PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Nghiên Cứu Về Vấn Đề Phủ Định Từ Trong Quá Trình Truyền Dịch: Từ Một Trường Hợp Trong Kinh Trung A Hàm

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

NGHIÊN CỨU VỀ VẤN ĐỀ PHỦ ĐỊNH TỪ
TRONG QUÁ TRÌNH TRUYỀN DỊCH:

TỪ MỘT TRƯỜNG HỢP TRONG KINH TRUNG A HÀM

Thích Nguyên Hùng

Hoa Sen VangNgười xưa nói ‘Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự phản đồng ma thuyết.’[1] Lời cảnh tỉnh này khiến cho những nhà phiên dịch, giảng giải kinh điển hết sức do dự khi hạ bút xuống một từ, một ngữ nào đó.

Thật vậy! Trong quá trình phiên dịch kinh từ chữ Hán sang tiếng Việt, chúng tôi gặp vô số trường hợp khó khăn tưởng chừng bế tắc khi khó có thể hiểu và dịch một cách thỏa đáng một câu kinh, thậm chí một chữ trong kinh, dù về mặt từ, ngữ và văn phạm rất đơn giản. Tâm cứ phân vân do dự, rằng dịch như thế có ‘oan cho ba đời chư Phật’ chăng? Rằng, dịch như thế có vô hình chung biến lời vàng ngọc của Thế Tôn thành lời của ma chăng? Nhưng, không dịch như thế làm sao hiểu được câu kinh này?

Xin được chia sẻ với chư vị thiện tri thức trong mười phương về một trường hợp sau đây trong kinh Trung A-hàm, số 164, kinh Phân biệt quán pháp.[2]

Bản kinh này được đức Thế Tôn nói vắn tắt về pháp quán cho các tỳ-kheo nghe rồi vào thất tĩnh tọa. Sau đó, các tỳ-kheo đem nội dung pháp thoại vắn tắt này thưa hỏi tôn giả Ca-chiên-diên và được tôn giả giải thích cặn kẽ.

Pháp thoại vắn tắt của đức Thế Tôn như sau:

“Tỳ-kheo, quán như vậy, như vậy. Ngươi quán như vậy rồi, Tỳ-kheo, tâm hướng về bên ngoài, bị phân rải, tán loạn, tâm không an trú vào bên trong, không chấp thủ nhưng sợ hãi. Nhưng, này các Tỳ-kheo, hãy quán như thế nào mà sau khi các ngươi đã quán như vậy, tâm không hướng về bên ngoài, không bị phân rải, tán loạn, tâm trú bên trong, không chấp thủ, không sợ hãi. Như vậy các ngươi không còn sanh, lão, bệnh, tử nữa. Đó là tận cùng sự khổ.”[3]

Nguyên tác bản chữ Hán như sau:

「比丘!如是如是觀,如汝觀已,比丘!心出外灑散,心不住內,不受而恐怖。比丘!如是如是觀,如汝觀已,比丘!心不出外不灑散,心住內,不受不恐怖,如是不復生、老、病、死,是說苦邊。」[4]

Mới đọc qua đoạn kinh trên chúng ta không thấy có gì khó hiểu: “Này tỳ-kheo, hãy quán như vậy, như vậy! Sau khi [các] thầy quán như vậy, này tỳ-kheo, tâm chạy ra bên ngoài, tán loạn, tâm không an trú bên trong, không chấp thủ nhưng sợ hãi. Này tỳ-kheo, hãy quán như vậy, như vậy! Sau khi [các] thầy quán như vậy, này tỳ-kheo, tâm không chạy ra bên ngoài, không tán loạn, tâm an trú bên trong, không chấp thủ, không sợ hãi, như vậy sẽ không còn sanh, già, bệnh, chết. Đó là tận cùng sự khổ.”

