ĐẾN CHÙA VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ THỜI NAY
Thích Nữ Giới Hương
(Bài tham luận trình bày trong “Hội Luận 2012 – Phật giáo Việt Nam tại Mỹ – Nhìn về Tương Lai,
Cơ hội và Thách thức”” của Hội Phật học Đuốc Tuệ tại California, ngày 16/12/2012)
I DU TĂNG
Hầu như tất cả chúng ta đều biết rằng trong những năm đầu hoằng
pháp, Đức Phật và chư tăng thật ra đã sống đời du tăng, du cư, chưa có chùa và
trú xứ nhất định. Các ngài sống bằng cách khất thực qua ngày và lấy gốc cây, rừng
rậm, thi lâm hay hang đá làm nơi tránh nắng mưa, trú qua đêm. Đó cũng là những
nơi tu tập và độ sanh như Kinh Du Bộ (Trường A Hàm, số 2) có chàng Phúc-quý từ
thành Câu-thi-na-kiệt đi đến thành Ba-bà, giữa đường chàng thấy Đức Phật ngồi
thiền dưới bóng cây giữa rừng chứ không phải trong phòng hay thiền đường như
sau: “Từ Câu-thi-na-kiệt đi đến thành
Ba-bà, giữa đường rừng chàng Phúc-quý trông thấy Phật ngồi thiền bên gốc cây,
dung mạo đoan chính, các căn tịch tịnh, tâm ý nhu thuận trong cảnh tịch duyệt
tuyệt đối.” Chính bản thân Đức Thế Tôn cũng thường khuyên các tỳ kheo hãy đến
rừng cây, chỗ thanh vắng hay bãi đất trống để tinh tấn tu tập như sau:
“Này các Tỳ-kheo, hãy ở chỗ thanh vắng, sơn lâm yên tĩnh, dưới gốc cây
hay bãi đất trống, tinh cần thiền toạ tư duy, chớ nên phóng dật buông lung. Hãy
chuyên cần tinh tấn, đừng để về sau phải hối hận.” (Kinh A-ma-trú, Trường A
Hàm, số 20)
“Này các tỳ kheo, Ta sống
cô độc tại nơi xa vắng, ở trong rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, những
nơi trống vắng yên tĩnh, sườn non, động đá, đất trống, lùm cây, hoặc đến trong
rừng, hoặc giữa bãi tha ma. Ta sau khi ở trong rừng vắng, hoặc đến gốc cây, những
chỗ nhàn nhã yên tĩnh, trải ni-sư-đàn, ngồi xếp kiết già, chánh thân chánh nguyện,
hướng niệm nội tâm, Ta đoạn trừ tâm tham lam, không có não hại.” (Trung A
Hàm, Kinh Thuyết Trí, Phẩm 15, số 187).
II. NHỮNG
NGÔI CHÙA VÀO THỜI PHẬT CÒN TẠI THẾ
Năng lực từ bi trí tuệ và đức độ
cảm hóa của Đức Phật ngày càng vang xa khắp các làng xã thành phố, nên người
dân Ấn bắt đầu tìm đến tăng già để học đạo và quy y Tam bảo rất nhiều. Từ dân
làng mộc mạc cho đến giới thức giả, vua chúa, đã tìm được nguồn an lạc và giải
thoát cho chính đời sống của mình hiện tại, nên số lượng người đến quy Phật
ngày càng đông. Do nhu cầu cần một không gian cho Phật tử tu tập, nghe pháp
thoại và nhất là do thấy Đức Phật và chư tăng quá vất vả trong đời sống du cư,
rày đây mai đó trong nắng mưa, nóng lạnh bất thường của khí hậu Ấn độ khắt
nghiệt; rồi những mùa hạ mưa dầm ướt đẫm, các ngài phải băng mình trong sương
gió để khất thực và dễ dẫm đạp sát hại các loài côn trùng nhỏ nhít nên nhiều
thí chủ khá giả đã phát tâm xây dựng chùa tháp cúng dường Đức Phật và tăng già
để các ngài có chỗ trú ổn định mà chuyên tâm tu tập và hoằng pháp. Nhờ thế hình
ảnh ngôi chùa bắt đầu xuất hiện trong lịch sử Phật giáo.
Chùa Trúc Lâm (Veluvanarama)
Ngôi chùa đầu tiên phải kể đến là
chùa Trúc Lâm do vua Bình-Sa-vương (Bimbisara) của nước Ma Kiệt Đà (Magadha)
xây cúng dường. Trúc là cây trúc, lâm là rừng, nghĩa là nhiều trúc, cả rừng
trúc. Bình-Sa-vương là vị thí chủ đầu tiên của Đức Phật trong hàng vua chúa.
