HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
tại THỪA THIÊN – HUẾ
Việt Nam Chuyển mình trong Thời đại mới
Học Viện
Phật Giáo Việt Nam tại Huế

mạo đất mẹ Việt Nam đã và đang thay đổi thật nhiều.
Và chắc chắn rằng, với tư thế mới đầy hãnh tiến trên
trường quốc tế như hiện nay, diện mạo ấy cũng sẽ thay
đổi rất nhanh qua từng ngày theo chiều phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Phật giáo Việt Nam, cụ thể là Giáo hội
PGVN, với khả năng thích ứng tuyệt vời như một thuộc tính
nội hàm và trong tư cách là một phần tử không thể tách
rời của dân tộc, hẳn đang và sẽ chủ động chuyển mình
theo từng nhịp đổi thay của đất nước. Nhất định là
thế, bởi hơn bao giờ hết chuyển mình và thay đổi, với
lực thúc đẩy mạnh mẽ mang tính xã hội, và đang là một
bức thiết cho sự tồn tại của Phật giáo Việt Nam và sự
phát triển của Giáo hội. Một khi chuyển mình và đổi thay
đang là một xu thế xã hội và là điều tất yếu của Phật
giáo Việt Nam, thì có ít nhất 3 vấn đề tiên quyết sau đây
cần phải được Giáo hội minh định và thiết lập:
1.
Cơ sở hay nền tảng cho cuộc chuyển mình.
2.
Định hướng phương và chiều chuyển mình.
3.
Mô hình và phương thức chuyển mình.
Những
cơ sở cho cuộc chuyển mình
Với
mọi cuộc chuyển mình, bất kể là của một tổ chức xã
hội vi mô hay của một tổ chức quốc tế hay quốc gia vĩ
mô, thì việc định hướng véc tơ chuyển mình và mô thức
chuyển mình luôn là những đòi hỏi. Tuy nhiên, để thực
hiện được những nhu cầu này, cơ sở hay nền tảng cho cuộc
chuyển mình cần phải được thiết định và xác lập trước
tiên. Đó là, cuộc chuyển mình của Phật giáo Việt Nam nói
chung, của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng, cần phải
được xây dựng trên bốn cơ sở sau đây:
1.
Tinh thần giáo lý và ý tưởng Phật đà
Như
tất cả chúng ta đều biết, tinh yếu giáo lý Phật đà chính
là tinh thần giáo lý Giới – Định – Huệ, tinh thần vô chấp,
tùy duyên bất biến, khai phóng, siêu việt và vượt ra ngoài
ý tưởng về “Cái tôi”, “Cái của tôi”, và “tự ngã
của tôi”. Và lý tưởng ấy, không gì khác hơn, chính là
lý tưởng “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”,
lý tưởng nhắm đến phục vụ vì hạnh phúc an lạc của
số đông, và lý tưởng nhắm đến mục đích giải thoát
hướng thượng cho tự thân và tha nhân. Những tinh thần và
lý tưởng này dứt khoát phải là cơ sở đầu tiên cho mọi
hoạt động của Giáo hội quy chiếu và phóng chiếu, bởi
tách khỏi yếu tố nền tảng này đạo Phật sẽ không là
đạo Phật nữa.
2.
Truyền thống văn hóa dân tộc
Giáo
nghĩa và lý tưởng phật làm nên đạo Phật; truyền thống
văn hóa dân tộc Việt Nam quyết định nên đạo Phật Việt
Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử 5000 văn hiến của dân
tộc, đạo Phật Việt Nam có một nửa đường hòa nhập và
góp mặt, dựng xây tinh thần dung hóa, đắp bồi lòng yêu
nước thương nòi, giữ gìn thuần phong mỹ tục làng – xã,
và truyền thống đạo đức gia đình. Bởi tính gắn bó và
quyến định ấy, nên mọi cuộc chuyển mình của Phật giáo
Việt Nam luôn cần phải đặt nền tảng trên cơ sở văn hóa
dân tộc Việt Nam.
3.