‘Không chấp thủ nhưng sợ hãi’ (不受[5]而恐怖), trường hợp này có thể xảy ra trong một trường hợp cá biệt nào đó! Vì vậy chúng ta không thấy có vấn đề cho đến khi đọc lời giải thích của tôn giả Ca-chiên-diên: “Này chư Hiền, thế nào là Tỳ-kheo không chấp thủ mà sợ hãi? Chư Hiền, Tỳ-kheo không ly sắc nhiễm, không ly sắc dục, không ly sắc ái, không ly sắc khát. Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo nào không ly sắc nhiễm, không ly sắc dục, không ly sắc ái, không ly sắc khát, thì vị ấy muốn được sắc, truy cầu, đắm trước sắc, trú vào sắc, nghĩ rằng ‘Sắc là ta. Sắc là sở hữu của ta.’ Khi đã muốn được sắc, truy cầu sắc, đắm trước sắc, trú vào sắc, nghĩ rằng ‘Sắc là ta. Sắc là sở hữu của ta’, thì thức nắm bắt sắc. Sau khi thức nắm bắt sắc, lúc ấy sắc biến dịch thì thức cũng bị chuyển theo sắc. Khi thức đã bị chuyển theo sắc thì Tỳ-kheo ấy sanh sợ hãi, tâm trú vào trong đó. Nhơn vì tâm không biết nên sanh khiếp sợ, lao nhọc, không chấp thủ mà sợ hãi.”[6]

Rõ ràng, lời giải thích của tôn giả Ca-chiên-diên cho chúng ta thấy đây là trường hợp ‘chấp thủ’ chứ không phải ‘không chấp thủ’!

Một tỳ-kheo mà không lìa sự đắm nhiễm sắc, không lìa sự tham muốn sắc, không lìa sự luyến ái sắc, không lìa sự khát khao sắc thì sẽ muốn được sắc, truy tìm sắc, đắm trước sắc, bám víu vào sắc và cho rằng sắc chính là ta, sắc là sở hữu của ta. Khi muốn được sắc, truy tìm sắc, đắm trước sắc, bám víu vào sắc và cho rằng sắc chính là ta, sắc là sở hữu của ta rồi thì thức dính mắc vào sắc. Thức dính mắc vào sắc rồi thì khi sắc ấy biến đổi thức cũng biến đổi theo. Khi thức biến đổi theo sắc thì vị ấy sinh khởi trạng thái lo sợ, tâm bám víu ở trong đó. Đây rõ ràng nói về một người do tâm u mê, không hiểu biết, không nhận thức đúng thực tướng của các pháp là vô thường, vô ngã nên mới sinh tâm chấp thủ, cho rằng sắc là ta, là của ta. Tất nhiên, do chấp thủ như thế nên mới phát sinh sợ hãi khi các pháp vô thường, biến đổi, chứ tại sao lại do ‘không chấp thủ mà sợ hãi’?

Khi dịch ‘không chấp thủ mà sợ hãi’ là đã dịch đúng theo nguyên bản Hán, không lìa một chữ: 不受而恐怖. Nó đúng mọi mặt, chữ nghĩa và văn phạm, nhưng rõ ràng là có mâu thuẫn với lời kinh vừa giải thích!

Để hiểu vấn đề này, chúng tôi tìm bản kinh tương đương trong Nikāya, tức là kinh số 138 thuộc Trung bộ, với tên gọi là Kinh Tổng thuyết và Biệt thuyết. Nguyên tác Pāli đoạn pháp thoại vắn tắt của đức Thế Tôn như sau:

“Tathā tathā, bhikkhave, bhikkhu upaparikkheyya yathā yathā upaparikkhato bahiddhā cassa viññāṇaṁ avikkhittaṁ avisaṭaṁ, ajjhattaṁ asaṇṭhitaṁ anupādāya na paritasseyya. Bahiddhā, bhikkhave, viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṁ asaṇṭhite anupādāya aparitassato āyatiṁ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na hotī”ti.”[7]

