Người cố chấp: như tằm kéo kén
Một hình tượng gần gũi giúp chúng ta có thể dễ dàng liên tưởng về người cố chấp là những con tằm kéo kén để rồi tự ràng buộc mình vào trong tổ kén bịt bùng và chật chội ấy. Người cố chấp cũng như thế. Trong phần Sám hối lục căn của Khóa hư lục, vua Trần Thái Tông đã diễn tả ý này rằng:
Mắc mứu tình trần,
Lấp tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén,
Càng buộc càng bền.
Đức Phật từng tuyên bố rằng, người nào có thể bỏ bớt “cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả” thì sở tri kiến sẽ được đoạn giảm dần (Kinh Đoạn giảm, Trung bộ kinh số 8) và dĩ nhiên, đau khổ cũng theo đó giảm dần. Khi làm như vậy, người ấy sẽ tự mình nới lỏng sợi dây ràng buộc để nhẹ nhàng hơn, bớt căng thẳng và ngột ngạt hơn. Trong bài kinh này, Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng “con người tự mình bị rơi vào bùn lầy thì không thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy”, một người cố chấp tư kiến, tự ràng buộc mình, không tự giải thoát thì không thể nào giúp người khác từ bỏ cố chấp tư kiến được. Nói cách khác, người cố chấp thì không thể khuyên người khác đừng có cố chấp! Đây là sự thật hiển nhiên vì một khi không tự giúp mình thì không thể giúp ai! Và thực tế hơn, không ai có thể cho đi những gì mình không có!
Một người tự buộc mình trong ổ kén của cố chấp thì không thể tiếp cận được Tam bảo, như ở trong “vùng mù” của bóng đêm thì không thể tiếp cận ánh sáng mặt trời vậy.
Người cố chấp: xa rời Tam bảo
Chúng ta không khỏi giật mình khi Đức Phật nói rằng, với “người cố chấp khó thuyết phục, vị ấy sống không cung kính, không tôn trọng bậc Đạo sư, không cung kính, không tôn trọng Pháp, không cung kính, không tôn trọng Tăng chúng, không viên mãn sự học tập” (kinh Trường trảo, Trung bộ kinh số 74). Người có tánh cố chấp không lường được tai hại thế này! Thế nhưng, bình tâm suy nghĩ một chút, chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận lời dạy trên của Đức Phật. Người cố chấp thì cứ khư khư ôm giữ cách nhận thức, cách hiểu của mình, vì cho đó là đúng, sẽ không tôn trọng và không chấp nhận quan điểm của người khác. Nói theo thuật ngữ nhà Phật thì đó là “chấp trước tà kiến”. Do đó, vì khó thuyết phục nên họ sẽ không thể viên mãn sự học tập từ Ba ngôi báu. Là người học Phật thì không có gì trên đời này quý hơn Ba ngôi báu! Chỉ vì không lường được sự nguy hiểm, của tánh cố chấp, sự thiệt thòi khi không tiếp cận được với Tam bảo mà chưa nỗ lực chuyển hóa đó thôi. Nay nhờ lời dạy này của Đức Phật mà chúng ta tự xét mình kỹ hơn, kịp thời chuyển hóa tâm mình trước khi tự đóng khung mình trong vòng cố chấp đầy vô lý và nhiều khổ đau!
Ở một bài kinh khác, Đức Phật nói rằng người cố chấp tự mình ngăn chặn những cơ hội tiếp cận và học hỏi từ Đức Phật (bậc Đạo sư), giáo pháp, chư Tăng và các học pháp (giới) và đây là gốc rễ đưa đến sự tranh đấu vì họ sống trong vô minh, mê mờ của dục vọng và cố chấp. Những phẩm chất đặc trưng của người cố chấp được ghi nhận trong kinh là “Người chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất khó rời bỏ. Vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp” (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 36: Gốc rễ của đấu tranh).
Đoạn kinh này như một định nghĩa cô đọng về người cố chấp. Họ tự bao bọc mình bằng lớp tà kiến vô cùng kiên cố. Đây là một loại “chất liệu không thấm” giáo pháp nên chúng ta không ngạc nhiên khi họ tự hạn chế mình trong khe hẹp nhận thức một chiều để rồi con đường họ đi là “càng xa bến giác, càng gần sông mê!”