Nguyên nhân là khi vua trông thấy sa môn Cù-đàm thiền hành rất uy nghi, trang
nghiêm và thanh thoát, vua lấy làm cảm kích. Vua liền cung thỉnh sa môn về trú
trong kinh thành để hàng ngày chu cấp cúng dường, nhưng sa môn Cù Đàm hứa rằng
sau khi tìm thấy đạo sẽ về thăm vua. Đúng như lời hứa, sau khi thành đạo dưới
gốc cây bồ đề, Đức Phật cùng đi với các đệ tử A-la-hán từ thành Gaya đến Vương
Xá (Rajagaha) và Đức Phật thuyết một thời pháp về Túc Sanh Truyện (Maha Narada
Kassapa, Chương 7, số 544) dạy rằng trong một tiền kiếp Ngài là Narada đã dìu
dắt Đại Đức Ca Diếp (Kassapa) và nhiều người giác ngộ giống như thời hiện tại
đây. Vua Bình-Sa-vương nghe Đức Phật thuyết giảng xong, ánh sáng giác ngộ bừng
đến và vua liền đắc quả Tu-đà-hoàn, xin quy y Tam Bảo và thỉnh Đức Phật cùng
chư vị đệ tử về cung điện thọ trai ngày hôm sau. Khi mọi người độ ngọ xong, vua
tỏ ý muốn biết nơi nào thích hợp để Đức Phật lưu ngụ. Đức Phật trả lời:
“Một nơi hẻo lánh, không xa mà cũng không gần thành thị để những ai muốn
viếng Ngài, có thể đến dễ dàng. Một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảo ồn ào,
ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp.” (Đức
Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch, http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/dp-pp11.html )
Nghe xong, vua Bình-Sa-vương nghĩ
rằng vườn thượng uyển Trúc Lâm của vua có thể hội đủ những yếu tố cần thiết ấy,
nên vua xin dâng lên Đức Phật và chư Tăng khu vườn này. Do đó, địa điểm nầy là
nơi được dâng cúng đầu tiên đến Đức Phật và chư tăng. Tại chùa Trúc Lâm
(Veluvanarama) yên tĩnh này, Đức Phật và tăng đoàn yên ổn tu tập và nhiều bài
Pháp thoại của Đức Phật trong năm bộ Nikaya được tuyên thuyết tại đây. Đức Phật
đã nhập ba mùa hạ an cư liên tiếp (từ mùa hạ thứ nhì đến hạ thứ tư) và ba hạ
nữa nhưng cách thời gian nhau. Từ ngày có ngôi chùa Trúc Lâm này, vua Bình Sa
Vương, nhiều quan chức, thức giả và dân làng đã đến quy y Phật và thường xuyên
về chùa thính pháp tu học nhất là trong những ngày Bố tát (Uposatha) với tăng
đoàn. Đây là ngôi chùa đầu tiên hiện diện trong lịch sử Phật giáo.
Chùa Kỳ Viên (Jetavanarama)
Ngôi chùa kế tiếp là Kỳ Viên tịnh
xá (Jetavanarama) hoặc Kỳ Hoàn tịnh xá ( http://www.quangduc.com/TruyenNgan/104truyenco1-6.html ) hoặc còn gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên tọa lạc tại thành Xá Vệ (Sravatthi), kinh đô của nước Kiều Tát La
(Kosala), do vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cai trị. Nguyên trưởng giả Cấp Cô Độc
còn gọi là Tu-đạt-đa (Anāthapindika) muốn mua khu vườn thượng uyển lý
tưởng của thái tử Kỳ Đà để xây chùa cúng Phật. Thái tử Kỳ Đà không muốn bán nên
nói giỡn cho qua chuyện: “Trong khu vườn
này, nếu trưởng giả trải vàng đến đâu thì tôi bán cho trưởng giả đến đó”.
Nghe như vậy, trưởng giả về kêu gia nhân khiêng vàng ra và lót đầy vườn của
Thái tử. Thái tử không ngờ trưởng giả Cấp Cô Độc lại giàu có đến thế và nhất là
cúng dường một cách rộng rãi như thế. Thái tử liền tìm hiểu và sau khi nghe
trưởng giả Cấp Cô Độc tán thán về Đức Phật – một bậc thánh hi hữu đã xuất hiện
trên đời- một bậc thầy của cõi trời và người để làm lợi ích cho số đông giải
thoát. Thái tử vô cùng cảm kích và phát tâm muốn góp phần trong công đức đó,
nên thái tử xin cúng dường toàn bộ số cây trong vườn thượng uyển cho Đức Phật.
Vì thế, chùa Kỳ Viên còn có tên là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên. Kỳ thọ là cây cối
của thái tử Kỳ Đà (Jeta), con vua Ba Tư Nặc. Cấp
Cô Độc viên là vườn đất của Cấp Cô Độc. Đức Phật và Tăng đoàn đã trải qua mười
chín mùa an cư kiết hạ tại chùa này. Đây là ngôi chùa thứ hai và lớn nhất mà
lịch sử Phật giáo đã đề cập đến.
Chùa
Ku-Ku-Ta-Ra-Na (Kukkutarama)
Chùa Ku-Ku-Ta-Ra-Na toạ lạc
tại thành Kausambi, do thí chủ Kukkuta xây cúng dường vào năm 318. Đây là một
nơi rất tốt, khí hậu điều hòa ấm áp ở tiểu bang Pataliputta, phía đông Ấn Độ. Bộ
luật Mahavagga (Vinaya, tập I, trang 300) ghi nhận có các tỳ kheo như Nilavāsi, Sānavāsi, Gopaka, Bhagu, và
Phalikasandana đã trú tu tập tại ngôi chùa đây. Bộ Tương Ưng Bộ kinh (The
Samyutta Nikāya, tập 5, kinh số 15, trang 171) đã ghi nhiều cuộc hóa đạo giữa
tôn giả A-nan (Ananda) và Bhadda tại đây. Trung Bộ kinh (tập 1 trang 349) và
Tăng Chi Bộ kinh (tập 5, trang 342) ghi ngôi chùa này là một trong những nơi mà
tôn giả A-nan rất thích ở để tu học và nhà của gia chủ Dasama của làng
Atthakanagara cũng ở gần đây. Cũng trong
Tăng Chi Bộ kinh (tập 3, trang 57), có ghi tôn giả Nārada (người đã cảm hóa vua
Munda), Sonaka (Siggava) và tôn giả Candavajji (thầy của Mogaliputta-Tissa) đã
trú tại chùa đây.
(http://www.palikanon.com/english/pali_names/ku/kukkutarama.html )
Chùa Kỳ Bạt (Jivakarama)
Chùa
Kỳ Bạt do Jivaka, một vị lương y nổi tiếng thời Đức Phật, đã xây cúng dường cho
Đức Phật và tăng đoàn. Chùa Kỳ Bạt toạ lạc tại khu ngoại ô của thành Vương-xá
(Rajagadha).