Hoàn cảnh thực tiễn xã hội
Đất
nước, xã hội và con người việt nam đang bước vào và bị
cuốn vào vĩ đạo hay nguồn xoáy của một thời đại mà
chúng ta gọi là “mới” với những thành tựu đỉnh cao
về công nghệ thông tin, và khoa học kỹ thuật. Những thành
tựu ấy hẳn nhiên mở ra nhiều vận hội cho sự phát triển
kinh tế và nâng cho đời sống vật chất, nhưng đồng thời
cũng đưa đến những thách thức về giá trị văn hóa tinh
thần và đạo đức dân tộc. Những vận hội và thách thức
như thế của xã hội Việt Nam rõ ràng là những tác lực
thúc đẩy cũng như đang đặt ra những câu hỏi cơ bản cho
sự chuyển mình của Phật giáo Việt Nam và của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam.
4.
Xu hướng thế giới
Nếu
thực tiễn xã hội Việt Nam đóng vai trò như là môi trường
và tác lực trực tiếp cho sự chuyển mình của Phật giáo
Việt Nam, thì bối cảnh quốc tế vĩ mô với những xu hướng
toàn cầu hóa thông qua siêu lộ thông tin, đa cực hóa các
vùng kinh tế, thương mại, hẳn sẽ là môi trường và tác
lực gián tiếp đưa đến một chuyển mình bức thiết hướng
đến hội nhập thế giới của Phật giáo Việt Nam nói chung
và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng vậy.
Trong
bốn cơ sở hay nền tảng trên đây, hai cơ sở đầu -tinh
thần và lý tưởng Phật đà và truyền thống văn hóa dân
tộc – rõ ràng liên quan đến vấn đề nội thể – cơ chế
hàm ẩn bên trong, và hai cơ sở sau – hoàn cảnh thực tiễn
xã hội Việt Nam và xu hướng thế giới – liên quan đến ngoại
hiện – sự thể hiện ứng dụng bên ngoài – của cuộc chuyển
mình của Phật giáo Việt Nam. Hai chiều kích này có mối quan
hệ hữu cơ với nhau: nội thể quyết định những gì gọi
là Phật giáo Việt Nam và ngoại hiện xác lập thế đứng
của Phật giáo Việt Nam trong thời đại mới.
Định
hướng phương và chiều chuyển mình
Với
việc xác lập những cơ sở của hai chiều kích nội thể
và ngoại hiện như thế, định hướng véc tơ cho phương và
chiều cuộc chuyển mình của Phật giáo Việt Nam chúng ta hẳn
đã được phần nào gợi ý. Đó là, cần định hướng véc
tơ chuyển mình của Phật giáo Việt Nam sao cho:
1.
Véc tơ phương và chiều chuyển mình trùng với véc tơ phương
và chiều của giáo lý và lý tưởng Phật đà.
2.
Véc tơ phương và chiều chuyển mình trùng với véc tơ phương
và chiều của truyền thống văn hóa dân tộc.
3.
Véc tơ phương và chiều chuyển mình trùng với véc tơ phương
và chiều của đà phát triển kinh tế quốc dân và hoàn cảnh
thực tiễn xã hội.
4.
Véc tơ phương và chiều chuyển mình trùng với véc tơ phương
và chiều của xu hướng thế giới.
Nói
một cách khác, sự chuyển mình của Phật giáo Việt Nam và
của Giáo hội PGVN trên chiều kích nội thể cần phải vừa
phù hợp với tinh thần giáo lý Phật vừa phù hợp với truyền
thống văn hóa dân tộc, và trên bình diện ngoại hướng cần
phải vừa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn xã hội Việt
Nam và vừa thích ứng được những xu hướng phát triển vì
hạnh phúc của loài người trên thế giới.
Mô
hình và phương thức chuyển mình
Cơ
sở và phương – chiều rõ ràng là nền tảng. Tuy nhiên, chúng
chỉ đóng vai trò như là hệ qui chiếu và phóng chiếu lý
thuyết, còn mô hình và sách lược cụ thể mới chính là
nội dung thực tế cho cuộc chuyển mình. Đây quả là một
vấn đề không đơn giản, đòi hỏi nhiều yếu tố quyết
định cả về không gian lẫn thời gian, và do đó, vượt ra
ngoài khuôn khổ của một tham luận. Tuy vậy, trong bài tham
luận này, chúng tôi cũng xin được đóng góp một mô hình
cùng một vài phương lược như sau:
Mô
hình chuyển mình
Như
chúng ta biết, Giáo hội PGVN, tổ chức đại diện hợp hiến
duy nhất của PGVN, có một thế chế hoạt đọng trong 25 năm
thành lập và phát triển với hai tầng cấu trúc. Đó là:1.
