PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Tôn Giả A Nan Đà

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

TÔN-GIẢ A-NAN-ĐÀ


Toàn Không

 

 Tôn-giả
A-nan-Đà, là dòng dõi hoàng tộc, con người chú ruột của Thái-tử Sĩ-Đạt-Ta, tức
là em họ của đức Phật. Tôn-giả A-nan-Đà là bậc kỳ tài hiếm có trên thế-gian
này, vì Ngài có một bộ óc siêu phàm tuyệt vời. Ngài nhớ được tất cả những lời
đức Phật giảng dạy hàng ngày mà Ngài đã được nghe trong suốt thời gian hai mươi
lăm năm làm Thị-giả cho đức Phật.

 Đức Phật
xếp Tôn-giả A-Nan-Đà vào hàng các đại đệ-tử vì các điểm đặc biệt, đó là: “Sức học uyên thâm, trí nhớ vô cùng đúng,
kiên trì chuyên chú cần mẫn, và khéo biết ý Phật”.
Những bộ Kinh ngày nay
chúng ta được đọc là do sự đóng góp của Ngài và năm trăm vị Thánh Tăng thời ấy
đọc lại thành Kinh sau khi đức Phật nhập Niết-bàn chừng ba bốn tháng.

1)- A-Nan-Đà làm Thị-giả của
Phật.

 Khi đức
Phật
trú tại thành Vương-Xá, lúc đó có rất nhiều đệ-tử Tỳ-kheo từ Trưởng-Lão
trở xuống cũng trú tại thành Vương-Xá, tất cả đều ở vây quanh Phật trong
Kỳ-viên Tịnh-xá, bấy giờ Ngài bảo các Tỳ-kheo:

– Các thầy nên biết, hiện nay Ta đã già rồi (Lúc này
Phật đã 55 tuổi), thân thể càng ngày càng suy yếu, nên Ta cần có người chăm
sóc. Các thầy hãy cử cho Ta một thầy Thị-giả, làm sao để chăm sóc Ta xứng ý,
chứ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời Ta nói mà không quên mất ý nghĩa.

 Lúc ấy Tôn-giả Câu-lân-Nhã liền đứng dậy,
chắp tay hướng về đức Phật thưa rằng :

– Thưa đức Thế-Tôn, con xin được làm Thị-giả, con xin
nguyện hầu hạ Thế-Tôn xứng ý, chứ không phải không xứng ý, con ghi nhớ những
lời Ngài nói mà không quên mất ý nghĩa.

 Đức Thế-Tôn
bảo:

– Này Câu-lân-Nhã, chính thầy tuổi đã già, thân thể càng
ngày càng suy yếu; chính thầy cũng cần có Thị-giả, Thầy nên ngồi xuống đi.

 Cũng như
vậy, hai mươi mốt vị Tôn-giả, hoặc Tôn-giả Trưởng-Lão lần lượt đứng dậy, chắp
tay
hướng về đức Phật xin được làm Thị-giả; các vị Tôn-giả đều nguyện hầu hạ
xứng ý Phật, và ghi nhớ những lời Ngài giảng dạy mà không quên ý nghĩa, nhưng
tất cả đều bị Phật từ chối. 

 Khi ấy,
Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên suy nghĩ: “Đức Thế-Tôn
muốn vị nào làm thị-giả, ý Ngài đặt vào vị Tỳ-kheo nào? Ngài muốn ai chăm sóc
cho xứng ý, và ghi nhớ lời Ngài dạy mà không quên mất ý nghĩa? Có lẽ ta nên
nhập Như-kỳ tưởng-định để quán sát tâm niệm của toàn thể đại-chúng”.
Nghĩ
rồi, Tôn-giả liền thực hành ngay và biết Thế-Tôn muốn chọn Tôn-giả A-Nan-Đà, vì
ý Ngài đặt vào A-Nan-Đà; biết vậy xong, Tôn-giả xuất định, và thưa với
đại-chúng:

– Chư Tôn-Hiền biết không? Đức Thế-Tôn muốn chọn:
Tỳ-kheo A-Nan-Đà làm Thị-giả, bây giờ chúng ta nên cùng nhau đến chỗ Tôn-giả
A-Nan-Đà khuyến dụ thầy ấy chịu làm Thị-giả.

 Bấy giờ
Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên và các thầy Tỳ-kheo cùng nhau đến chỗ Tôn-giả
A-Nan-Đà, chào hỏi nhau xong, Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên bảo:

– Này Hiền-giả A-Nan, thầy biết không? Đức Thế-Tôn muốn:
đại-chúng Tỳ-kheo cử một thầy làm Thị-giả cho Ngài, đã có hai mươi mốt Tỳ-kheo từ bậc Trưởng-lão trở xuống tình
nguyện
xin được làm Thị-giả, nhưng đều bị đức Thế-Tôn từ chối, không chấp
thuận. Tôi đã nhập định để quán sát, được biết đức Thế-Tôn muốn chọn Thầy làm
Thị-giả, vì ý Ngài đặt vào Thầy. Ngài muốn: Thầy chăm sóc, vì Thầy xứng ý Ngài
chứ không phải không xứng ý; Thầy ghi nhớ lời dạy của Ngài mà không quên mất ý
nghĩa
.

 Tôn-giả
A-Nan-Đà nói:

– Thưa Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên và các vị Tôn-giả, tôi
không thể lãnh trách nhiệm hầu hạ đức Thế-Tôn nổi, vì với đức Thế-Tôn khó xứng
ý, khó hầu hạ, nghĩa là khó làm Thị-giả. Cũng như con voi rất hùng mạnh, kiêu
dũng, sức mạnh cường thịnh, đủ ngà, đủ vóc, khó gần gũi, khó làm xứng ý, nghĩa
là khó mà coi sóc. Thưa Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên, với đức Như-Lai cũng lại như
thế, khó gần gũi, khó xứng ý, khó làm Thị-giả, vì vậy, tôi không thể làm
Thị-giả được.

 Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên nói:

– Này Hiền-giả A-Nan: Thầy hãy nghe tôi nói, người trí
nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa của nó. Cũng như hoa Ưu-đàm-bát-La đúng thời mới
xuất hiện ở thế-gian chứ không phải lúc nào cũng xuất hiện, dù trăm nghìn vạn
ức năm cũng chưa chắc xuất hiện. Này Hiền-giả: đức Như-Lai, Vô-Sở-Trước,
Chính-Đẳng Chính-Giác cũng lại như vậy, đúng thời mới xuất hiện ở thế-gian; Thầy
nên mau nhận làm Thị-giả của đức Như-Lai, Thầy sẽ được kết quả rất lớn, và rất
tốt đẹp.

– Thưa Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên, nếu đức Thế-Tôn thuận
cho tôi tám điều nguyện ước thì tôi mới có thể làm Thị-giả, đó là:

1) Tôi nguyện không mặc áo Cà-Sa của đức Thế-Tôn dù cũ
hay mới.

2) Tôi nguyện không ăn thực phẩm do Thiện-tín dâng đến
đức Phật.

3) Tôi nguyện không gặp đức Thế-Tôn không đúng lúc.

4) Tôi nguyện không ở chung cùng một phòng-thất với đức
Thế-Tôn.

5) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ chấp thuận cùng tôi đi đến nơi
nào có thí-chủ thỉnh tôi đến.

6) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ cho phép tôi được tiến dẫn những
vị khách đến xin yết kiến Ngài.

7) Đức Thế-Tôn cho phép tôi đến thưa hỏi mỗi khi có điều
hoài nghi phát sinh.

8) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ lập lại bài Pháp mà Ngài đã giảng
trong lúc không có mặt tôi.

 Thưa
Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên, nếu đức Thế-Tôn chấp thuận cho tôi tám điều, gồm bốn
điều nguyện và bốn điều ước vừa kể, thì tôi mới có thể làm Thị-giả được.

 Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên sau khi khuyên Tôn-giả A-Nan-Đà nhận làm Thị-giả, Tôn-giả cùng
các vị Tôn-giả Tỳ-kheo từ giã Tôn-giả A-Nan-Đà và trở về chỗ Phật. Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên trình lên đức Phật về sự ưng chịu của Tôn-giả A-Nan-Đà nhận làm
Thị-giả với tám điều thỉnh nguyện kể trên và xin đức Thế-Tôn chấp thuận.

 Sau khi nghe
Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên đọc tám điều thỉnh nguyện của Tôn-giả A-Nan-Đà, đức
Phật
bảo:

– Này Đại Mục-kiền-Liên, Tỳ-kheo A-Nan-Đà thông minh,
mẫn tiệp, dự đoán sẽ có những lời tị hiềm, như có người nói: “Tỳ-kheo A-Nan-Đà vì áo mặc nên hầu hạ đức
Thế-Tôn”
. Hoặc nói: “Tỳ-kheo
A-Nan-Đà vì miếng ăn nên hầu hạ đức Thế-Tôn”.
Những dự đoán đó là pháp-vị
qúy hóa của Tỳ-kheo A-Nan-Đà, Tỳ-kheo A-Nan-Đà khéo biết thời, biết lúc nào nên
đến gặp Như-Lai, lúc nào không nên đến gặp Như-Lai; Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết lúc
nào chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo Ni nên đến gặp Như-Lai, đối với chúng Ưu-bà
Tắc và Ưu-bà Di cũng như thế; Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết lúc nào các Sa-môn,
Bà-la-Môn, Phạm-chí, Dị-học nên đến gặp hoặc bàn luận hay không nên đến gặp
hoặc bàn luận với Như-Lai. Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết thức ăn loại nào Như-Lai dùng
rồi sẽ được biện tài thuyết pháp, thức ăn loại nào sau khi dùng rồi sẽ không
được biện tài thuyết pháp, đó là những pháp vị đáng khen ngợi của Tỳ-kheo
A-Nan-Đà.

 Do những
lời chấp thuận và khen ngợi của đức Phật, nên ngay ngày hôm sau Tôn-giả
A-Nan-Đà bắt đầu làm Thị-giả Phật. Tôn-giả A-Nan-Đà làm Thị-giả Phật cho đến
khi đức Phật nhập Niết-Bàn. Trải qua hai mươi lăm năm làm Thị-giả, Tôn-giả A-Nan-Đà
theo đức Phật đi du-hóa khắp mọi nơi trên đất Ấn-Độ. Tôn-giả rất chuyên cần
chăm sóc đến mọi nhu yếu của đức Phật với một lòng kính ngưỡng và tôn quý.

2)- A-Nan-Đà bị nạn Ma-Đăng-Già.

 Một hôm Vua
Ba-Tư-Nặc nước Xá-Vệ, nhân ngày giỗ của phụ-Vương làm lễ trai Tăng. Vua cho sắm
sửa các món ăn qúy báu và đích thân Vua đến thỉnh Phật cùng các vị Bồ-Tát vào
cung thụ trai; ngoài ra, Văn-Thù Bồ-Tát được chỉ định phân chia đại chúng
Tỳ-kheo đi dự cúng dàng tại một số nhà Trưởng-giả trong thành. Riêng Tôn-giả
A-Nan-Đà đã được một vị ở xa mời riêng trước nên chưa về kịp để đi thụ trai
cùng Tăng chúng, lúc ấy đang trên đường trở về một mình, Tôn-giả không biết
việc các Bồ-Tát và chúng Tăng đều được Vua và các trai chủ mời vào thành thọ
trai. Tôn-giả ôm bình bát đi khất thực theo thứ lớp từng nhà đúng theo phép
khất thực. Khi lần lượt đi đến một nhà kia, Tôn-giả (vì trẻ, lại đẹp trai) bị
một người đàn bà dùng bùa yêu tà chú mê hoặc cám dỗ; đang khi người đàn bà ấy
còn đang cám dỗ, ve vuốt, và sắp tới giai đoạn hoại giới thể A-Nan-Đà.