Chùa
Cù Sư La (Ghositarama)
Chùa
Cù Sư La tọa lạc tại Kausambi, tiểu bang Uttar Pradesh, phía Bắc Ấn Độ, do
chàng Ghosita cùng hai người bạn là Kukkuta và Pavariya xây cất và cúng dường
cho Phật và chư tăng. Nhiều bộ kinh quan trọng trong năm bộ Nikaya đã được Đức
Phật thuyết giảng tại đây.
Chùa
Vườn Xoài
Chùa
do nàng Am-ba-ba-li (Ambapali), một kỹ nữ hạng
sang sống tại thành Tỳ-xá-li (Vaishali), cúng dường lên Phật và chư tăng (khoảng
thế kỷ thứ năm trước công nguyên). Nàng Am-ba-ba-li rất giàu, có nhiều của
cải, trong đó có một khu vườn xoài rất rộng mát
và nhiều trái sum suê tươi tốt quanh năm. Nàng đã thỉnh chư Phật và tăng đoàn về
Vườn xoài để nàng cúng dường trai tăng và sau đó xin dâng Vườn Xoài nổi tiếng
này lại cho Đức Phật và tăng đoàn. Tại chùa Vườn Xoài này, Đức Phật đã ban pháp
thoại về Tứ Niệm Xứ là con đường để thoát khỏi sầu ưu bi khổ não trên đời và
đưa đến giải thoát Niết Bàn. Nghe xong bài kinh (Ambapali Sutta) này, nàng Am-ba-ba-li liền chứng A-la-hán (Kinh
Tương Ưng Bộ, tập 5, trang 140).
(http://en.wikipedia.org/wiki/Ambapali).
Ngoài các ngôi chùa đã nêu
trên, trong năm bộ Nikaya có kể đến những ngôi chùa lớn nhỏ khác như chùa Hậu
Trạch (Markathrada) ở thành Tỳ-xá-li (Vesali); chùa Udambari-Karama ở bờ sông
Sappini gần thành Vương Xá, chùa Pavaxikanivana ở thành Kausambi; Chùa Ni-câu-đà
(Nigrodharama) ở thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu); Chùa Lộc Uyển (Isipatana) ở
thành phố Ba-la-nại (Baranasi) và nhiều chùa khác được thí chủ xây rải rác các
nơi mà dấu chân hoằng hóa của Đức Phật đã đi qua hoặc sau khi Đức Phật nhập Niết
bàn. Các chùa tháp Phật giáo khác cũng được các vua chúa như Vua A Dục lập lên
để tưởng niệm thờ Đức Phật Thích Ca và là nơi trú tu tập của chúng xuất gia thời
đó. Hiện nay, các chùa này đã sụp đổ, chỉ còn lại tàn tích nền móng chứng tích
nơi đó đã từng là những đại tùng lâm tu tập sầm uất, đã từng là một thời Phật
giáo huy hoàng hưng thịnh. Tất cả đã sụp
đổ theo quy luật thành trụ hoại không
và theo thời gian trôi qua. Tuy nhiên, từ hình ảnh chùa tháp trong thời Phật
còn để lại đó mà dần dần kiến trúc chùa tháp, tự viện được hình thành và hình ảnh
mái chùa cổ kính ấy trở thành quen thuộc trong các nước Phật giáo cho đến ngày
nay. Mái chùa hình vòm cong chạm trổ, đỉnh tháp cao ngất tầng mây, cổng tam quan rồng lượn, gác chuông hình bát giác, mỗi
điêu khắc hoa văn đa dạng đều mang đậm dáng dấp nền văn hóa, nghệ thuật, phong
tục và tập quán của tuỳ mỗi một đất nước Phật giáo.
III.
VAI TRÒ LÝ TƯỞNG CỦA NGÔI CHÙA
Ngôi chùa là nơi tưởng niệm
kính thờ các Đức Phật, các Bồ tát, hiền thánh tăng và hiện tiền tăng quá vãng.
Ngôi chùa là nơi tôn nghiêm thánh thiện, giúp các bậc xuất gia tránh được những
chướng duyên ô nhiễm trần thế, sống một chỗ hoàn toàn riêng biệt độc lập, không
đồng cách mặc và cách sống với người thế gian, không bị cảnh duyên bên ngoài
phá rối cám dỗ để thực hành lý tưởng giải thoát của mình. Như thế, quý thầy cô
Sa di/Sa di ni, Thức xoa và Tỳ kheo/ Tỳ kheo ni từ biệt gia đình, sống trong
nhà chùa, cạo đầu, đắp y, mặc áo nâu sòng giản dị, hàng ngày gột rửa tham sân
si, hàng ngày hiển lộ uy nghi, tế hạnh, từ bi, trí tuệ trong sáng để làm bậc thầy
gương mẫu mô phạm cho cuộc đời.
Các bậc xuất gia hoàn toàn
sống theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca, y theo giáo pháp của Phật mà suy ngẫm
an định để giải thoát những ràng buộc thế gian và thoát vòng sanh tử tái sanh,
như thế gọi là các bậc thánh Thanh văn – đại đệ tử của Đức Phật. Thanh là âm
thanh của Phật thuyết pháp. Văn là nghe. Nghe âm thanh của Phật, sống hoàn toàn
với lời dạy của Phật, một bề vâng theo giáo pháp của Phật, trì giới, tụng kinh
và nhiếp tâm an định tinh thần tu tập. buông hẳn chuyện thế gian, chuyện đời
cho đến chuyện quyến thuộc họ hàng, cha mẹ, bà con cũng tạm xa lìa, để một bề
lo chuyện chuyên tu giải thoát như thế gọi là bậc Thanh văn hiếm có trong đời.
An lạc tu tập ở trong chùa
không có những ràng buộc trong thế gian, không có những vọng riêng ở đời. Một
lòng tha thiết buông đi vọng cảnh, vọng tâm, quay ngó lại tâm của chúng ta xem
còn chấp nhân, chấp ngã nữa không thì nên bỏ, để trở về với tâm thật của mình.