Người cố chấp: một chiều trong nhận thức
Ở Tiểu kinh sư tử hống (Trung bộ kinh số 11), Đức Phật nói rằng, người cố chấp vào “pháp có” sẽ bị chướng ngại với các “pháp không”, và người cố chấp vào “pháp không” sẽ bị chướng ngại với các “pháp có”. Nói cách khác, người cố chấp không thể nào hiểu và chấp nhận những gì khác với suy nghĩ, nhận thức và niềm tin của mình! Một khi nhận thức và suy nghĩ của người chấp trước bị đóng khung như một tảng băng đông cứng thì người ấy sẽ không thấy được điều gì khác, dù có tốt đẹp, sinh động đang diễn ra ngoài kia. Bằng trải nghiệm tự thân, ai cũng có thể cảm nhận điều này không mấy khó khăn. Đây là đầu mối của tất cả sự bất hòa, căng thẳng giữa mình và người trong bất cứ một tập thể nào, dù ở phạm vi nhỏ nhất chỉ có hai con người!
Một người cố chấp vào một điều gì đó, một khái niệm nào đó thì cho đó mới là sự thật, ngoài ra đều không đúng! Một người khác cố chấp vào “không có điều đó” hoặc không có cùng cách hiểu về một “khái niệm” thì người chủ trương “có” cho cái có là đúng, trong khi đó, người có quan điểm “không” sẽ không đồng thuận và cho rằng cái “không” mới là đúng. Nếu người nào ý thức được điều này và sống “bỏ tánh ý của mình và sống theo tánh ý của người khác” sẽ có đời sống cộng đồng hòa hợp như nước với sữa (Tăng chi bộ kinh, tập III, kinh số 122: Tranh chấp; tập V, kinh số 54: Thời gian để tinh cần; kinh số 78: Sự sợ hãi trong tương lai). Ngược lại, với tánh cố chấp, mỗi người là một ốc đảo lạnh lẽo, dù ở gần nhau vẫn không thể nào sưởi ấm cho nhau, ngược lại còn tạo chướng ngại cho nhau, khiến cuộc sống trở nên vô cùng mệt mỏi, căng thẳng và nặng nề.
Với tính cách trên, nếu người cố chấp không ưa ai một điểm gì, thì trong mắt họ, người ấy sẽ mãi như thế, không bao giờ thay đổi! Người cố chấp không cho mình cơ hội để phá vỡ tường thành chấp pháp và chấp ngã, đồng thời không cho ai cơ hội “làm mới”! Họ là người tự vẽ vòng “kim cô” để giam hãm sự tự do của chính mình: tự do nhận thức, tự do chấp nhận và tiếp nhận những quan điểm khác với mình. Họ chỉ khư khư bảo thủ trong nhận thức một chiều, tự làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai mà không tự biết. Thậm chí với cái nhìn tà kiến thái quá, bất cập, người cố chấp có thể làm khổ ngay cả những người mà họ quý trọng thương yêu mà họ coi là “thần tượng”.
Người cố chấp: mắc bệnh “thần tượng”!
Người cố chấp muốn áp đặt suy nghĩ, khuôn khổ mà tự người ấy lên ni tấc cho những người mà họ thương yêu, quý mến. Nếu những người thân yêu làm những việc trái ngược với suy nghĩ và ý thích của mình, họ không chịu được! Họ không thể chấp nhận được một sự thật rằng mỗi người là một tiểu thế giới và là duy nhất đặc thù, không ai giống ai, nên mong ai đó sống theo “khuôn” mình đúc sẵn là một việc làm không thể! Một khi cố công làm việc này mà không thỏa mãn, hơn ai hết, người cố chấp chịu thiệt thòi và đau khổ trước tiên! Do đó, đừng nâng ai lên mức “thần tượng” vì đã “đúc tượng” thì trước sau gì tượng cũng đổ! Khi “thần tượng” một ai đó, cái tâm lý “thương ai thương cả đường đi” nó cứ đeo bám và chúng ta cứ dõi theo từng bước chân của họ!