Trong đó, ‘anupādāya na paritasseyya’ Hán dịch là ‘不受而恐怖’ (không chấp thủ nhưng sợ hãi) và ‘anupādāya aparitassato’ Hán dịch là ‘不受不恐怖’ (không chấp thủ, không sợ hãi). Rõ ràng, ở đây Hán dịch đã bỏ mất một phủ định từ ‘na’ trong câu ‘anupādāya na paritasseyya.’ Về cấu trúc, ‘anupādāya na paritasseyya’ cũng chính là ‘anupādāya aparitassato,’ tức là đều ‘不受不恐怖.’ Còn ‘不受而恐怖’ được dịch từ ‘anupādā paritassanā.’ Lạ lùng thay, trong cả hai trường hợp, cố Hòa thượng Thích Minh Châu đều dịch là ‘không bị chấp thủ quấy rối’, nguyên văn như sau:

 “Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội (trần), không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già, chết, trong tương lai.”[8]

Sự phiên dịch của Hòa thượng đã phần nào giải tỏa nghi ngờ của chúng tôi! Rõ ràng, dịch như thế là đã ‘ly nhất tự’, nhưng hoàn toàn phù hợp với lời giải thích của tôn giả Ca-chiên-diên sau đó, tức là phù hợp ý kinh.

Chúng tôi không biết cố Hòa thượng Thích Minh Châu đã căn cứ hay tham khảo vào nguồn tài liệu nào (vì không thấy ngài chú thích) hay bằng trực giác, tuệ giác của mình mà Hòa thượng đã dịch như thế! Bởi, xét về văn bản, bản Hán đã trực dịch đúng nguyên tác của truyền bản Pāli, nhưng hầu như Hòa thượng đã bỏ qua nguyên tác cả Pāli và Hán tạng tương đương!

Tiếp tục tìm kiếm trong Đại tạng chữ Hán để làm rõ vấn đề, chúng tôi bắt gặp một bản kinh có nội dung khá tương đồng với đoạn pháp thoại nêu trên. Đó là kinh Chấp thủ và không chấp thủ, số 43 của Tạp A-hàm, như sau:

“Thế nào là do chấp thủ nên sinh đắm trước? Kẻ phàm phu ngu si không học, đối với sắc thấy là ta, khác ta, hoặc ở trong nhau; thấy sắc là ta, là của ta nên chấp thủ. Do chấp thủ nên khi sắc biến chuyển hoặc đổi khác thì tâm cũng biến chuyển theo. Khi tâm đã biến chuyển theo thì cũng sinh khởi sự chấp thủ, đắm trước, bám víu giữ tâm tồn tại. Do bám víu giữ tâm tồn tại, do đắm trước và chấp thủ nên sinh khởi sợ hãi, chướng ngại, tâm tán loạn.”[9]

Bản kinh này tương đương với kinh Tương ương bộ, như sau:

“Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, người ấy quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Đối với vị ấy, sắc ấy biến hoại và đổi khác. Đối với vị ấy, khi sắc ấy biến hoại và đổi khác, thức tùy chuyển theo sự biến hoại của sắc. Các pháp ưu não sanh khởi do thức tùy chuyển theo sự biến hoại của sắc sau khi xâm nhập tâm và an trú. Do tâm bị xâm chiếm nên khủng bố, chướng ngại, khát vọng được sanh khởi và ưu não.”[10]

‘Do tâm bị xâm chiếm nên khủng bố’, nói cách khác là do tâm chấp thủ nên sợ hãi.

Như vậy, tất cả các bản kinh Trung A-hàm 164, Trung bộ 138, Tạp A-hàm 43, và Tương ưng bộ 22.7 đều giải thích như nhau về sự chấp thủ năm uẩn, và đó là nguyên nhân sinh ra sợ hãi. Thế nhưng, không hiểu sao cả Hán và Pāli đều có câu “không chấp thủ nhưng sợ hãi.” Lẽ nào trong quá trình truyền bản có sự sai sót chăng? Vì sao cố Hòa thượng Thích Minh Châu đã mạnh dạn dịch thành “không bị chấp thủ quấy rối”?