Như vậy, ngôi chùa là thắng duyên để giúp chư tăng ni và Phật tử chuyển hóa những
thói quen nghiệp xấu của mình mà bước lên nấc thang thánh vị, thực hiện lý tưởng
giải thoát của các đệ tử Phật. Đó là vai trò chủ yếu then chốt của các chùa dù
chùa đó nhỏ hay lớn, thuộc đất nước nào và đang toạ lạc ở đâu.
Tuy nhiên, vì Phật pháp bất ly thế gian pháp, và vì hạnh
nguyện bồ tát đạo, nên ngày nay, hầu hết các chùa còn mang thêm chức năng của một
trung tâm văn hóa giáo dục để phục vụ cho chúng sanh trong cộng đồng dân cư
quanh chùa. Dù được xây giữa thị tứ náo nhiệt hay nơi thôn dã quê mùa, chức
năng phụ đó của ngôi chùa làm cho vai trò của chùa như một hoa sen giữa đầm lầy.
Cộng sinh để tứ chúng đồng tu, thỏng tay vào chợ “mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đó cũng là một hình ảnh lý tưởng rất biểu
trưng tinh thần nhập thế của ngôi chùa Phật giáo thời hiện đại.
IV.
CHÙA VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ
Số
lượng Chùa
Danh
sách số lượng Chùa Việt trên đất Mỹ thay đổi tùy theo nguồn thông tin:
- Theo
Webside “Quảng Đức”, hiện có 131 ngôi chùa tính đến ngày
9-10-2012
(http://quangduc.com/DiachichuaUc/chuaviethaingoai.html )
- Theo
sổ địa chỉ của Tổ Đình Minh Đăng Quang in năm 2008 thì có 121 ngôi chùa tại tiểu
bang California, còn các tiểu bang khác thì có 195 ngôi chùa. Tổng cọng là 316 ngôi chùa Việt tại Mỹ. - Theo
website “Directory of Charities and Nonprofit Organizations”, danh sách của các
chùa đăng ký với chánh phủ Mỹ (IRS/Internal Revenue Service) dưới danh nghĩa là
Buddhist Charities and Nonprofit Organizations (Hội Từ Thiện Không Vụ Lợi của
Phật Giáo) cho đến ngày 18/11/2012 liệt kê 163
ngôi chùa hoặc cơ sở từ thiện Việt Nam trên toàn nước Mỹ. (http://www.guidestar.org/nonprofit-directory/religion/buddhist/1.aspx) - Trang
blog “thebuddhagarden” liệt kê danh
sách địa chỉ của 248 chùa Việt trong
34 tiểu bang (và Washington DC) tính đến ngày 30/3/2012. Đây là dữ liệu tương đối
đáng tin vì phương pháp thu thập và cập nhật thông tin của họ có vẽ khoa học
hơn cả.
(http://www.thebuddhagarden.com/blog/vietnamese-temples-usa/#california)
Nói
tóm lại, để xác định chính xác số lượng các chùa Việt tại Mỹ thì rất khó vì số
lượng chùa ngày càng tăng (tự phát tự lập, không có một cộng đồng thống nhất/a
united community, hay một giáo quyền trung ương /central authority); vả lại, có
nhiều cơ sở không/chưa đăng ký với chánh phủ Mỹ, cho nên đây chỉ là những con số
tạm thời. Nếu phải dùng một con số để tham chiếu cho năm 2012, thì có lẽ viết “từ 250 đến 300 chùa hành trì theo truyền thống
Phật giáo Việt Nam tại Mỹ” là gần đúng nhất.
Vai trò Giáo Dục và Văn Hoá của Ngôi Chùa
Ngôi chùa lý tưởng thời Phật là nơi tu tập của chư tôn
đức tăng ni và các Phật tử, để un đúc các bậc hiền nhân thánh thiện tiếp nối
tương tục truyền đăng đèn Phật pháp. Tuy nhiên, Phật giáo của thế kỷ 21 là Phật
giáo nhập thế vào lòng xã hội, nên ngôi chùa của ngày nay không những là nơi tu tập tâm linh giải thoát của tôn giáo,
mà thực sự đã trở thành những trung tâm sinh hoạt văn hóa, giáo dục và xã hội
cho cộng đồng quần chúng.
a) Hoạt động giáo dục
Ngôi chùa nhập thế hôm nay là kết hợp giáo dục giữa
tri thức đạo lẫn đời, đi đôi giữa kiến thức Phật học và kỹ năng xã hội, cho nên
ngôi chùa không những chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, cầu nguyện, hướng
dẫn Phật
pháp (cho mọi tầng lớp, ứng dụng Phật pháp vào mọi mặt của đời sống), dạy thiền,
niệm Phật, thọ Bát quan trai giới, ban pháp thoại, khóa tu mùa xuân hạ thu
đông, khóa học nghi lễ phổ thông, học cách ứng xử, nếp sống đạo đức của nhà Phật
… mà còn tổ chức các lớp học về kiến thức xã hội phổ thông, dạy ngôn ngữ như Việt
Văn cho các em thiếu niên
nhi đồng gốc Việt nhưng sanh trưởng tại Mỹ, hướng dẫn các tri thức khoa học, những
kỹ năng
khoẻ (dưỡng sinh, thể dục yoga, tập võ, khí công), âm nhạc và nghệ thuật Phật
giáo, vv… giúp thế hệ trẻ gắn bó hơn với
nền giáo dục Việt Nam và Phật pháp. Rất nhiều ngôi chùa Việt tại đất Mỹ đã có
những hoạt động giáo dục đáng kể đó giữa Phật học và xã hội, đã duy trì và hoà
nhập giáo dục Phật giáo Việt Nam vào xã hội Mỹ.
b) Hoạt động văn hóa
Một số hoạt động văn
hóa gắn liền với tôn giáo và lễ hội dân gian do nhà chùa đứng ra tổ chức như Tết
Nguyên Đán, rằm thượng nguyên, rằm trung nguyên, rằm hạ nguyên, Vu Lan, Phật Đản,
tết trung thu, lễ vía của Phật, Bồ tát, ngày giổ Tổ và chư Hiền thánh tăng, vv…
thực sự đã đem lại đời sống tinh thần phấn chấn và hiệu quả tốt cho kiều bào Việt-Mỹ.