 Lúc ấy Phật
đã biết trước việc này, thụ trai xong, Ngài liền cùng các Bồ-Tát về ngay, có
Vua, các quan Đại-Thần, Trưởng-giả, Cư-Sĩ đi theo để xin nghe pháp. Vừa về an tọa xong tại đại giảng đường, trên đầu
Phật phóng ra hào quang Bách-Bảo Vô-úy, trong hào quang nở ra Bảo-Liên-Hoa
nghìn cánh, trên Bảo-Liên-Hoa có Hóa-Phật ngồi kiết già thuyết thần-chú. Ngài
liền sai Văn-Thù Bồ-Tát đem chú đi cứu hộ A-Nan-Đà, khi Bồ-Tát Văn-Thù đem chú
đến, tà chú của dâm nữ liền bị tiêu diệt ngay, nên Tôn-giả A-Nan-Đà liền hết mê
hồi tỉnh; Bồ-Tát Văn-Thù liền dẫn cả hai người về nơi Phật ngự.

 Tôn-giả
A-Nan-Đà vừa về tới nơi liền đảnh lễ Phật, nức nở rơi lệ, nói lời hối hận việc
xẩy ra vì do thiếu đạo lực, nên không chống trả nổi tà chú. Để có thể tu hành
đủ đạo lực, Tôn-giả A-Nan-Đà khẩn khoản thỉnh cầu Phật giảng ba thứ thiền quán
mà mười phương Chư Phật đã tu được thành chính giác; vì nhân duyên này, Phật
thuyết
cho A-Nan-Đà, Vua Ba-Tư-Nặc, Đại-chúng, Bồ-Tát nghe Kinh
Lăng-nghiêm. (Trích Kinh Lăng-Nghiêm,
Hòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch năm 1993, trang 8 và 9).

3)- Tôn-giả A-Nan-Đà đại ngộ.

 Mặc dù là một
đệ-tử thông suốt giáo lý, Tôn-giả A-Nan-Đà chỉ là bậc hữu học cho đến ngày đức
Phật
nhập diệt, Tôn-giả vẫn chưa đắc qủa Thánh; sau khi đức Thế-Tôn nhập đại
Niết-Bàn, Tôn-giả Đại Ca-Diếp là vị Tổ thứ nhất kế truyền Chính Pháp Nhãn-Tạng
do đức Phật phó chúc.

 Ngày bắt
đầu kết tập, chỉ có năm trăm vị A-La-Hán (Thánh Tăng) mới đủ tư cách kết tập; do
đó Tôn-giả Đại Ca-Diếp cùng các vị Thánh Tăng vào động, còn các vị Tỳ-kheo chưa
chứng quả Thánh, các Vua, Quan, Cư-sĩ, Nhân dân, đều phải ở ngoài.

 Tôn-giả
A-Nan-Đà đã là Thị-giả của Phật, biết nhiều, nhớ giỏi, nhưng vẫn chưa chứng qủa
Thánh nên cũng phải ở ngoài; một trở ngại lớn lao trong việc kết tập là mỗi vị
Thánh Tăng chỉ được nghe một phần khi Phật giảng, chứ không vị nào được nghe
nhiều như Tôn-giả A-Nan-Đà, nên việc kết tập có thể thiếu sót.

 Do đó, khi
bắt đầu kết tập Kinh điển, Tôn-giả Đại Ca-Diếp nói với các vị Thánh-Tăng rằng:

– Tôn-giả A-nan-Đà đã là Thị-giả của Phật, ông có nhiều
cơ hội gần Phật, thường hằng ngày được nghe giảng dạy. Ông lại là người có trí
tuệ
rất sáng suốt, mặc dù ông chưa chứng quả Thánh, nhưng hễ ông nghe Chính
pháp
như mước rót vào đồ đựng, không chút nào dư lại, mà cũng không vương vãi
ra ngoài, nếu việc kết tập có ông tham dự sẽ tránh được nhiều điều thiếu sót.

 Đại hội
Thánh-Tăng nghe Tôn-giả Đại Ca-Diếp nói thế, đều im lặng làm thinh, tỏ dấu rằng
cũng hợp ý cả, nhưng không biết làm sao để ra ngoài nguyên tắc “Chỉ có Thánh Tăng mới đủ tư cách tham dự
kết tập Kinh điển của Phật”.

 Cũng vì sau
khi năm trăm vi Thánh Tăng vào động rồi, thì cửa động được khóa lại. Khi ấy
Tôn-giả A-Nan-Đà ở bên ngoài cảm thấy tủi hổ cho thân phận vì đã nương nhờ nơi
đức Phật mà được đại-chúng nể nang, cho dù có trí nhớ siêu phàm, mà chưa chứng
qủa Thánh, cũng không được tham dự kết tập, thật là tủi nhục vô cùng. Bởi vì
trong lúc Phật còn tại thế không chịu tinh tấn tu hành, nên mới có ngày nay tủi
nhục! Nghĩ vậy, Tôn-giả không dằn lòng được sự hối thúc tu hành bèn đến gõ cửa
động kêu cầu Tôn-giả Đại Ca-Diếp mà nói lớn lên rằng: 

– Trong khi đức Thế-Tôn phó chúc và truyền cái áo Cà-Sa
Kim-Lư cho Tôn-Huynh (Tôn-giả Sư huynh) đó, vậy đức Thế-Tôn còn truyền pháp gì
riêng cho Tôn-Huynh nữa hay không?

 Tôn-giả Đại
Ca-Diếp
nghe hỏi, liền cất tiếng nói lớn vọng ra:

– A-Nan!

 Tôn-giả
A-Nan-Đà đứng ngoài ứng khẩu thưa:

– Dạ.

 Tôn-giả Đại
Ca-Diếp
liền nói rằng:

– Cây trụ cờ phướn trước cửa đổ rồi!

 Tôn-giả
A-Nan-Đà không hiểu tại sao Tôn-giả Ca-Diếp nói thế với ý nghĩa gì, tại sao lại
nói cây trụ cờ phướn đổ rồi? (trong khi cây trụ cờ phướn không đổ) Tôn-giả A-Nan vô cùng thắc mắc, bèn hỏi lại:

– Cây trụ cờ phướn đâu có đổ, Tôn Huynh nói như vậy có ý
nghĩa
gì?