Tỳ-kheo Anālayo, trong tác phẩm Madhyama-āgama Studies của mình đã chứng minh rằng có lỗi truyền dẫn liên quan đến một trong ba trường hợp: 1) mất phủ định trong ấn bản PTS, 2) bổ sung phủ định trong các ấn bản châu Á, 3) bổ sung một sự phủ định trong các ấn bản Pāli và trong Madhyama-āgama tương đương.[11]

Vậy, phải chăng trường hợp trong kinh Trung A-hàm 164 (tương đương Trung bộ 138) là minh chứng cho xu hướng phủ định bị mất hoặc được thêm vào trong quá trình truyền dẫn văn bản?

Chúng tôi không đủ thẩm quyền để trả lời câu hỏi nêu trên, nhưng với những gì vừa khảo cứu, quý huynh đệ của Trung tâm dịch thuật Trí Tịnh xin mạnh dạn đề xuất cách dịch mới cho đoạn pháp thoại vắn tắt, cũng như lời giải thích của tôn giả Ca-chiên-diên sau đó trong Trung A-hàm 164 như sau:

“Này tỳ-kheo, hãy quán như vậy, như vậy! Sau khi [các] thầy quán như vậy, này tỳ-kheo, tâm chạy ra bên ngoài, tán loạn, tâm không an trú bên trong, do chấp thủ nên sợ hãi. Này Tỳ-kheo, hãy quán như vậy như vậy. Sau khi [các] thầy quán như vậy, này tỳ-kheo, tâm không chạy ra bên ngoài, không tán loạn, tâm an trú bên trong, do không chấp thủ nên không sợ hãi, như vậy sẽ không còn sanh, già, bệnh, chết nữa. Đó gọi là sự diệt tận khổ.”

“Này chư hiền! Thế nào là Tỳ-kheo do chấp thủ nên sợ hãi? Chư hiền, Tỳ-kheo không lìa sự đắm nhiễm sắc, không lìa sự tham muốn sắc, không lìa sự luyến ái sắc, không lìa sự khát khao sắc. Chư hiền, nếu Tỳ-kheo không lìa sự đắm nhiễm sắc, không lìa sự tham muốn sắc, không lìa sự luyến ái sắc, không lìa sự khát khao sắc thì vị ấy muốn được sắc, truy tìm sắc, đắm trước sắc, trú vào sắc và cho rằng sắc chính là ta, sắc là sở hữu của ta. Khi muốn được sắc, truy tìm sắc, đắm trước sắc, trú vào sắc và cho rằng sắc chính là ta, sắc là sở hữu của ta thì thức bám víu sắc. Thức bám víu sắc rồi thì khi sắc ấy biến đổi thức cũng biến đổi theo. Khi thức biến đổi theo sắc rồi thì vị ấy sinh khởi trạng thái lo sợ và tâm trú vào đó. Bởi tâm không biết nên sinh sợ hãi, phiền nhọc, do chấp thủ nên sợ hãi.

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Tỳ-kheo không lìa sự đắm nhiễm thức, không lìa sự tham muốn thức, không lìa sự luyến ái thức, không lìa sự khát khao thức. Chư hiền, nếu Tỳ-kheo không lìa sự đắm nhiễm thức, không lìa sự tham muốn thức, không lìa sự luyến ái thức, không lìa sự khát khao thức thì vị ấy muốn được thức, truy tìm thức, đắm trước thức, trú vào thức và cho rằng thức chính là ta, thức là sở hữu của ta. Khi muốn được thức, truy tìm thức, đắm trước thức, trú vào thức và cho rằng thức chính là ta, thức là sở hữu của ta rồi thì thức bám víu thức. Khi thức bám víu thức rồi thì khi thức ấy biến đổi, thức cũng chuyển đổi theo. Khi thức chuyển theo thức rồi, vị ấy sinh khởi trạng thái lo lắng và tâm trú vào đó. Bởi tâm không biết nên sinh sợ hãi, phiền nhọc, do chấp thủ nên sợ hãi. Này chư hiền! Như vậy gọi là Tỳ-kheo do chấp thủ nên sợ hãi.”