Theo tục lệ truyền thống Việt Nam, Phật tử và đồng hương xa gần thường tìm
nương tựa đến chùa khi gia đình họ có hữu sự, tang chế, rước vong siêu độ, cúng
thất đám giỗ, cưới hỏi hiếu hỉ, tân gia, xây cất nhà cửa, cầu an khi sinh nở hay bịnh hoạn, vv… Nhà
chùa tận tâm tư vấn hỗ trợ tinh thần của Phật tử, nhất là khi gia đình Phật tử
có hữu sự như trên. Tuy nhiên, nhu cầu này cũng dần giảm bớt đi vì sống trong
xã hội kỹ nghệ, tri thức khoa học hiện đại của Mỹ, người dân quá bận rộn cho việc
đi làm, con cái gia đình, phương tiện đi lại khó khăn, cho nên đời sống tôn
giáo của một số Phật tử hình như cũng đơn giản đi nhiều. Những hình thức tín ngưỡng dân gian như dâng sao giải
hạn, phong thủy, tử vi, tướng số, xin xâm, xem ngày, giờ tốt, cũng rất ít thấy ở
các ngôi chùa Việt tại Mỹ. Ví dụ, chọn ngày lành tháng tốt để nhập liệm, thiêu
chôn, cưới hỏi, tân gia… thì nhà chùa và gia đình đều đồng ý thường tổ chức vào
cuối tuần. Vì vào các ngày thứ bảy hay chủ nhật thì các con cháu, gia đình,
thân quyến mới được nghỉ làm hay nghỉ học để tham dự làm lễ được.
Tuy nhiên, nhìn chung khách quan, vai trò tín
ngưỡng, tâm linh của số đông các chùa Việt tại Mỹ đã thể hiện hữu hiệu tích cực
thông qua các hoạt động điển hình của giáo dục và văn hóa xã hội.
Phát huy Vai trò của
Chùa Việt trên Đất Mỹ
Để hình ảnh các ngôi chùa thực sự sống mãi và bóng y vàng của
chư tăng ni giải thoát hiện diện, các chùa thường nên mở hạ an cư, bố tát tự tứ,
tổ chức dạy kinh luật luận cho chúng xuất gia. Cần phát huy sự tu tập tâm linh,
giữ giới định tuệ để un đúc nếp sống thánh hiền. Quý sư là những nhà mô phạm xuất
thế, ngôi chùa thể hiện nếp sống thiền môn siêu thoát để thế gian kính ngưỡng học
theo. Đây là vai trò chủ chốt của ngôi Tam bảo. Ngoài ra, các chùa nên tổ chức
các lễ hội Phật giáo ở quy mô lớn, kết hợp với văn nghệ ca nhạc góp vui thu hút
quần chúng nhất là giới trẻ hiện nay, để giới trẻ tiếp cận được các nghi lễ
truyền thống Phật giáo. Các chùa cũng nên thường xuyên tổ chức các khóa tu cho
giới trẻ vì tre già măng mọc. Sau này thế hệ trẻ sẽ giữ gìn, duy trì và tiếp nối
được Phật giáo truyền thống của tổ tiên ông bà cha mẹ mình.
Tam tạng kinh điển của Đức Phật là phương thuốc hữu hiệu để đối
trị các tham lam, sân hận, ích kỷ, buồn phiền, bực dọc mà hàng ngày dễ xảy ra
trong tâm chúng ta. Phật pháp giúp chúng ta biết quán chiếu để cân bằng và làm
lắng dịu những lo toan căng thẳng của cuộc sống. Phật pháp giúp chúng ta chánh
niệm hiện tại, biết tránh những khổ tương lai và mang lại hạnh phúc hiện tại. Cho nên, các chùa thường tổ chức các buổi pháp
thoại/hội thảo/pháp đàm song ngữ (Anh-Việt) về các đề tài Phật pháp ứng dụng
trong đời sống để giúp các Phật tử tại gia vững chải hơn trong cuộc sống lứa
đôi, trong trách nhiệm làm cha mẹ, anh em, con cháu theo như lời Phật dạy.
Nhịp sống xã hội Mỹ bận rộn, hối hả, sôi động, gấp gáp thì một
không gian già lam tĩnh mặc uy nghiêm sẽ rất cần thiết, để giúp cho chúng ta trở
lại thăng bằng tâm tư, tĩnh tâm, buông bỏ những phiền muộn, thư thái tâm hồn. Mái chùa, tiếng chuông, sự yên tĩnh của thiền môn
là một cái gì rất thiêng liêng không thể thiếu được trong lòng người con Phật,
nhất là những kiều bào Mỹ gốc Việt. Sau những giờ bận rộn nơi công sở, mỗi khi
đến chùa như thấy lại hình ảnh của quê hương Việt Nam với những nét trang trí
hiền hòa theo văn hóa Việt Nam, được dùng cơm chay Việt Nam, được nghe ngôn ngữ
Việt Nam, được thấy hình ảnh thân thương của quý thầy cô Việt Nam, được quỳ lạy
Phật cầu ngài che chở, được thanh thản lắng lòng theo nhịp mõ, tiếng chuông
trong không gian tĩnh lặng, vv… tâm hồn của những người xa xứ trong giây phút ấy
như được đánh thức trở về với tận cõi lòng bên trong sâu lắng, cho nên bản sắc
của ngôi chùa thiền môn lý tưởng rất quan trọng, đóng một vai trò rất lớn trong
tâm hồn của người dân Việt-Mỹ. Do đó, ngôi chùa nên được tôn trí đơn giản, gần
gũi với cây cỏ thiên nhiên nhưng lại toát đầy sức sống thiền vị và nghệ thuật.