 Bên trong im
lặng
, không thấy Tôn-giả Đại Ca-Diếp trả lời, Tôn-giả A-Nan-Đà thắc mắc không
hiểu: tại sao Tôn Huynh nói cây trụ cờ phướn đổ? Rồi Tôn-giả A-Nan-Đà thắc mắc
ngày thắc mắc đêm, ăn không được, ngủ không được, và thắc mắc mãi về lời nói ấy
(đây là đại nghi tình, đại thắc mắc của Thiền tông mà Tôn-giả A-Nan không biết
là mình đang tham thiền, tìm đọc cuốn “Pháp Môn Đốn Ngộ” của cùng tác giả). Sau
bẩy ngày vẫn còn thắc mắc mê man như thế, trong khi Tôn-giả đang nghiêng mình
nằm xuống về phiá bên tay phải, thì đột nhiên tỏ ngộ (Kiến tánh), và tâm tánh
sáng suốt vô cùng. Liền khi ấy, như trút được gánh nặng nghìn cân, vui mừng,
Tôn-giả vội vàng đến gõ cửa động xin mở cửa để vào báo tin mừng. Tôn-giả Đại Ca-Diếp
biết được nói vọng ra:

– Nếu đã ngộ rồi thì tự vào, sao còn nhờ mở cửa?

 Tôn-giả
A-Nan-Đà liền biến mình nhỏ lại chui qua khe cửa mà vào, rồi đảnh lễ Thánh
chúng
; đại hội Thánh chúng vui mừng đón tiếp Tôn-giả A-Nan-Đà đã đại ngộ, và
liền cử Tôn-giả lên tòa cao ngồi trùng tuyên Kinh Giáo của Phật!

4)- Tôn-giả A-Nan-Đà làm Tổ thứ
hai.

 Sau khi kết
tập
xong bộ Tăng Nhất và toàn bộ Đại-Tạng Kinh xong, toàn thể Thánh chúng vui
mừng
nhẹ nhõm vô cùng, Tôn-giả Đại-Ca-Diếp liền truyền giao chính pháp cho
Tôn-giả A-Nan làm Tổ thứ hai.

 Bấy giờ vô
số
Bồ-Tát đến dự, có các Thiên Vương và Thiên chúng các cõi Phạm Thiên, Hóa Tự
Tại
, Tha Hóa Tự Tại, Đâu Suất, Diệm Ma, Đạo-Lợi, Tứ Thiên Vương đến dự.

 Cũng có các
Vương và chúng của tám bộ là:

1- Đề-Bà (Deva: Thiện, hưởng phúc vi
diệu
).

2- Càn-Thát-Bà (Grandhava: Thần hầu Đế-Thích
để ca và tấu nhạc).

3- Dạ-Xoa (Yaksa: Yểm-Quỷ giữ các cửa
thành cõi Đạo-Lợi).

4- Na-Dà (Naga: Rồng giữ địa luân và các
cung điện cõi Trời, làm mưa v.v..).

5- A-Tu-La (A Sura: Phi Thiên, Thần).

6- Ca-Lâu-La (Garuda: Chim Súy-Điểu, Chim
Cánh-Vàng, hai cánh soè ra đến 360,000 dặm (theo quyển Nhị-Khóa Hiệp-Giải trang
278). Có 4 loại chim bằng noãn, thai, hóa, thấp sinh, bắt 4 loại Rồng noãn,
thai, hóa, thấp sinh để ăn).

7- Khẩn Na-La (Kini Nara: Nghi Nhân, Nhân Phi
Nhân
, giống người mà có sừng, cũng là Thần đánh nhạc cho Đế-Thích).

8- Ma-Hầu La-Già (Mahoraga: Đại Phúc-Hành, đầu
Rắn mình người, Thần Rắn, Địa Long Thần, Đại Mãng Thần) đến dự. (Ghi chú: Bát
bộ
kể trên, nhục nhãn loài người không thể trông thấy được.

 Hai bộ
Thiên và Long, thần nghiệm khá nhất, nên gọi là Thiên Long Bát Bộ. Thiên Long
Bát Bộ
thường hầu Phật mỗi khi Phật thuyết pháp).

 Lúc ấy
Bồ-Tát Di-Lạc bảo chúng hội:

– Các Đại-Sĩ, hãy khuyên các thiện nam tín nữ đọc tụng,
thọ trì Tăng Nhất Tôn Pháp, giảng nói rộng rãi khiến Trời Người vâng làm.

 Khi Ngài nói
những lời trên xong, tất cả hội chúng đều nói: “Chúng tôi ủng hộ triệt để, quyết không dừng nghỉ nửa chừng”.

 Tôn-giả A-Nan cũng nói:

– Nay tôi đem Tăng Nhất A-Hàm này giao cho Hiền giả Ưu
Đa-La, hãy khéo tụng đọc, chớ để thiếu sót, vì bộ Kinh này nêu lên lời dạy 37
đạo Phẩm.

 Tôn-giả Đại
Ca-Diếp
nghe nói thế liền hỏi:

– Hiền giả A-Nan, Tăng Nhất A-Hàm lại có thể xuất sinh
37 đạo phẩm và các pháp đều do đây sinh sao?

 Tôn giả
A-Nan đáp:

– Đúng thế, thưa Tôn Huynh Đại Ca-Diếp, không những thế
mà chỉ một bài kệ trong đây cũng xuất sinh 37 đạo phẩm; ngoài ra nghĩa của bốn
bộ A-Hàm cũng chỉ trong một bài kệ cũng đầy đủ hết lời chư Phật. Bài kệ là: 

Các điều ác chớ làm,
Các điều lành vâng làm,
Tự trong sạch ý mình,
Là lời chư Phật dạy.

 Vì sao thế?
Các điều ác cấm làm là đầy đủ cấm giới, các điều lành vâng làm là đầy đủ hạnh
thanh bạch; tâm ý trong sạch là tự sạch ý mình, trừ tà chấp điên đảo, lời chư
Phật dạy là bỏ các ngu dốt. Thưa Tôn-huynh, người giữ giới thanh tịnh thì tâm ý
của họ lại bất tịnh sao? Người mà ý thanh tịnh thì không điên đảo, vì không
điên đảo nên ngu dốt diệt, ba mươi bảy đạo phẩm liền được thành tựu; đã thành
đạo
qủa há chẳng phải là các pháp ư?

 Tôn-giả Đại
Ca-Diếp
lại hỏi:

– A-Nan, tại sao lại đem Tăng Nhất A-Hàm giao phó
Ưu-Đà-La mà chẳng giao cho Tỳ-kheo khác?

