PHÁP KHẤT THỰC CỦA NGƯỜI KHẤT SĨ
Ngọc Trí
Khất thực của Hệ phái Khất Sĩ được khái quát hoá thành khái niệm “xin – cho”, và nó xuất phát từ nguyên lý chan hoà của cuộc sống. Chính ở đó, hình ảnh vị Khất Sĩ đi khất thực là một biểu trưng tốt đẹp cho sự chia sẻ chan hoà về vật chất cũng như tinh thần. Trong xã hội việc chia sẻ với mọi người với nhau được giáo dục và khích lệ, luôn được
xem là nếp sống văn hoá được chấp nhận và thực hành thì ở đó đạo đức sẽ
được thuần hoá, mối quan hệ đầm ấm của con người được an vui.
Khất thực có nghĩa là xin ăn, cách nuôi thân một cách chân chính do Phật dạy cho những đệ tử Xuất Gia. Đó là thực hành chánh niệm thanh tịnh. Sự khác nhau ở một số Tôn Giáo khác đối với người tu sĩ khác
thời Đức Phật còn tại thế, thường mưu sinh bằng các công việc rất nhẹ nhàng, dễ làm, không khó nhọc như coi bói toán, bùa chú, xem ngày xấu, ngày tốt, xem phong thổ, địa lý, xây nhà… Đức Phật nhận thấy đây đúng là
điều không thể chấp nhận, và đó không phải là việc làm của người Tu Sĩ Phật Giáo, không phải là thực hành chánh niệm thanh tịnh.
Đi khất thực còn gọi là đi bình bát hay trì bát.. Chữ Bát có nghĩa là
đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người. Bình Bát là loại hình làm bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín, rồi tráng men bên trong cho khỏi rỉ nước; Bát không được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý…
Nếu dùng kim khí quý thì không phải đúng phẩm hạnh của người Xuất Gia. Các vị đã phát tâm Xuất Gia tức là xoá bỏ tất cả, kể cả thân mạng nếu cần và đúng với Chánh Pháp, nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo.
Đối với các nước theo Nam tông Phật giáo thì Chư Tăng đi khất thực nên thường dùng bình bát. Ở các nước theo Bắc Tông, thì không đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng An Cư Kiết Hạ, có nơi còn ba tháng kiết đông nữa. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có Phật tử phát tâm cúng dường trai tăng thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai.
Chuyến đi Khất Thực bao giờ cũng diễn ra vào buổi sáng và chấm dứt trước giờ ngọ, trước lúc mặt trời đứng bóng. Các Tỳ Kheo đi một mình hay
từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và im lặng. Các thí chủ cúng dường các thức ăn đã được nấu chín, không cúng dường các vật liệu chưa qua chế biến, như cúng cơm chứ không được cúng gạo… Chư Tăng không được bỏ sót nhà nào hoặc dùng ưu tiên cho phố xá, thị trấn, thành thị; các gia chủ giàu hay nghèo đều phải tạo cơ hội đồng đều để gieo trồng phước duyên, cũng không muốn gây cảm tưởng là chư vị ham thích những nhà giàu vì thức ăn ngon hơn.
Khất thực xong các Vị trở về Tịnh Xá để ăn trước khi mặt trời đứng bóng, đó là bữa ăn duy nhất trong ngày.
Thông thường thức ăn được phân ra là bốn phần: Một phần nhường lại cho các bạn đồng tu nếu thấy họ không có hay có ít, một phần san sẻ cho người nghèo, một phần dành cho chúng sanh và phần còn lại là phần mình dùng. Khi thọ dụng các thức ăn, các Vị Tỳ Kheo xem như là việc uống thuốc để duy trì sự sống mà tu hành, ngon không ham, dở không bỏ. Thọ dụng cúng phẩm của người đời vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Sau bữa ăn các vị rửa bát, xếp gọn các y, nghỉ ngơi trong chốc lát tại một gốc cây hay căn nhà trống, hay tịnh thất ngồi thiền định.