Biểu tượng của ngôi chùa là biểu tượng của bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa Phật
giáo cao đẹp và bản sắc giá trị truyền thống địa phương của chùa Việt đất Mỹ.
Vị Trụ trì cùng tứ chúng (quý thầy, quý sư cô, cư sĩ nam, cư
sĩ nữ) trong chùa như là một mô hình nhỏ của tăng già, mỗi vị có những trách
nhiệm riêng để duy trì sinh hoạt trong chùa. Vị trụ trì cũng là pháp nhân đại
diện cho chùa để đối nội đối ngoại. Đối nội là tổ chức sao cho tứ chúng hòa hợp
cùng chia đều công việc để chấp tác và cùng an tu theo tinh thần lục hòa, giới
định tuệ của nhà Phật, khiến cho chùa ngày càng phát triển như một mô hình của
thánh chúng xuất thế. Đối ngoại là sắp xếp giấy tờ hợp lệ với chánh quyền các cấp
để hình thành một cơ sở tôn giáo chính thức như đăng
ký với chánh phủ Mỹ (IRS/Internal Revenue Service) là Hội Từ Thiện Không Vụ Lợi
của Phật Giáo (Buddhist Charities and
Nonprofit Organizations). Đối ngoại còn là phải giữ an hòa và thân thiện đối
với hàng xóm láng giềng với nhiều nguồn gốc sắc tộc khác nhau (người Mỹ trắng,
Mỹ gốc Châu Phi, Mỹ gốc châu Mỹ La-tinh, Mỹ gốc Châu Á…), tham gia giao lưu văn
hóa cộng đồng và hoạt động xã hội với các chùa khác và các tôn giáo khác
lân cận để tạo cơ cấu liên tôn giáo với nhau. Vị trụ trì hay chư tăng ni nên giỏi ngôn ngữ bản xứ (Anh ngữ chẳng hạn)
để có thể tham dự các buổi tìm hiểu tôn giáo, dấn thân vào các nhà thương, nhà
dưỡng lão, nhà tù hầu hướng dẫn niệm Phật, tu thiền, học Phật pháp để giúp Phật
tử vững chải tâm linh theo lời Phật dạy. Đây
là những hạnh nguyện Bồ tát nhập đời cứu thế và giúp cho đạo Phật có chỗ đứng vững
chải giữa lòng xã hội Mỹ như các tôn giáo khác. Ngôi chùa nên truyền bá Phật pháp bằng song ngữ Anh-Việt để giá trị văn hóa Phật
giáo đến được với người bản xứ và nhất là cho giới trẻ người Mỹ gốc
Việt. Những phương tiện tiên tiến của công nghệ thông tin hiện đại đã giúp cho
việc hoằng pháp lợi sanh (giảng dạy, học Phật pháp, phổ biến sinh hoạt của
chùa, tìm tài liệu online, băng đĩa DVD, CD, MP3) có hiệu quả với tốc độ nhanh
chóng đáng kể. Internet giúp cho không gian cách trở của năm châu đất nước
không còn là vấn đề. Một vị sư thuyết pháp ở một nơi, nhưng với sự trợ giúp
của các công cụ truyền thông như YouTube, Facebook, PallTalk, Twitter … khiến
ở các nơi trên quả đất đều có thể nghe và thấy được. Một cuốn kinh để trên
website thì mọi Phật tử ở góc trời xa xôi nào cũng có thể đọc và in ra được.
Ngôi chùa bây giờ là lên online và năng suất truyền đạo của ngôi
chùa đó không chỉ giới hạn cho Phật tử địa phương mà còn cho Phật tử toàn cầu.
Đây là một hiện tượng hiếm có, tiên tiến của khoa học kỹ thuật của thế kỷ 21 mà
chúng ta có được.
Một số
ngôi chùa lớn khá thích hợp trong bối cảnh hội
nhập và giao lưu đa văn hóa, song làm thế nào để duy trì không gian tu tập
linh thiêng và hạnh giải thoát nơi chùa chiền? Đây là một vấn nạn cần suy nghĩ.
Làm thế nào để ngôi chùa phát huy được chức năng truyền thống tu tập giải thoát
thiêng liêng vốn có của nó, đồng thời vẫn phát huy và điều tiết hợp lý được những
chức năng phục vụ thực tiễn khách quan như sinh hoạt cộng
đồng, nơi dạy
chữ, dạy triết lý đạo Phật và truyền dạy đạo lý làm người cho cộng đồng cư dân trong đời sống đa văn hóa của
kiều bào Việt Mỹ (của hai thế hệ: một là sanh và lớn lên ở Việt Nam, hai là
sanh và lớn lên ở Mỹ nhưng gốc là Việt Nam)? Đây là những bước đột phá, những bước thử thách cho chùa Việt trên đất Mỹ.
Đây cũng là những bước đồng sự trong Tứ nhiếp
pháp, là “Bồ đề bất ly thế gian giác”
(Lục Tổ Huệ Năng – Kinh Pháp Bảo Đàn), nghĩa là không thể rời bỏ cuộc sống thế
gian này mà có tâm hạnh bồ đề, phải ngay giữa xã hội này mà hạnh nguyện từ bi
trí tuệ mới nảy mầm, sanh trưởng, ra hoa kết trái. Thế nên trong thế kỷ 21 này,
lý tưởng của bồ tát được thể hiện rõ nơi các ngôi chùa hơn, tinh thần của chư
tăng ni hòa đồng nhập thế với xã hội hơn, lòng từ bi cứu đời của Đức Quan Thế
Âm được hiển lộ rõ hơn; trong khi vào thời Phật, lý tưởng A-la-hán, lý tưởng sớm
thành Phật, lý tưởng sớm giải thoát khỏi các triền cái, ngũ trược được thể hiện
rõ hơn (như những đoạn trên đã minh chứng).