Từ tất cả những điều được trình bày, kính mong chư vị thiện tri thức trong mười phương cùng quan tâm, chỉ giáo nhằm góp phần soi sáng thêm những ưu tư, trăn trở của chúng tôi trong quá trình truyền dịch kinh điển.



[1] ĐTK/ĐCTT, T.48, n0.2004, p. 0263b29: “依經解義。三世佛冤。離經一字。返同魔說.”

[2] Phân biệt quán pháp kinh 分別觀法經 (T. 01. 0026. 164. 0694b13). Tham chiếu: M. 138, Uddesavibhaṅga Sutta (Kinh Tổng thuyết và Biệt thuyết); S.22.7 – III.15.

[3] Bản dịch của Hòa thượng Tuệ Sỹ.

[4] ĐTK/ĐCTT, T.01, n0. 0026. p. 0694b19.

[5] Thọ (受), có gốc Pali là upādā (thủ), nhưng Hán cựu dịch là thọ (受) sau tân dịch là thủ (取).

[6] Bản dịch của Hòa thượng Tuệ Sỹ.

[7] Mahāsaṅgīti Tipiṭaka Buddhavasse 2500, Majjhima Nikāya 138, Uddesavibhaṅgasutta, vi bản https://suttacentral.net/mn138/pli/ms.

[8] Tam tạng thánh điển Phật giáo Việt Nam, Kinh Trung bộ số 138, Tổng thuyết và biệt thuyết, trang 1051, HT. Thích Minh Châu dịch.

[9] ĐTK/ĐCTT, T02, no. 99. p. 0010c22.

[10] Tam tạng thánh điển Phật giáo Việt Nam, Tương ưng bộ, kinh Chấp thủ và ưu não, trang 522, HT. Thích Minh Châu dịch.

[11] Anālayo, Madhyama-āgama Studies, trang 506.

Tin bài có liên quan

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

Ý Tưởng Của Phật Giáo Cho Tiến Trình Xây Dựng Hòa Bình Thế Giới Hiện Nay

Ý tưởng của Phật giáo cho tiến trình xây dựng hòa bình thế giới hiện nay

Ý Thức – Vô Thức

Ý Thức – Vô Thức

Ý Niệm Tung Hoành Trong Mê Lộ Của Tâm

Ý Niệm Niết Bàn Trong Đạo Phật

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-La Ở Gandhara

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-Hàm

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-hàm

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Load More

Discussion about this post

Con Đường Tuệ Giác – Bát Chánh Đạo.

Con Đường Tuệ Giác – Bát Chánh Đạo.

CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC BÁT CHÁNH ĐẠO Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato...

Tĩnh Lặng Những Ngôi Chùa Tại Tp. Hcm. Trong 14 Ngày “Ai Ở Đâu Thì Yên Ở Đó”

Tĩnh Lặng Những Ngôi Chùa Tại TP. HCM. Trong 14 Ngày “Ai Ở Đâu Thì Yên Ở Đó”

, việc ra đường đều phải có giấy được Công an TP cấp. Các chùa cũng tạm thời đóng cửa,...

“Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sinh Kỳ Tâm” Là Nghĩa Thế Nào ?

“Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” là nghĩa thế nào ?

ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂMLÀ NGHĨA THẾ NÀO?Truyền Bình   Câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh...

Vai Trò Triết Học Trong Giáo Dục Phật Giáo – Pgs. Ts. Hoàng Thị Thơ

VAI TRÒ TRIẾT HỌC TRONG GIÁO DỤC PHẬT GIÁO PGS. TS. Hoàng Thị Thơ Ở Việt Nam Phật giáo đã...