– Thưa Tôn-Huynh, 91 kiếp xưa, có đức Tỳ-Bà-Thi Như-Lai,
Ngài đã giao phó Tăng Nhất cho Tỳ-kheo Ưu-Đa-La, lúc đó có tên là Câu Ưu-Đa đọc
tụng
. Rồi 31 kiếp xưa có Thi-Khí Như-Lai, cũng trao Tăng Nhất cho Ưu-Đa-La lúc
ấy
có tên là Mục-Gia Ưu-Đa-La tụng đọc. Cũng ở kiếp 31 ấy, lúc có Tỳ-Xá-Phù
Như-Lai, cũng lại trao Tăng Nhất cho Ưu-Đa-La lúc này có tên là Long Ưu-Đa-La
đọc tụng. Tôn-giả nên biết, trong Hiền kiếp này, 3 vị Như-Lai ra đời trước kia
cũng đều đem Tăng Nhất trao cho Ưu-Đa-La đọc tụng như thế cả. Ngày nay có
Thích-Ca Như-Lai, tuy đã nhập Niết-Bàn, nhưng Ngài đã đem hết giáo pháp trao
cho Tôn-giả, rồi Tôn-giả lại trao hết cho tôi, nay tôi lại trao hết lại cho
Ưu-Đa-La.

 Còn nữa,
Tôn-giả nên biết, một hôm Thế-Tôn đi kinh hành trong vườn Cam-lê, lúc đó tôi
thấy Thế-Tôn mỉm cười, tôi liền vái mà hỏi: “Như-Lai
không cười vô cớ, xin Ngài giải thích cho sự mỉm cười vừa rồi”
. Phật bảo
tôi rằng:

 “Ở đời qúa
khứ trong Hiền kiếp này, có một vị vua tên Ma-Ha Đề-Bà, dùng chính pháp cai
trị, vua có đủ bảy báu là Xe báu, Voi báu, Ngựa báu, Châu báu, Ngọc-nữ báu,
Cư-sĩ báu, và Chủ-binh báu, Vua lấy đức trị dân trong thời gian lâu dài. Khi
ấy, vua bảo người thợ hớt tóc rằng: “Nếu
trên đầu ta có tóc bạc hãy cho ta hay”
. Người hớt tóc nghe lệnh vua, qua
một số năm, thấy đầu vua có tóc bạc, liền tâu vua: “Thưa Đại Vương, đầu Ngài đã có tóc bạc mọc rồi”. Vua bảo người ấy
nhổ sợi tóc bạc ấy để lên tay vua. Khi vua trông thấy tóc bạc liền tự nói: “Trên đầu ta có tóc bạc là báo hiệu già sắp
chết, nên ta phải xuất gia tu đạo”. 
Bấy
giờ vua bảo Thái-tử lớn nhất là Trường-Thọ: “Con
biết chăng, tóc ta đã bạc, ý ta muốn xuất gia học đạo để lià các khổ, con hãy
nối ngôi ta, lấy chánh pháp giáo hóa cai trị, chớ sai lời ta dạy, vì nếu sai
lời
ta dạy thì sẽ ở trong khổ sở sau này”.

 Sau khi
truyền ngôi, vua đến nơi thanh tịnh, cạo bỏ râu tóc, khéo tu phạm hạnh, hành 4
đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, đến khi mạng chung sinh lên cõi Trời Phạm Thiên.

 Vua
Trường-Thọ nhớ lời cha dạy, dùng chính pháp cai trị, cũng làm Chuyển-luân
Thánh-Vương. Rồi cũng dùng đường lối của vua cha, khi có tóc bạc liền dặn bảo
và truyền ngôi cho con trưởng là Thiện-Quán, và cũng tu hành y như vua cha, kết
cục khi mạng hết cũng sinh lên cõi Phạm-Thiên.

 Vua
Thiện-Quán cũng làm theo lời dạy của cha ông, dùng chính pháp cai trị, làm
Chuyển Luân Thánh-Vương, cũng có bảy báu v.v…

 Tôn-huynh
nên biết, Vua Ma-ha Đề-Bà khi đó đâu phải người nào xa lạ, vua bấy giờ nay là
Phật Thích-Ca. Vua Trường-Thọ nay là thân A-Nan đây, còn vua Thiện-Quán lúc đó
nay là Tỳ-kheo Ưu-Đa-La, đã từng nhận Vương pháp chưa từng bỏ mất, cũng chẳng
dứt. Vua Thiện-Quán đã làm hưng phục lệnh vua cha, dùng chánh pháp cai trị,
chẳng dứt lời vua cha dạy, vì lời dạy của phụ vương khó làm trái được; tôi quán
nghĩa này nên đem Tăng-Nhất trao cho Tỳ-kheo Ưu-Đa-La. 

 Sau khi
Tôn-giả Đại Ca-Diếp đến núi Kê-Túc nhập diệt định để chờ đức Phật Di-Lặc ra đời
thấy thân áo bát, Tôn-giả A-Nan-Đà đi truyền Chính-Pháp khắp nơi, và hóa độ
chúng-sanh rất nhiều.

 Một lần,
Tôn-giả A-Nan-Đà đến tịnh-xá Trúc-Lâm thì nghe một vị Tăng tụng bài kệ
rằng: 

Nếu người sống trăm tuổi,
Không thấy thủy lão hạc.
Chẳng bằng sống một ngày,
Được trông thấy tận mắt.

 Tôn-giả bèn
kêu vị Tăng ấy mà bảo rằng :

– Bài kệ của thầy đọc đó không nhằm nghĩa của Phật nói.
Thầy nên đọc lại như thế này mới đúng: 

Nếu ngưòi sống trăm tuổi,
Không biết pháp sinh diệt.
Chẳng bằng sống một ngày,
Mà biết pháp sinh diệt.

 Khi Tôn-giả
đi rồi, Chủ trì nghe vị Tăng thưa lại, bèn nói rằng:

– Ông A-Nan-Đà già cả lẫn lộn, nên bày không trúng, đừng
tụng theo mà sai lầm.