Không ai có thể hiểu hết một con người và “thần tượng” cũng là một con người! Cuộc sống của một con người tuôn chảy sống động như một dòng nước, còn cái mà chúng ta hiểu được về người ấy chỉ là vài tấm hình được ghi lại, là “cái bóng” của sự thật ở một vài khoảnh khắc nhất định nào đó trên dòng chảy sinh động của vạn pháp vô thường! Với người cố chấp, những tấm ảnh được ghép lại theo sự tưởng tượng chủ quan của người ấy rồi nâng lên thành “thần tượng”. Khi ấy, họ không nhận ra khoảng cách giữa “tưởng” và “thật”, giữa hình ảnh lung linh và sự thật gồ ghề của người mình hết lòng kính trọng và tin tưởng!
Người cố chấp một khi thần tượng ai một cách thái quá là đang rơi vào tà kiến mà không biết. Trong một bài kinh, Đức Phật gọi người tà kiến là người chấp trước “Đây là thường. Đây là thường hằng. Đây là thường trú. Đây là viên mãn” (Tương ưng bộ kinh, tập I, chương VI, phẩm I, phần IV: Phạm Thiên Baka). Người mà họ thần tượng, trong mắt họ, là viên mãn, toàn diện, hoàn hảo và mãi mãi như vậy không hề thay đổi. Cho đến một lúc nào đó, khi vỡ lẽ ra những gì ta tưởng đã hiểu hết về người kia cũng chỉ là một phần theo kiểu “những mảnh ghép không hoàn hảo” mà thôi. Khi ấy thì niềm tin lại vỡ vụn và cái còn lại là hụt hẫng và đau khổ! Khi ấy, tham sân si lại hiện nguyên hình!
Người cố chấp: tham, sân sâu nặng
Một người cố chấp có thể nhận ra mình cố chấp, có thể đồng ý khi “bị quy vào” nhóm người bảo thủ, nhưng tuyệt nhiên họ khó chấp nhận mình là người nặng về tâm tham! Chính bản thân người cố chấp không bao giờ nghĩ rằng cố chấp là tham! Họ biết xả tài vật để cúng dường, bố thí không toan tính mà! Ấy vậy mà trong kinh Ví dụ con rắn (Trung bộ kinh số 22) thì Đức Phật nói người cố chấp là người còn nặng về tâm tham. Chúng ta có thể quên đi rằng tâm tham hiện hành trong nhiều phương diện, không thể diệt trừ một cách đơn giản qua việc bố thí tài vật. Với người cố chấp, họ khư khư chấp vào cái hiểu biết, nhận thức của mình, mà hình ảnh “như tằm kéo kén” ở trên đã diễn tả đầy đủ, là do động cơ tham chấp (tham vào ý kiến, quan điểm riêng của mình) điều động và chi phối. Đức Phật từng tuyên bố “Do duyên chấp trước nên có xan tham” (Tăng chi bộ kinh, chương IX, phẩm III, kinh số 23: Ái).
Đức Phật từng nói rằng “Phàm phu thường chấp trước, chấp thủ và tham đắm” (Tương ưng bộ kinh, tập I, chương VIII, phần II: Không khoái), còn những ai từ bỏ chấp thủ, sẽ xứng danh với tên gọi Tỳ-kheo hoặc Bà-la-môn (Pháp cú câu 367, 396, 414). Do đó, khi nào còn giữ tâm chấp trước, chấp thủ thì muôn kiếp mãi mãi là phàm phu mà thôi! Vậy mới thấy tâm lý cố chấp nguy hiểm và chướng ngại của đến dường nào!