V DỰ PHÓNG VỀ TƯƠNG LAI CỦA CHÙA VIỆT
TRÊN ĐẤT MỸ
Sự hiện diện của chùa Việt trên đất Mỹ,
cả về bản sắc cũng như số lượng, tùy thuộc vào sự hiện diện của chính bản thân
Phật giáo Việt Nam trên đất Mỹ. Mà Phật giáo Việt Nam, sau 37 năm tính từ năm
1975, vẫn đang trong quá trình hình
thành với tất cả những biến số do cơ hội và thách thức mà xã hội và văn hóa
Mỹ đặt ra. Do đó, dự phóng chính xác về tương lai của chùa Việt là một điều bất
khả thể.
Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận diện và đánh giá sơ khởi ba yếu tố chính
yếu sẽ tác động lên “sinh mệnh” của chùa Việt trên đất Mỹ trong một tương lai
không xa:
■ Trước hết,
và quan trọng nhất, nói đến chùa Việt là nói đến sự hiện diện của một Tăng đoàn Việt
chủ yếu được đào tạo và tu tập theo truyền thống Phật giáo Việt Nam để trụ
trì các ngôi chùa đó. Quý Thầy Cô nên sống và ứng xử theo văn hóa Việt Nam. Nếu
vị trụ trì một ngôi chùa (và các chư Tăng Ni đồng trú) mà không có “tính Việt Nam” đó trên cả hai truyền thống
Phật giáo Việt và bản sắc Văn hóa Việt, thì ngôi chùa đó khó có thể gọi là một
ngôi chùa Việt Nam được dù nó ở Mỹ, Úc, Đức hay ngay cả ở trên đất Việt
Nam. Với hai điều kiện đó, có vẽ như
theo thời gian, và với hiện tượng tiếp biến văn hóa (acculturation) tại Mỹ, một
Tăng đoàn thuần Việt sẽ càng ngày càng nhỏ lại khiến cho lượng chùa Việt Nam sẽ
ít đi, có thể dần dần biến mất để hóa thân thành một ngôi chùa “X phần Việt, Y phần Mỹ”, mà giáo sư Phật
học Charles Prebis gọi là hiện tượng “hybridity”
trong Phật giáo. (Xin lưu ý rằng các tôn giáo độc thần và giáo quyền tập trung
không có hiện tượng hybridity nầy. Chỉ
riêng Phật giáo, với đặc tính tùy duyên bất
biến, mới đủ nội lực để thiên biến vạn hóa trong một không gian văn hóa mới
như thế nầy).
■ Thứ nhì là
sự hiện diện của một cộng đồng Phật tử
Việt Nam tại Mỹ, vốn là lực lượng hộ pháp của ngôi chùa. Thống kê Dân số của
US Census Bureau 2010 cho biết số người gốc Việt ở Mỹ là 1,550,000 người, trong đó
25% dưới 17 tuổi. Độ tuổi trung bình
là 35 năm và già đi 20% so với 10 năm
trước. Census 2010 không cho biết tôn giáo của người gốc Việt, nên ta không biết
có bao nhiêu Phật tử Việt tại Mỹ (và tăng trưởng/suy giảm như thế nào so với
năm 2000), nhưng hai dữ liệu trên cho ta thấy người Mỹ gốc Việt đông người trẻ mà lại già nhanh, vốn là
hai yếu tố bất lợi cho các chùa Việt Nam tại Mỹ: Trẻ thì ít đến chùa, mà già thì khả năng hộ pháp bị giới hạn. Hiện
nay, trong hạnh nguyện phục vụ chúng sanh, chùa Việt đang được xây thật lớn và
thật nhiều tại Mỹ. Những bài học của chùa Trung Quốc tại California rất đáng để
cho chúng ta suy nghĩ hầu tìm ra một cách thế phát triển chùa bền vững và hiệu
quả hơn, dù thuần Việt hay hybrid Việt-Mỹ.
[Theo Wikipedia và PEW: Tại California, năm 1875 chỉ có 8 chùa
Trung Hoa. Năm 1900, nhờ cuộc xuất cảnh nhân công để làm đường sắt xuyên lục địa
Pacific Railroad, Phật tử người Hoa xây thêm 400
chùa mới. Và lên đến cao điểm gần 900 chùa nhờ
chương trình di dân (1945-1965) của chính phủ Mỹ sau khi ông Mao Trạch Đông chiếm
toàn Hoa Lục. Hiện nay, sau gần 50 năm,
chỉ còn lại không đến 10 chùa lớn, loại Đại Tùng lâm như chùa Vạn Phật Thánh Thành (1974, Mondecino) hay chùa Tây Lai Phật Quang Sơn (1986, Los
Angeles)].
■ Thứ ba là
không gian xã hội và cảnh quan văn hóa Mỹ
đang có những trở mình thuận lợi cho Phật giáo. Cuộc khủng hoảng bốn-tầng về
giáo lý, giáo chế, giáo quyền và giáo sản của tôn giáo chủ đạo tại Mỹ là Thiên
Chúa giáo (Tin Lành và Công giáo) đã mở ra một cơ hội cho người Mỹ thử nghiệm
Phật giáo như một con đường tâm linh mới gần gũi với họ hơn, và có khả năng giải
quyết một cách hiệu quả những vấn nạn đời thường của họ. Theo phúc trình năm 2008 và 2012 của Trung tâm
Nghiên cứu PEW thì Phật giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ tăng trưởng nhanh
nhất tại Mỹ (trung bình 170% mỗi năm),
và chúng ta có cơ sở để tin rằng xu thế nầy là khó có thể đảo ngược được. Tín đồ
(Mỹ, hay Mỹ gốc Việt thế hệ sau) tăng thì cơ sở tu tập, trong đó có các chùa, hầu
như cũng phải tăng. Vậy thì kiến trúc và nội thất, nghi thức và ngôn ngữ, tông
phái và hành trì … trong các chùa Việt Nam có phải thay đổi không? Nếu có thì
thay đổi như thế nào? Tác động sẽ ra sao trên bản sắc “thuần Việt” của nó?