 Ngày khác
Tôn-giả trở lại, cũng nghe vị Tăng ấy tụng sai lầm y như bữa trước, Ngài hỏi
lại mới biết rằng thầy Chủ trì cản trở, Tôn-giả tự nghĩ: “Cái bệnh ngu si của người ta thật khó hóa độ”. Ngài liền nhập định
mà cầu bậc Tôn Thánh làm chứng, bỗng đâu đất liền chấn động, ánh sáng chói lòa
phát chiếu, rồi có một vị Đại-sĩ xuất hiện ngay bên vị Tăng và nói:

– Bài kệ ngươi tụng không phải ý của Chư Phật, nay gặp
Tôn-giả A-Nan-Đà chỉ bảo thì ngươi phải tuân theo mới được.

 Vị Đại-sĩ
nói xong liền biến mất, vị Tăng thấy vậy thất kinh, liền phát tâm cung kính mà
tụng bài kệ theo lời dạy của Tôn-giả; về sau vị Tăng ấy chứng qủa thứ hai.

5)- Tôn-giả
A-Nan-Đà nhập diệt.

 Về sau, một
hôm, Tôn-giả A-Nan-Đà nhớ lại lời thỉnh cầu của Vua A-xà-Thế rằng: “Khi nào Tôn-giả nhập Niết-Bàn thì cho Vua
hay trước”,
nên Tôn-giả đi đến gặp người Thủ môn canh giữ cổng thành
Hoàng-cung mà nói rằng:

– Ta là A-Nan-Đà sắp nhập Niết-Bàn, nên tới đây báo cho
Vua A-xà-Thế biết.

 Quan
Thủ-môn thưa rằng:

– Bây giờ Thánh-Thượng còn đang an giấc, nên chưa dám
thưa trình.

 Tôn-giả bảo
vị quan ấy:

– Thôi được, khi nào đức Vua thức dậy ông thưa trình
cũng được.

 Nói xong,
Tôn-giả từ biệt nước Ma-kiệt-Đà, rồi ngồi thuyền ra sông Hằng mà qua xứ
Phệ-xá-Ly; trong khi ấy, Vua A-xà-Thế ngủ trên Long-Sàng, và Ngài đang trong
giấc mộng chiêm bao. Vua mơ thấy một Bảo-Cái có treo bảy món báu vật, xem rất
trang nghiêm rực rỡ, Vua còn mơ thấy có vô số người đang ngưỡng mộ lễ bái
Bảo-Cái; thình lình một trận mưa gió bão đùng đùng nổi lên rất là dữ tợn, làm
cho các món trân-bảo, anh-lạc đều rơi rớt tứ tung cả; Vua thấy vậy thì trong
lòng kinh sợ, vì kinh sợ nên giật mình thức dậy, và lúc ấy mới biết là chiêm
bao
.

 Trong lúc
Vua còn đang ngồi suy nghĩ điềm mộng ấy hung kiết thế nào, thì bỗng có quan
Thủ-môn đến tâu trình sự việc Tôn-giả A-Nan-Đà đến cáo biệt, và đã đi đến xứ
Phệ-xá-Ly để nhập Niết-Bàn rồi. Vua nghe xong liền khóc rống lên một cách thảm
thiết
, và Vua lập tức truyền lệnh cho ngựa xe cấp tốc thân hành đi mà yêu cầu
Tôn-giả trở lại.

 Khi tới bờ
sông Hằng
, Vua trông thấy Tôn-giả A-Nan-Đà đang ngồi Kiết-già trong một chiếc
thuyền ở giữa dòng sông, Ngài đứng nơi mé bờ sông mà đảnh lễ Tôn-giả, và kêu
lớn lên rằng:

– Xin: Tôn-giả thương tình xứ Ma-kiệt-Đà mà trở lại, và
xin đừng vội nhập diệt.

 Còn về Vua
xứ Phệ-xá-Ly, vì một nhân duyên được nghe tin Tôn-giả A-Nan-Đà đến nước mình, nên
đem binh tới bờ sông Hằng mà chực rước, nhà Vua ở nơi bờ sông bên kia, ngó qua
mà lễ lạy Tôn-giả, và kêu lớn lên rằng:

– Thỉnh cầu Tôn-giả ghé qua bờ sông nước Phệ-xá-Ly chúng
tôi
, để tạm thọ lễ cúng dường xong Ngài hãy nhập Niết-Bàn.

 Khi thấy hai
Vua đều có lòng buồn rầu quyến luyến, Tôn-giả A-Nan-Đà an ủi:

– Niết-Bàn là một cảnh an-tịnh, cứu-cánh, xin hai vi
Đại-Vương đừng lấy sự sống chết thường tình mà sầu thảm. Chốc lát nữa đây, tôi
sẽ độ cho năm trăm vị Tiên, và truyền trao Chính-Pháp, sau đó tôi sẽ nhập diệt
tại giữa dòng sông này, để lấy lòng bình đẳng mà hóa độ.

 Tôn-giả vừa
nói dứt, thì năm trăm vị Tiên ở núi Tuyết-sơn (Hy-Mã-Lạp-Sơn) dùng thần-thông
mà đi trên không đến đảnh lễ Tôn-giả và thưa:

– Chúng tôi tu Tiên ở núi Tuyết-sơn đến đây, nguyện nhờ
Tôn-giả A-Nan-Đà mà chứng Phật qủa, xin Ngài từ-bi độ thoát cho chúng tôi.

 Tôn-giả
A-Nan-Đà nói:

– Ta đang đợi các ông đây.

 Nói xong,
Tôn-giả thị hiện thần-thông làm mặt nước sông Hằng biến hóa ra một giải đất liền,
mặt toàn là vàng ròng rực rỡ; Ngài bảo các vị Tiên hạ xuống mà ngồi, rồi Ngài
thuyết pháp Đại-thừa cho Tiên chúng nghe, thuyết pháp xong, Tôn-giả nói:

– Các đệ-tử trước kia của ta chắc cũng sắp đến đây.