Hữu Hà Sai Biệt?

Hữu hà sai biệt?

Ngẫm ra trong đời chỉ có hai loại Cái Tôi thích phô trương. Loại thứ nhất, tôi tạm gọi là...

Chúng Ta Cùng Học Cùng Tu Tập 2 (Sách Song Ngữ Vietnamese-English Pdf)

Chúng ta cùng học cùng tu Tập 2 (Sách song ngữ Vietnamese-English PDF)

THIỆN PHÚCCHÚNG TA CÙNG HỌC CÙNG TU LET'S LEARN & PRACTICE TOGETHERTẬP II | VOLUME II   Copyright © 2021 by Ngoc Tran....

Xe Lên Quán Dốc

Xe lên quán dốc

  XE LÊN QUÁN DỐC Thơ: Hoang Phong Diễn ngâm: Hồng Vân và Phan Xuân ThiTranh Hoang Phong Xe lên...

Tâm Đặt Sai Hướng

Tâm đặt sai hướng

Ví như, này các Tỷ-kheo, sợi râu của lúa mì, hay sợi râu của lúa mạch bị đặt sai hướng,...

Ẩn Tu Ngẩu Vịnh

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Dòng Sông Tâm Thức

Dòng sông tâm thức

Nhà triết học David Hume đã nói: “Thức là một tia sáng hay một chuỗi những tri giác khác nhau...

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 300)

Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ở trong đoạn Kinh văn này đã làm chú giải rất nhiều, trích dẫn...

Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học

Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học

LỜI GIỚI THIỆU   Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận có tên Phạn là Śikşā Samuccaya, gồm 25 quyển...

Ai Mua Xe Rác (Audio Book)

Ai mua xe rác (audio book)

AI MUA XE RÁC (AI ĐÃ ĐẶT MUA XE PHÂN NÀY)  Ajahn Brahm | Thích Trí Siêu chuyển ngữNhà xuất...

Nghi Thức Lễ Phật Đản

Nghi Thức Lễ Phật Đản

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Từ Bi – Chất Liệu Của Sự Hạnh Phúc

Từ Bi – Chất Liệu Của Sự Hạnh Phúc

Tháng Giêng chậm rãi trôi qua, nhẹ như cách những cánh mai vàng thả mình theo làn gió sớm. Mới...

Con Đường Tuệ Giác – Bát Chánh Đạo.

Tĩnh Lặng Những Ngôi Chùa Tại TP. HCM. Trong 14 Ngày “Ai Ở Đâu Thì Yên Ở Đó”

“Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” là nghĩa thế nào ?

Vai Trò Triết Học Trong Giáo Dục Phật Giáo – Pgs. Ts. Hoàng Thị Thơ

Hữu hà sai biệt?

Chúng ta cùng học cùng tu Tập 2 (Sách song ngữ Vietnamese-English PDF)

Xe lên quán dốc

Tâm đặt sai hướng

Ẩn Tu Ngẩu Vịnh

Dòng sông tâm thức

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 300)

Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học

Ai mua xe rác (audio book)

Nghi Thức Lễ Phật Đản

Từ Bi – Chất Liệu Của Sự Hạnh Phúc

Tin mới nhận

Những câu chuyện Phật dạy về duyên nợ trong tình yêu đáng suy ngẫm

Về Một Bức Thủ Bút Chữ Nôm Của Bồ Tát Quảng Đức, P.q.v

Danh ngôn lời vàng Phật dạy về 4 hạng người

Đeo mang thân ngũ uẩn là gánh nặng

Phật dạy thế nào là một người con con gái đẹp

Hiểu đúng về Đức Phật

Phật có bao giờ nói lời khó chịu làm buồn khổ người khác?

Phật dạy về nghiệp báo sai biệt của mỗi người

Tôi đã giác ngộ đạo Phật như thế nào?