Ở bài kinh Trường trảo (Trung bộ kinh số 74), Đức Phật dạy rất chí lý rằng, người cố chấp hễ thích cái gì thì cho cái đó là sự thật, ngoài ra là hư vọng, hễ thích ai thì cho chỉ có người đó là đúng, những người khác đều sai! Người cố chấp như thế sẽ gặp sự đối nghịch từ hai nhóm người có ý kiến khác: nhóm thứ nhất hoàn toàn không thích những gì người cố chấp thích, không ưa những người mà kẻ cố chấp ưa (vì không thích, không ưa nên họ không thể chấp nhận chỉ điều đó là sự thật, chỉ người kia mới đúng); nhóm người thứ hai chỉ thích một phần, chứ không phải tất cả, toàn bộ những gì người cố chấp thích (họ sẽ chấp nhận một phần sự thật, một vài phương diện nơi một con người nào đó là tốt, chứ không phải cái gì nơi người kia cũng tốt!). Mà một khi “có đối nghịch thời có tranh luận; khi nào có tranh luận thời có chống đối; khi nào có chống đối thời có bực mình” (Trung bộ kinh, số 74: kinh Trường trảo). Như vậy, người cố chấp tự tạo nên sự đối nghịch, tranh luận, chống đối và bực mình; do đó Đức Phật dạy, người đệ tử Phật nên từ bỏ cố chấp để tiến bộ trên con đường tu tập.
Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy rằng “chấp vào sân hận là sự cố chấp bền chặt nhất” (câu 151). Lại ở một bài kinh khác, Đức Phật dạy rằng nhiều người phẫn nộ, lại cố chấp sự phẫn nộ của mình, trở thành người khó nói. Khi những người thiện tri thức nhắc nhở, khuyên người ấy không nên trở thành “người khó nói” thì người ấy “tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình” (Trung bộ kinh số 15: kinh Tư lượng). Đức Phật kết luận ở bài kinh này rằng, người như thế đó, dù nhiệt tâm, nhiệt tình thì những người sống chung, sống gần vẫn không ưa thích và cảm thấy không thoải mái. Người cố chấp rất bảo thủ và cứ kiên trì ôm lấy kiến chấp của mình, không dễ hành xả. Chính vì vậy, Đức Phật dạy: là đệ tử Phật, cần phải phát tâm như sau: “Ta sẽ không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả” (Trung bộ kinh số 15: kinh Tư lượng).
Thật bất hạnh và khổ đau cho những ai ôm trong lòng nhiều tham lam và phẫn nộ!
Người cố chấp: bất hạnh và khổ đau
Như một hệ quả tất yếu, người cố chấp cứ khư khư tham giữ lấy quan điểm của mình, xây thành trì phong kín ý niệm về “tôi” và “của tôi” một cách kiên cố, bất mãn và phẫn nộ với những quan điểm trái chiều. Đức Phật gọi những người như vậy là khó có thể mở lòng để tiếp thu, học hỏi thêm điều gì từ người khác. Như một ly nước đầy thì không thể chứa thêm được nước nữa, dù chỉ một giọt! Người như vậy không bao giờ kham nhẫn để có đủ thời gian và sự nhu nhuyến cần thiết để phân định đúng-sai, hay-dở, chỉ lo bảo thủ những gì thuộc về mình, và đẩy ra những gì mình không ưa thích. Đây là lý do Đức Phật nói người cố chấp góp phần làm cho Chánh pháp băng hoại. Ngài dạy, “Này các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo nào là những người khó nói, đầy đủ những tánh khiến họ trở thành khó nói, khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi được giảng dạy. Đây là pháp khiến diệu pháp hỗn loạn và biết mất” (Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm XVI, kinh số 156: Diệu pháp hỗn loạn). Người như vậy chỉ biết sống theo bản năng để xuôi theo dòng chảy về sông mê biển khổ, không tiếp cận được với giáo pháp để ngược dòng về bến giác an vui.