 Tôn-giả vừa
nói xong, thì năm trăm vị A-La-Hán dùng thần-thông đi trên không đến đảnh lễ;
Ngài liền yêu cầu các vị A-La-Hán độ cho các vị Tiên xuất gia, và thọ Cụ-túc
giới; xong việc truyền Giới, Tôn-giả chọn một vị Tiên là Thương-Na Hòa-Tư đã
đắc A-LA-Hán mà bảo rằng :

– Xưa đức Thế-Tôn đem Chính-Pháp Nhãn-Tạng mà phú chúc
cho Tôn-giả Đại Ca-Diếp Sư huynh ta, rồi sau truyền lại cho ta. Nay ta phó chúc
cho ông, vậy ông phải hết lòng trân trọng lãnh ( lĩnh ) thọ mà hộ trì, hầu ngày
sau siển dương Phật-Pháp mà hóa độ cho chúng sanh; hãy nghe ta nói kệ mà ấn
tâm
: 

Lâu nay phú có pháp,
Phú rồi nói không pháp,
Thảy đều tự mình ngộ,
Ngộ rồi không không pháp.

 Sau đó
Tôn-giả kêu vị Tiên tên Mạt-Điền Để-Ca cũng đã đắc A-La-Hán mà dặn rằng:

– Lời thụ ký trước của đức Thế-Tôn có nói: “Sau khi Như-Lai nhập-diệt năm trăm năm, thì
ông phải đến nước Kỳ-Tân mà truyền Đại-Pháp, để độ thoát cho loài hữu tình”.

 Xong việc
truyền Pháp và dặn dò, Tôn-giả bảo một nghìn đệ-tử trở về, rồi Ngài thu hồi
thần-thông để mặt sông trở lại mặt nước như cũ.

 Vì cả hai
nước đều hết lòng kính phụng và mong muốn được giữ Xá-Lợi của Tôn-giả, nên
Ngài bảo các đệ tử sau khi Ngài nhập
diệt
rồi thì trà-tỳ, lấy Xá-lợi chia cho hai nước, cõi Trời Đạo-Lợi và Long
cung
; rồi Ngài ngồi kiết già trong thuyền ngay giữa dòng sông mà tịch. Khi ấy
chư Thiên và Long-Vương tới lễ bái trên không, và rải hoa cúng dường; Vua hai
nước và Thần-Dân hai bên bờ thấy thế thì tất cả đều qùy lễ và chảy nước mắt; các
đệ tử sắp đặt việc trà tỳ và phân xá lợi để xây dựng Bảo-Tháp cúng dường đời
đời
. Khi ấy tôn-giả A-nan-Đà đã 120 tuổi thọ..,.

 

Toàn
Không

Tin bài có liên quan

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

Ý Tưởng Của Phật Giáo Cho Tiến Trình Xây Dựng Hòa Bình Thế Giới Hiện Nay

Ý tưởng của Phật giáo cho tiến trình xây dựng hòa bình thế giới hiện nay

Ý Thức – Vô Thức

Ý Thức – Vô Thức

Ý Niệm Tung Hoành Trong Mê Lộ Của Tâm

Ý Niệm Niết Bàn Trong Đạo Phật

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-La Ở Gandhara

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-Hàm

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-hàm

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Load More

Discussion about this post

Sống Không Hận Thù

Sống không hận thù

I. Tâm Hận Thù Là Thuốc Độc Hại Mình Người sống mà ôm tâm hận thù thì đó là thuốc...

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 314)

Đây là cộng nghiệp sở cảm. Nếu như bạn thật sự giác ngộ rồi, từ nay về sau không phê...

Những Nguy Cơ Ô Nhiễm Độc Hại Được Cảnh Báo Trước

Những nguy cơ ô nhiễm độc hại được cảnh báo trước

Hiện tượng cá chết hàng loạt ở bờ biển miền Trung: NHỮNG NGUY CƠ Ô NHIỄM ĐỘC HẠI ĐƯỢC CẢNH...

Chia Xẻ Và Trao Tặng

Chia xẻ và trao tặng

CHIA XẺ VÀ TRAO TẶNGNguyễn Xuân Chiến   CHIA XẺ LÀ Sự SỐNG Ảnh minh họa Chuyện xảy ra trong...

Dầu Dừa: Ăn Hay Đừng?

Dầu Dừa: Ăn Hay Đừng?

DẦU DỪA: ĂN HAY ĐỪNG?PGS-TS-Dược sĩ NGUYỄN PHƯƠNG DUNG (Phó chủ nhiệm Khoa Y học cổ truyền - ĐH Y...

Nét Văn Hóa Phật Giáo Qua Hai Tác Phẩm: Thiền Tông Qua Bờ Kia, Và “Đạo Phật, Đất Nước, Cuộc Sống Và Tâm Linh

Nét Văn Hóa Phật Giáo Qua Hai Tác Phẩm: Thiền Tông Qua Bờ Kia, và “Đạo Phật, Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính thưa chư vị Thức giả, chư vị văn nghệ sĩ cùng...

Bịa Đặt, Thêu Dệt Và Hậu Quả Phải Gánh Chịu

Bịa đặt, thêu dệt và hậu quả phải gánh chịu

Thời Đức Phật còn tại thế, có một ông trưởng giả rất giàu có lại có được người vợ xinh...

Nấc Thang Cuộc Đời

Nấc thang cuộc đời

LỜI GIỚI THIỆU Nấc thang cuộc đời là một tác phẩm của hòa thượng Tinh Vân. Ngài là một bậc...

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 132)

Tại vì sao không thể nói rõ? Người trưởng thành đều có sĩ diện, cha mẹ lão sư đều phải...

Một Thời Kỷ Niệm

Một Thời Kỷ Niệm

MỘT THỜI KỶ NIỆM Người Long Hồ   ảnh minh họa làng quê Việt Nam Mỗi người chúng ta chắc...

Quan Điểm Của Phật Giáo Về Tính Dục, Hôn Nhân Và Đồng Tính Damien Keown-gia Quốc (Dịch)

QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ TÍNH DỤC, HÔN NHÂN VÀ ĐỒNG TÍNH Damien Keown-Gia Quốc (dịch) Giáo lý Phật...

Sách Phật Giáo “Bàn Tay Cũng Là Hoa” Của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Sách Phật giáo “Bàn tay cũng là hoa” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm "Bàn Tay Cũng Là Hoa" giới thiệu và bình giảng các bài thơ của những nhà thơ tên...

Ngũ uẩn

NGŨ UẨN GS Nguyễn Vĩnh Thượng   Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ...