Sống là phải biết ơn và báo ơn

Khái niệm “Pháp uẩn” trong văn học Pali

Phật dạy trách nhiệm của người tại gia

Học cách điều phục tâm theo lời Phật dạy

Làm Thế Nào Để Trẻ Thơ Tiếp Nhận Giáo Dục Phẩm Đức (Tập 3)

Lời Phật dạy về các hóa giải những rắc rối trong quan hệ gia đình

Kính Ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức

Đức Phật đản sinh vào năm nào?

ĐỜI NGƯỜI CẦN CÓ VỊ THẦY TỐT

Ý nghĩa ngày Phật đản trong đời sống người Việt

Ý nghĩa danh hiệu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Tin mới nhận

Chiêu Niệm Nepal

Cao Sơn Tuyết – Mừng Sinh Nhật Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tờ giấy học đường phấn đấu cả cuộc đời

Bẩy Bước Chân Thánh – Ngẫu Hồ

Những vấn đề của xã hội ngày nay

Lễ hội Vu lan bồn và việc thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc

Tìm nhà an cư gần Chùa

Hơi Thở Vô Thường

Một Vòng Phố Đêm Ba Mươi – Tâm Không

Hạt Giống Từ Bi

Đường đến an bình thật sự (10)

Còn đó một cành mai

Cách hóa giải hận thù trong nhiều kiếp dưới góc nhìn Phật giáo

Lịch Sử Kết Tập Kinh Điển – Bình Anson Minh Họa Bằng Biểu Đồ Và Hình Ảnh

Hái lộc đầu năm

Người thiếu máu nên ăn thực phẩm gì?

Giá trị giới không sát sinh

Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo Tại Việt Nam Và Tại Các Nước Trung Quốc, Nhật Bản

Sự Thật Tà Đạo “Tâm Linh Hồ Chí Minh”

Làm chủ căn tai để tâm thanh tịnh sáng suốt

Tin mới nhận

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng Ký Tập I

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 45)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 95)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 12)

So Sánh Kinh Trung A Hàm Chữ Hán & Kinh Trung Bộ Chữ Pali

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 349)

Pháp ngữ trong Kinh Kim Cang (1)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 49)

Đức Phật Từng Cảm Nhận Các Giác Cảm Đau Đớn

Kinh Bách Dụ: Xem nắn bình

Bình Giảng Kinh Mâu Ni

Kinh Người Biết Sống Một Mình

Giới Thiệu Kinh Trung A Hàm

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 65)

Những Niềm Tin Cao Quý Nhất, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Sách Mới – Ấn Tống: Giới Thiệu Nguồn Gốc A-di-đà

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 55)

Luận Kim Cương Tiên – Thế Thân Bồ Tát

Kinh Các Căn Bản Bất Thiện

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 127)

Tin mới nhận

PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO KINH (Tập 2)

Chương 1 bài 2 mục 5 Khuyến khích người tu hành nỗ lực (08/05/2022)

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 3)

Chứng Ngộ Và Vãng Sanh Cực Lạc

Làm Thế Nào Để Làm người Tốt Như Pháp (Tập 31)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 203)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 86)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 101)

MUỐN CỨU ĐỘ CHÚNG SANH, TRƯỚC PHẢI KHẮC PHỤC PHIỀN NÃO TẬP KHÍ CỦA MÌNH

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 (Tập 6)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 22)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 55)

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 9)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 152)

Thư Trả Lời Những Sự Gạn Hỏi Về “BẤT NIỆM TỰ NIỆM”

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 6)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 322)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 356)

Lễ Tang Đại Lão Ht Thích Trí Tịnh – Ngày 2 – 3 – 4 – 5 (Sen Việt Tv Tường Trình)

Sự dung hợp Tịnh độ & Thiền của ngài Vĩnh Minh

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

Chinese (Simplified)EnglishFrenchGermanJapaneseKoreanRussianSpanishVietnamese