VI KẾT LUẬN
Tóm lại, nhìn lại chặng đường
dài của 26 thế kỷ đã qua, sau khi Đức Thế Tôn du hành từ Bồ-đề-đạo-tràng đến Lộc
Uyển và thành lập tăng đoàn Phật giáo, dù trải qua những giai đoạn thăng trầm,
suy hưng của thời thế, dù trải bao giai đọan thành trụ hoại không của quy luật
vô thường nhưng hình ảnh ngôi chùa với sứ mạng mang thông điệp giải thoát thực
tiễn của Đức Phật vào cuộc đời vẫn còn mãi trên thế gian và được truyền bá rộng
rãi trên khắp năm châu thế giới. Ngôi chùa tâm linh Phật giáo thực sự đã có chỗ
đứng vững chải trong lòng yêu đạo của những người con Phật, nhất là thế kỷ 21
này, với sự góp mặt của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và tăng đoàn Tây Tạng của ngài,
cũng như với Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai của Việt Nam, Phật
giáo đã trở thành một tôn giáo lớn và được nhiều giới trí thức Âu Úc Mỹ biết đến
và tu tập theo.
Trong khuynh hướng tiến
triển chung đó, chùa Việt trên đất Mỹ đã thực sự khởi sắc và góp mặt cho đời.
Dù lý tưởng giải thoát hay lý tưởng nhập thế thì ngôi chùa vẫn là một cõi tâm
linh thiêng liêng để mọi người lắng lòng hướng về. Ngôi chùa thực sự đã góp phần như một biểu tượng của tâm linh hướng thượng
và của bản sắc văn hóa Phật giáo truyền thống nước Việt tại xứ Hoa Kỳ này. Chư tôn đức Tăng Ni đã vượt nhiều khó khăn,
nhiều trở ngại giữa những bất đồng văn hóa để thành lập được những ngôi chùa
thiêng liêng, để toả sáng những giá trị tâm linh quý giá. Các ngài đã hy sinh
vì đạo, vì đời để duy trì và phát triển nếp sống văn hóa của dân tộc và Phật
Giáo Việt Nam tại Mỹ này. Thật là công đức cao vời! Đúng như ông Thị trưởng
thành phố Santa Ana Miguel Pulido, nhân đại lễ khánh thành Trung Tâm Văn Hóa Phật
Giáo – Chùa Bảo Quang tại Santa Ana, California, vào ngày 14/10/2012, đã đại diện
cho các cấp chánh quyền trong Quận Cam, California, Hoa Kỳ, để biểu dương công
đức tốt đời đẹp đạo của chư Tôn đức Tăng Ni như sau:
“Chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc Hòa Thượng Thích Quảng Thanh đã mất nhiều
công sức tạo dựng nên ngôi chùa đẹp đẻ nầy cho thành phố Santa Ana, [Hòa Thượng
cũng] đã phát cơm miễn phí cho người nghèo vô gia cư trong hai mươi năm qua.
Chúng tôi rất hãnh diện về hành động tốt lành đó của Hòa Thượng. Ngoài chùa Bảo
Quang, còn có chín ngôi chùa khác tại Quận Cam nữa như chùa Bát Nhã, chùa Huệ
Quang, chùa Liên Hoa, chùa Phổ Đà, chùa Việt Nam, chùa Điều Ngự, chùa Dược Sư,
chùa Diệu Quang và chùa của Thầy Hằng Trường đang được xây cất. Mười ngôi chùa
này cùng các chùa khác cũng giống như những viên ngọc quý làm đẹp thành phố
Santa Ana của chúng ta. Những ngôi chùa [Việt Nam] này cũng đã đóng góp vào việc
giáo dục người dân thành những công dân tốt, và góp phần xây dựng xã hội chúng
ta được hoàn hảo trong nhiều lãnh vực. Chúng tôi thành thật ghi ơn toàn thể chư
Tôn đức Tăng Ni và quý Phật tử về công trình cao quý này.”
(We would like to show my
deep thankful feelings to Ven. Thich Quang Thanh who spent lot of hard works to
build a beautiful temple for Santa Ana city, has given a lot of foods to
homeless people in the past twenty years. We are so proud of his good deeds.
Besides Bao Quang temple, our Orange County also has another nine temples such
as Bat Nha, Hue Quang, Lien Hoa, Pho Da, Viet Nam, Dieu Ngu, Duoc Su, Dieu
Quang, and the other from Ven. Hang Truong is undercontructed. These ten
temples and others are as the valuable jewels to make our Santa Ana city
beautiful. These temples also have contributed in educating people to be good
citizens and building our society to be perfected in many fields. Our sincere acknowledgements go to all the
abbots, abbesses, and Buddhist followers for this noble
work).
Lập Đông, Hương Sen Tự, 14/12/2012
Thích Nữ Giới Hương
■ Thế danh là Phạm Thị
Ngọc Dung. Sinh năm 1963 tại Bình Tuy, Thuận Hải và xuất gia năm 15 tuổi.
■ Tốt nghiệp Tiến sĩ
Phật học tại Dehli University, India, năm 2003.
■ Đến Mỹ định cư vào
tháng 9 năm 2005. Hiện đang theo học Khoa Văn Chương tại UCR (University of
California, Riverside) và trụ trì Chùa Hương
Sen, 24615 Fir Ave., Moreno Valley, CA.92553, USA (Tel: 951-601-9659, http://www.chuahuongsen.com )
■ Tác phẩm đã xuất bản: Ban Mai Xứ Ấn (3 tập) và 14 tác phẩm khác.
Discussion about this post