Cấu trúc nội diên – những chủ trương, đường lối qui phạm
tổ chức và hoạt động, cụ thể là Hiến chương và nội
qui của Giáo hội.2. Cấu trúc ngoại diên – những thiết chế
quản trị chẳng hạn như Hội đồng Chứng minh, văn phòng
Hội đồng/Ban Trị sự, các cơ sở giáo dục nghiên cứu và
văn hóa của Giáo hội.
Cấu
trúc nội diên, như được minh định về mặt khái niệm trên,
đóng vai trò như là khung sườn lý thuyết, và cấu trúc ngoại
diên đóng vai trò như là hoạt hiện thực tiễn của khung
sườn lý thuyết đó. Cả hai cấu trúc này đều cần phải
‘chuyển’, phải thay đổi để thích ứng và đáp ứng của
nhu cầu của thời đại mới. Tuy nhiên, vì là khung sườn,
nên cấu trúc nội diên cần phải được ‘chuyển’ trước
để làm nền tảng cho sự ‘chuyển’ của cấu trúc ngoại
diên. Nói cách khác, sự chuyển mình của Giáo hội có thể
thực hiện theo phương chiều véc tơ hướng từ trong ra ngoài.
Từ
lý thuyết đến thực hành là một câu chuyện dài. Và do vậy,
để mô hình lý thuyết trên đây có thể trở thành những
hoạt hiện thực tế, những phương thức hay sách lược với
từng bước cụ thể luôn là một đòi hỏi. Chẳng hạn:
– Bước
1: Phổ biến ý thức về nhu cầu chuyển mình của PGVN,
và của Giáo hội PGVN sâu rộng trong Tăng – Ni và quần chúng
Phật tử. Thông qua đây, định hướng ý chuyển mình cho tự
thân cho tự thân của mỗi Tăng – Ni và Phật tử. Các cơ
sở giáo dục và các Ban Hoằng Pháp trung ương và tỉnh thành
đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi bước 1 này.
– Bước
2: Phát động phong trào góp ý về việc xây dựng mô hình
và phương thức chuyển mình từ thành phần trí thức Phật
giáo. Những cuộc hội nghị, hội thảo như thế này, tuy cũng
là một động thái thích đáng tập hợp tri thức, nhưng vì
bị giới hạn về cả thời gian lẫn không gian, nên chúng
thường nặng tính phổ biến hơn là tập hợp những đóng
góp tri thức có đủ chiều sâu và rộng cần thiết.
–
Bước 3: Thành lập Chuyên ban đặc biệt nghiên cứu và
hoạch định công cuộc chuyển mình. Ban này có trách vụ tích
hợp các đóng góp tri thức, chọn lựa các mô hình và phương
thức khả năng thi, và thiết lập dự án cụ thể.- Bước
4: Triển khai dự án đã được thiết lập.
Thay
lời kết
Từ
góc nhìn của một cơ sở giáo dục bậc cao của Giáo hội,
Học viện PGVN tại Huế chúng tôi cảm thấy, cũng như nhiều
đại biểu trong hội nghị này cảm thấy, rằng xu thế chuyển
mình của PGVN, của Giáo hội GHVN đang là một xu thế rất
thật. Bởi vậy, việc xác định cơ sở, định hướng và
thiết lập mô thức cho công cuộc chuyển mình của Giáo hội
đang trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Phật
giáo Việt Nam là một sinh thể luôn tràn đầy những năng
lượng, sẵn sàng cho cuộc chuyển mình khi nhận từ đất
mẹ Việt Nam hôm nay một mệnh lệnh chuyển mình.
Học
Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế
Người
gửi bài: Tâm Minh
03-25-2007
10:23:46
Discussion about this post