Bên cạnh việc tự mình chặn lối không tiếp cận được giáo pháp, những tai hại và nguy hiểm của sự cố chấp được Đức Phật dạy nhiều lần trong một số bài kinh. Ngài xác quyết, người không chấp thủ được nhiều người ưa thích, gần gũi và thăm viếng khi có dịp (Tăng chi bộ kinh, chương VII, phẩm VI, kinh số 54: Siha). Điều này có thể được hiểu thêm rằng, người chấp thủ bị nhiều người không ưa thích, không gần gũi và thân cận, và đây là một bất hạnh lớn. Ở kinh Sáu thanh tịnh (Trung bộ kinh số 112), Đức Phật một lần nữa khẳng định người cố chấp bị ràng buộc, người không cố chấp mới có thể giải thoát. Đức Phật thẳng thắn chỉ ra rằng người còn cố chấp thì không thể nào chứng quả A-la-hán (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VIII, kinh số 76: A-la-hán quả). Ngài còn quả quyết rằng, “Ai chấp trước, này Tỳ-kheo, người ấy bị ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi ác ma” (Tương ưng bộ kinh, tập III, chương I, phẩm II, kinh số 1: Chấp trước). “Người chấp trước, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào địa ngục” (Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương VIII, phần VIII: Vỏ ốc).
Hiểu được lời Đức Phật dạy và khuyến cáo, chúng ta nên dần tháo gỡ những sợi dây cố chấp và bảo thủ đang tự ràng buộc lấy mình vào trong hệ lụy khổ đau do chính mình tạo nên.
Những ai khéo tu tập,
Chánh tâm trong giác chi,
Từ bỏ các chấp trước,
Hoan hỷ không chấp thủ.
(Tương ưng bộ kinh, tập V, chương I, phẩm IV, kinh số 34: Đến bờ bên kia)
Chỉ có trí tuệ phát khởi từ công phu tu tập các pháp, điển hình là Thất bồ-đề phần mới có thể giúp hành giả phá vỡ thành trì cố chấp, giải thoát sự ràng buộc vào các nhận thức, quan điểm sai lầm vậy.
Thay lời kết: Dùng trí tuệ phá “tảng băng” cố chấp
Là người học Phật, câu “duy tuệ thị nghiệp” ai cũng nằm lòng. David Loy phát biểu ý này bằng cách nói khác, rằng “Mục đích của đạo Phật là sử dụng trí tuệ để chuyển hóa cá nhân và xã hội” (The goal of the Buddhist path is wisdom in service of personal and social transformation). Câu nói của David Loy không mới, thế nhưng không phải người Phật tử nào cũng có thể nhận thức và sống đúng theo phương châm này.
Cố chấp thuộc về kiến thủ, tà kiến và biên kiến, là những món căn bản phiền não, gốc rễ sâu dày, đừng mong bứng một lần là lên ngay! Điều cần thiết là chúng ta phải lấy trí tuệ soi rọi vào tâm mình, với mỗi một việc, trước khi làm, đang khi làm và sau khi làm, xét một cách công tâm và khách quan, liệu chúng ta có phải là người cố chấp với những quan điểm mình khư khư ôm giữ, những thành kiến, những tưởng tượng, mong muốn hay kỳ vọng của mình về một sự việc nào đó, cá nhân nào đó… bằng cái nhìn một chiều, phiến diện và giới hạn của mình hay không.
Sau khi quán chiếu cẩn thận, cần phải luôn nhắc mình trong chánh niệm, với những giới hạn nhất định của con người nói chung và giới hạn cụ thể của bản thân mình, nhận thức của một cá nhân như người mù sờ voi mà thôi! Nếu là người cứng nhắc, khó góp ý, chúng ta nhận đủ những thiệt thòi, bất hạnh, đau khổ đã được Đức Phật nói đến mà bài viết này đã điểm qua. Ánh sáng của trí tuệ sẽ giúp chúng ta mở tầm nhìn, mở tâm bao dung và làm cho tâm nhu nhuyến hơn, linh hoạt hơn trong cách nhìn, cách nghĩ, cách làm và cách sống. Một điều cần nhớ và để sống thanh thản là: Ai mở lòng chấp nhận rằng cuộc đời là những mảnh ghép đa màu, người ấy có bình an và hạnh phúc!
Chúng ta xứng đáng để được sống trong nguồn hạnh phúc mà mình có khả năng tự chế tác để xứng đáng là người học và hành trì giáo pháp chân chánh! Sao lại không bắt đầu bằng việc dùng trí tuệ, kiên trì phá tảng băng cố chấp của chính mình?!
Liên Trí
Discussion about this post