Bước Chân Đại Sỹ

Bước Chân Đại Sỹ

BƯỚC CHÂN ĐẠI SỸ Huệ Trân               Thời gian là cái gì thật mầu nhiệm, không hình không tướng,...

Chương 1 bài 2 Mục 1 Phương Pháp Tu Trì

(Buổi 2)Niệm Phật vãng sinh điều kiện tối thiểu là công phu thành phiến, thành phiến là như thế nào?...

Sống không hận thù

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 314)

Những nguy cơ ô nhiễm độc hại được cảnh báo trước

Chia xẻ và trao tặng

Dầu Dừa: Ăn Hay Đừng?

Nét Văn Hóa Phật Giáo Qua Hai Tác Phẩm: Thiền Tông Qua Bờ Kia, và “Đạo Phật, Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh

Bịa đặt, thêu dệt và hậu quả phải gánh chịu

Nấc thang cuộc đời

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 132)

Một Thời Kỷ Niệm

Quan Điểm Của Phật Giáo Về Tính Dục, Hôn Nhân Và Đồng Tính Damien Keown-gia Quốc (Dịch)

Sách Phật giáo “Bàn tay cũng là hoa” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Ngũ uẩn

Bước Chân Đại Sỹ

Chương 1 bài 2 Mục 1 Phương Pháp Tu Trì

Tin mới nhận

Bồ Tát Quảng Đức Vị Pháp Thiêu Thân Đối Chiếu Qua Kinh Điển, Tâm Diệu

Phật dạy làm người quan trọng nhất là phải có lương thiện

Vị Phật quá khứ hay Nhiên Đăng Cổ Phật là ai?

Diễn tiến cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963

Nhân quả không cố định

LỄ KÍNH CHƯ PHẬT – TÔN KÍNH ĐỐI VỚI CHÚNG SANH KHÔNG ĐỒNG KHÔNG GIAN DUY THỨ (tập 2)

Kinh Kiến Chánh

Phật dạy: Bản ngã càng lớn, sĩ diện càng nhiều, càng dễ bị tổn thương

Đức Phật có tha lỗi cho tội lỗi của chúng ta không?

Lời con dâng Phật

Ý nghĩa cội rễ của Luật Nhân Quả

Đánh thức tiềm năng “sẽ thành Phật”

Clip Hòa Thượng Thích Quảng Đức Tự Thiêu Diễn Lại: Từ Điểm Nhìn Chuyên Môn – Minh Thạnh

Kính mừng ngày Đức Phật thành đạo

Làm sao để biết kinh nào do chính Đức Phật thuyết giảng?

Tôi không xấu hổ khi là một Phật tử

Nữ Đức Vi Yếu – Chương 6: Khúc Tòng

Nghe kinh thấy Phật đản sinh ở lòng

Phật trong chúng sanh, chúng sanh trong Phật

Sự việc đáng suy ngẫm: Bà nội đầu độc cháu

Tin mới nhận

Ăn chay là một pháp môn tu

Hương Xuân – Hạnh Đoan

Làm gì để thoát khỏi ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc?

Chú bé và cây táo thần tiên

Đưa ông táo về trời (TT. Thích Nhật Từ)

Nghiên cứu về cơ sở hình thành & quá trình phát triển của bản kinh Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng

Câu chuyện ngụ ngôn: Không ai sung sướng cả

Hướng Về Miến Tịnh Độ

Một Lịch Sử Lớn Dậy Từ Những Đổ Nát Của Các Tượng Phật ở A-phú-hãn

Gánh nặng của nghiệp

Tài Sản Không Thể Nghĩ Bàn & Không Bao Giờ Mất Của Người Con Phật Theo Quan Điểm Phật Giáo

Đức Phật có mặt ở đời bằng tuệ giác vô ngã vĩ đại

Nhân Minh Luận Nguồn Sáng Tạo Của Tri Giác Khoa Học

“Vũ Khúc Dâng Hoa” (Thơ)

Đặt gánh nặng xuống

Asoka: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp – Tuyển Tập Các Bài Viết Về Vua A Dục

Vào Cửa Không

Lợi Ích Của Sự Niệm Phật

Kiểm Soát Tâm Ham Muốn

Thế giới này và con người thật đáng sợ

Tin mới nhận

Kinh Kim Cang Giảng Giải – Đoạn 18 – Nhất Thể Đồng Quán

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 79)

Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa

Bí ẩn vùng đất vàng Đông Nam Á trong Kinh Phật

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 58)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 222)

Kinh Bách Dụ: Nói hay làm dở

Kinh Bách Dụ: Người nghèo muốn có tiền của bằng người giàu

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 (Tập 12)

Nakulapita Sutta – Kinh Về Tuổi Già Và Sự Sáng Suốt

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 125)

Kinh An Ban Thủ Ý Lược Giải

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 279)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 291)

Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên trang nghiêm tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL. 2566

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 85)

Tìm Hiểu Trung Bộ Kinh Tập 1.2.3

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 158)

Hướng Dẫn Đọc Kinh Trung Bộ

Kinh Akkosa: Sự Nhục Mạ

Tin mới nhận

Vấn Đề Tự Lực Và Tha Lực

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 16)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 340)

Làm Thế Nào Để Làm người Tốt Như Pháp (Tập 24)

Thực Tiễn Sáu Phép Ba La Mật Trong Cuộc Sống Thường Ngày

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 157)

Làm Thế Nào Để Làm người Tốt Như Pháp (Tập 29)

Chương 1 bài 4: Khuyên thành kính với nhân sinh (08/05/2022)

Tác hại của việc phóng túng tình dục đối với sức khỏe con người hiện nay

Hộ Niệm Là Một Pháp Tu

Tịnh Độ Chân Tông Và Ngài Thân Loan

A Di Đà Phật Hay A Mi Đà Phật?

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 258)

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 44)

Lược Thuật Hành Trạng Hòa Thượng Quảng Khâm

Obituary His Holiness Thích Tri Tinh Died At 97

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 104)

TÍN NGUYỆN CHUYÊN TRÌ DANH HIỆU PHẬT (Phần cuối)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 40)

Phát Bồ Đề Tâm – Nhất Hướng Chuyên Niệm (Phần 1)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.