc lập”.
Nếu có sự vật, thì chỉ là có trong mối liên hệ hỗ tương, chứ tuyệt nhiên không
có đơn vị đứng riêng lẻ, và mối liên hệ hỗ tương đó diễn ra trùng trùng điệp
điệp… với sự phong phú, đa dạng của những hình thức sống khác nhau đóng góp
vào làm nên đời sống.
Vũ trụ, nói một cách
tổng quát, với những sự vật ở gần ta, ở xa ta đều tự nó có sự đóng góp cho
chúng ta sự quân bình, sống bằng sự hỗ tương bên này, bên kia, giữa thiên nhiên
với chúng ta. Nếu mất đi thế quân bình thì chết “cả hai”. Nhưng quan
hệ cộng sinh đó đủ cho chúng ta biết đâu là sự sống lành mạnh, đâu là dẫn đến
sự héo mòn, đổ vỡ và chết chóc…
Bạn hẳn biết: Trái đất
chứa ai? Chứa chúng ta, chứa vạn vật, muôn loài. Chúng ta ăn, uống, hít, thở,
vạn vật muôn loài cũng thế. Con người không thể tách rời khỏi thiên nhiên, không
thể tách rời khỏi mọi sinh vật. Tất cả cùng chung một nguồn gốc. Thiên nhiên
với ta ví như tinh thần với thể xác: con người là tinh thần, thiên nhiên là thể
xác. Thể xác chẳng thể tách biệt ra khỏi tinh thần, huống hồ là thiên nhiên với
ta. Con người không phải là sự tồn tại độc lập với giới tự nhiên chủ quan thuần
tuý, mà là dung hoà, dung hợp, dung thông vào toàn bộ thế giới ấy.
Vậy, nếu như sự phong
phú đó bị giảm bớt đi một cách quá đáng, sự đa dạng bị cắt xén đi một cách mất
cân bằng thì sự sống của nhân loại trên mặt địa cầu này sẽ đi đến chỗ mất quân
bình, gây ra nhiều hậu quả khó lường được. Nhưng nói như thế cũng không có
nghĩa là chúng ta không sử dụng tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng những nhu cầu
căn bản của đời sống, mà điều đáng nói nơi đây là ý thức được việc ta làm, bởi
sự nẩy nở của sự sống con người cùng các sinh vật trên mặt địa cầu đều là những
giá trị nội tại, đến những hình thức sống tuy không giống nhau, mà đều có giá
trị bằng nhau trong môi trường thiên nhiên.
Nói như D. T. Suzuki thì:
“Con người nào không sản sinh từ thiên nhiên, thiên nhiên vốn sẵn có trong
con người, nên không thể nhìn thiên nhiên như một đối tượng phải chinh phục và tận
dụng bừa bãi vì sự lợi ích trước mắt một cách vô trách nhiệm, mà phải xem thiên
nhiên như bằng hữu, một tình huynh đệ cộng nghiệp với chúng ta.” Đối với
Phật giáo, con người với thiên nhiên như một tác nhân thân hữu đầy thiện cảm và
có sức sống nội tại hoàn toàn y hệt chúng ta.
Mấy thập niên vừa qua,
trước nguy cơ đe doạ sự sống lành mạnh của con người có liên quan, liên hệ đến
môi sinh, chúng ta mới thấy xuất hiện tổ chức, các hội bảo vệ môi trường sống,
và môi sinh bỗng trở thành một đề tài được bàn cãi sôi nổi của thời đại. Vấn đề
được đặt ra là mối tương quan giữa sự sống con người với thiên nhiên, nhất là
vấn đề ô nhiễm.
Ô nhiễm ư? Thì chúng ta
đã làm ô nhiễm gần như tất cả cái gì có thể ô nhiễm, kể cả tinh thần! và thảm
hoạ của mọi hành động tàn phá hành tinh, rồi sẽ đưa nhân loại về đâu?
Sự thực, khi ý thức được
vấn đề này, người Phương Tây đã phải tốn mất nhiều thế kỷ để bắt đầu nhìn thấy,
hiểu được những vấn đề nằm sâu trong kinh luận nhà Phật. Tự nó tiết ra một thứ
thông sáng và một thứ đạo đức siêu việt bắt đầu ngấm dần trong tư tưởng của
giới trí thức, như vấn đề tương thân, tương ái, tương kính với thiên nhiên.