Hằng năm Chư Tăng, Ni an cư vào ba tháng mùa mưa, tất cả trở về sống chung trong các Tịnh Xá lớn. Trong thời gian này, Chư Tăng không đi khất
thực, đã có thiện nam, tín nữ đến Tịnh Xá“để bát” và lo tứ sự cúng dường. Vào ngày trăng tròn hay ngày đầu trăng, chúng Tỳ Kheo cùng sống trong một vùng phải tập hợp lại một chỗ gọi là giới trường để tụng đọc Giới Bổn Ba La Đề Mộc Xoa.
Chư Ni thì có đại diện đến xin lãnh giới ở Chư Tăng và trở về Tịnh Xá
riêng của Ni để tụng Giới Bổn Ni. Ngoài ba tháng an cư, Chư Tăng được tung ra khắp các phương hướng, đi đến các trụ xứ khác, trong các quốc độ, vừa khất thực để độ nhật, vừa thuyết Pháp độ sinh và vừa nỗ lực tinh
cần tiếp thu hành thiền để đoạn trừ tham- sân- si.
Pháp khất thực do Phật truyền cho các đệ tử Xuất Gia phù hợp với nguyên lý trung đạo, tức là tránh xa hai cực đoan:
Thứ nhất là tránh xa sự sung sướng thái quá qua việc ăn thực phẩm do người đời cúng dường để vào trong bát, mà không dùng đũa ngọc, chén ngà,
bàn cao, ghế đẹp với thức ăn mỹ vị.
Thứ hai là tránh xa sự khổ hạnh thái quá qua chiếc bát đựng đồ ăn vừa
đủ dùng; không giống như phái tu khổ hạnh lượm trái cây, lượm đồ ăn thừa để ăn. Theo kinh Phật, sự ăn xin của Tu Sĩ đem lại lợi ích cho mình
và cho chúng sinh.
Đối với vị Tỳ Kheo khất thực thì có năm đều lợi ích:
(1) Tâm trí được rảnh rang, ít phiền não,
(2) Không bận rộn thân và tâm để kiếm kế sinh nhai,
(3) Đoạn trừ tâm kêu căng ngã mạn,
(4) Đoạn trừ lòng tham, không thể tham ăn ngon mà ăn
nhiều vì ai cho gì ăn nấy, không thể chọn lựa, thức ăn chỉ đầy bát chứ không nhiều hơn nữa, tránh sự thâu trữ vật thực trên áo.
(5) Có nhiều thì giờ tu hành.
Ngoài lợi ích cho riêng mình, vị Tỳ Kheo khất thực còn mang lại ba đều lợi ích cho chúng sinh như:
(1) Tạo cơ duyên cho người bố thí đoạn trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên cho họ,
(2) Tạo cơ duyên giáo hoá chúng sanh,
(3) Nêu gương sống giản dị làm cho người đời bớt tham đắm của cải.
Theo Kinh Phật, trước khi lên đường khất thực, Vị Khất Sĩ nguyện rằng: “
Nguyện cho các vị Khất Gia thảy đều được no đủ và nguyện cho các thí chủ thảy đều được phước báu vô lượng. Như nay Tôi được miếng ăn là dùng để điều trị cái thân độc hại này, để tu tập thiện Pháp, lợi ích cho thí chủ”.
Trong khi đi khất thực, vị Khất Sĩ tâm bình đẳng, theo thứ tự nhà của
dân chúng mà xin ăn, không chỉ đến xin nhà giàu, cũng không chỉ xin nơi
nhà nghèo. Có lần Đức Phật quở Tôn Gỉa Ca Diếp bỏ nhà giàu mà xin nhà nghèo, quở Tôn Gỉa Tu Bồ Đề bỏ nhà nghèo mà xin nhà giàu. Vì trước đó tâm của Ca Diếp nghĩ rằng “ Người nghèo thật đáng thương, ít phước, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn; nên đến đó xin để nhờ đó họ bố thí cúng dường mà được phước về sau”. Trái lại, Tôn Gỉa Tu- Bồ- Đề lại cho rằng: “ Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành thì đời sau lại nghèo khổ”. Mỗi vị đều trình bày lí do của mình, Đức Phật mới quở trách các Vị ấy là bậc A- La- Hán có tâm phân biệt, không bình đẳng.