Chẳng hạn trong Tỳ kheo giới:
– Giới thứ 10 nói rằng:
“Nếu tỳ-kheo tự tay đào đất hay bảo người đào đất thì phạm
ba-dật-đề.”
– Giới thứ 11: “Nếu
tỳ-kheo chặt phá cây cối có nghĩa là phá huỷ chỗ ở của quỷ-thần và sinh vật thì
phạm ba-dật-đề.”
– Giới thứ 19: “Nếu
tỳ-kheo biết nước có trùng mà tự đem dội trên đất cỏ, hay bảo người dội, thì
phạm ba-dật-đề.”
– Giới thứ 49:
“Không được đại tiện, tiểu tiện, hỷ nhổ đến cỏ tươi trừ lúc có bệnh.”
– Giới thứ 50:
“Không được đại tiện, tiểu tiện, hỷ nhổ đến nước sạch trừ lúc có
bệnh.”4
Trong cuốn Đạo lý cho
thiên niên kỷ mới của Đức Đạt-lai Lạt-ma do Linh Thuỵ chuyển ngữ cũng vẫn những
ý tưởng ấy về vấn đề thiên nhiên, Ngài viết:
” Có một lãnh vực
trong đó cả giáo dục lẫn truyền thống đều lãnh một trách nhiệm đặc biệt, đó là
môi trường thiên nhiên. Lại nữa, trách nhiệm này ít liên hệ đến vấn đề đúng
hoặc sai mà chính là vấn đề sinh tồn. Thế giới thiên nhiên chính là nhà của
chúng ta.”
Không nhất thiết là đất
thánh hoặc đất thiêng mà chỉ đơn giản là nơi chúng ta sinh sống. Do đó, chúng
ta cần chú trọng bảo tồn nó. Đó là lẽ thường. Nhưng chỉ mới gần đây, các mức độ
dân số và sức mạnh của khoa học kỹ thuật đã phát triển đến mức có ảnh hưởng
trực tiếp đến thiên nhiên. Nói cách khác, cho đến giờ, Mẹ Đất còn khả năng bao
dung đuợc các thói xấu đối với nhà của chúng ta. Nhưng đến giai đoạn mà Mẹ không
còn im lặng, chịu đựng nổi thái độ của chúng ta nữa.
Các vấn đề do sự phá
hoại môi sinh tạo ra có thể xem như phản ứng của Mẹ trước hành vi vô trách
nhiệm của chúng ta. Mẹ cảnh cáo chúng ta rằng ngay cả trong sự bao dung nhất cũng
phải có giới hạn.
Không nơi nào cho thấy
rõ rệt các hậu quả của sự thất bại trong việc thi hành kỷ luật trong liên hệ
giữa ta và môi trường bằng trường hợp của Tây Tạng hiện nay.
Không có gì là quá đáng
khi bảo rằng Tây Tạng mà tôi lớn lên là một thiên đường hoang dã. Bất cứ du
khách nào được viếng thăm Tây Tạng trước giữa thế kỷ XX đều nhận thấy điều đó.
Thú vật ít khi bị săn bắn, ngoại trừ một số vùng quá hẻo lánh không thể trồng
trọt hoa mầu được. Thật thế, các viên chức chính quyền hàng năm có thông lệ đưa
ra tuyên cáo về việc bảo vệ đời sống hoang dã: “Không ai, dù thường dân
hay quý tộc, có quyền làm hại hoặc bạo hành đối với các động vật trong rừng
hoặc dưới nước.”
Cái ngoại lệ duy nhất là
chuột và lang sói. Sau khi Tây Tạng bị Trung cộng chiếm đóng, các khu rừng bị tàn
phá, thú vật bị săn bắt, đa số bị tiêu diệt. Thật đáng buồn, đời sống với thiên
nhiên phong phú của Tây Tạng khi xưa không còn thấy nữa.”
Tiếp theo, Việt
Tây Tạng là Trung Quốc phải dùng vũ lực để xâm chiếm. Còn ở Việt
người lãnh đạo đảng cộng sản mời Trung Quốc vào.
(Còn tiếp một kỳ nữa)
Chú thích: Bài này trích
dẫn một phần của chương “Vũ Trụ Tại Tâm” trong bộ “Tinh Thần Phật Giáo Nhập
Thế” của tác giả do Nguồn Sống xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2005
Discussion about this post