Trong khi đi khất thực vị Khất Sĩ không được ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, đi hết bảy nhà nếu không ai cúng dường cũng phải trở về với bát không và không ăn ngày hôm đó. Khi đi khất thực vị Khất Sĩ cũng không được để ý xem mình được cái gì và cũng không được thoả mãn cũng như bất mãn. Nếu một người đàn bà cúng dường đồ ăn, vị Khất Sĩ không được nói, nhìn hay quan sát xem người ấy đẹp hay xấu. Đồ ăn cúng dường cho Khất Sĩ không phải luôn luôn nhiều hay ngon lành, hay tinh khiết. Các chuyến đi khất thực đôi lúc có thể gây nên những xáo trộn tình cảm cho các Tỳ Kheo trẻ, vì đa số thí chủ là đàn bà con gái.
Do đó, việc tự điều phục thân tâm phải được tăng cường là điều rất cần thiết trong lúc khất thực, như Đức Phật đã nhắc nhở: “Chỉ khi nào thân tâm được điều phục, tu hành chánh niệm và phòng hộ các căn thì mới đi vào làng khất thực”.
Vì nhu cầu tu học, nên vấn đề ăn uống cần được giản dị, thực phẩm phải được xem như là được thực, vì thế Tăng đoàn thời Đức Phật phải đi khất thực. Khất thực là chính sách thực hành giáo Pháp, là truyền thống của Chư Phật. Các Tỳ Kheo phải giữ tâm bình đẵng mà đi khất thực tuỳ nhà, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn để tạo cho mọi tầng lớp dân chúng đều có cơ duyên thực hành hạnh bố thí cầu phước, nhân dịp đó quý Thầy nói pháp khuyên dạy mọi người tu hành.
Khi đi khất thực không được ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, luôn điều phục thân tâm trong tránh niệm, đi theo thứ lớp, nếu hàng phật tử thỉnh thọ trai thì không cần theo thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thí chủ thỉnh mình, còn khi khất thực phải theo thứ lớp. Ai cho gì ăn nấy, không được phân biệt thức ăn tốt xấu, ngon dở, không được quy định người thí chủ phải cúng dường mình mà tuỳ điều kiện khả năng và phát tâm của thí chủ, đó mới gọi là trí không phân biệt. Cũng vậy, khi ăn thì phải trộn các món ăn với nhau để không còn phân biệt món này với món khác, món ngon hay dở và không phân biệt mùi vị của vật phẩm mà mình
thọ dụng. Mục đích để không còn luyến ái mùi vị thơm ngon, chỉ cần để đủ nuôi sống xác thân mà tu hành giải thoát.
Giữa dòng xã hội ngày nay để lo cho cuộc sống mưu sinh thì sự phân hoá giữa giàu và nghèo ngày càng gia tăng; sự tranh dành chức tước, địa vị, quyền lợi trở nên gay gắt, lối sống se sua hưởng thụ trở thành một xu hướng rất phổ biến. Chính từ đó mà hình ảnh của vị Khất Sĩ đầu trần chân đất trang nghiêm từng bước hoá duyên khất thực phải chăng đó là đối
tượng và những gì thấy thật trước mắt giúp cho mọi việc trung hoà lại với những việc đáng lo trong thời đại này, đem đến một nếp sống, một ý nghĩ trung đạo bình đẳng hơn giữa họ?
Và phải chăng hình ảnh của vị Khất Sĩ khoan thai từng bước nhẹ đi khất thực đó sẽ còn mãi hay sẽ dần đi vào quá khứ?
Theo: tinhxangocminh.net
/
Discussion about this post