PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Hiện hữu

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

HIỆN HỮU
Lê Huy Trứ (2-17-2016)

The_Soul_Theory_Of_The_BuddhistsTrong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng, “Khi Đức Phật gọi chủ thuyết về một cái ngã thường hằng là một “chủ thuyết cuồng si,” rõ ràng là Ngài đang chống lại một chủ thuyết đã được thành lập.  Bất cứ khi nào trong các bài giảng của Ngài, Ngài đều nói về vô ngã hoặc thân kiến – chấp vào xác thân hiện hữu – (Satkàyadrsti)” (When Buddha calls the doctrine of an eternal self “a doctrine of fools” it is clear that he is fighting against an established doctrine. Whenever in his sermons he comes to speak about Soullessness or Wrong personalism).

The_Basic_Conception_Of_BuddhismTrong tác phẩm Quan điểm cơ bản của Phật Giáo, The Basic Conception of Buddhism, Giáo Sư V. Bhattacharya, sau quá trình nghiên cứu về học thuyết Vô Ngã (Non-self,) đã kết luận rằng, “… Qua nhiều cách khác nhau, sự hiện hữu về một cái ngã vĩnh hằng (hay àtman,) như được công nhận bởi những hệ thống triết học khác, đã bị Đức Phật khước từ một cách hoàn toàn bằng cách đoạn trừ chính cái căn rễ của tham ái, nơi mà cái ngã vĩnh hằng ngự trị” (Thus and in various other ways, the existence of a permanent Self or àtman, as accepted in other systems, was utterly denied by The Buddha, thereby pulling down the very foundation of desire where it can rest.)

Descartes chủ trương trong vũ trụ chỉ có hai bản chất: một là hình tướng (étendues, form) hai là ý thức tư duy (pensentes, thinking) là giữa vũ trụ quan có hai miền duy lý; hình tướng thuộc về không gian và thời gian, và miền thứ hai là ý thức thuộc tinh thần và vật thể. Giữa hai miền này không thể gặp nhau.  Do đó, phát sinh tư duy hoài nghi chìm vào tư duy hiện hữu.  Hiện hữu của chỉ định ‘tôi’ chắc chắn khi tư duy đến ‘pensé/think’ giữa hữu thể và vật thể. Vậy tôi là một hiện vật có ý thức (consciousness) rõ ràng thời đó là chân lý minh bạch, nhà Triết Gia Pháp Descartes, “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu!” (French philosopher Descartes: Je pense donc je suis’ (I think, therefore I am. From the original Latin phrase “Cogito ergo sum!”)  Vì sao? Do từ hiện hữu đi đôi với ý thức. 

Jean-Paul SartreJean-Paul Sartre lại nhìn khác hơn về hiện hữu tư duy; ông cho rằng thực thể hữu hạn không thể là một vật thể duy nhất vừa là khác nhau theo cùng một quan điểm. Theo những triết gia đi trước thì hữu thể là bắt nguồn từ hai nguyên lý ‘bất khả phân ly’ mà tạo nên hữu thể hiện hữu/ être, be, existence là yếu tính, là một xác định cho nó là cái này mà không phải cái kia.

Sartre thường hay xử dụng ngôn ngữ ‘nhận thức’ như một lý trí riêng tư “non-positionelle (de) soi”; chữ ‘de’ được nằm trong dấu ngoặc đơn, để chứng tỏ rằng không có sự phân chia đẳng cấp hay ngôi vị, không phân biệt vị trí của bản ngã như một đối tượng của ý thức.  Sartre đề cập đến một thứ ý thức trong sáng  (néant/nothingness) một trạng từ chưa tỏ rõ bằng một sự nhấn mạnh rõ ràng trong cái không, cõi không trống rỗng, không dính dáng vào cái không của không (emptiness of emptiness.)  Sartre đưa cái ý thức trong sáng của hiện hữu cũng như hư không; có thể là một luận án có tính cách võ đoán (non-thetic) cho tự-thức (self-consciousness) hoặc đưa vào một vị trí của tự-thức cái đó là tâm-thức  của ‘soi’ tức là ‘tự’ cái tự-có  (soi-même/one-self) trong ý thức mà ý thức đó như một ý thức suy xét phản ảnh được sự nhìn nhận về hành động và trạng thái của ý thức trong sáng đó và hầu như dành cho một vị trí ‘tự-nó.’ Cùng một trạng huống đó Sartre đặc ra hai nền tảng chính yếu cho vấn đề ý thức như quan tâm tới sự phản ảnh của ý thức.

Có hai vị trí khác biệt của khoa tâm lý học; đối với Sartre là một tiếp nối quan trọng qua lăng kính của ông đó là ‘Cho-tự-nó’ (For-itself) chính vị trí đó là mạch liên đới với con người.  Đấy là ý tưởng của Sartre nói về như nhiên của thân tâm, của dục tính xác thịt.  Lẽ đương nhiên cảm giác đó là thể chất đứng ra như một sự kiện của con người.

Chúng ta suy xét về một phần của ý thức mà ý thức đó chính là Cho-tự-nó được coi như Hư Không là mãi mãi mâu thuẩn nội tại.  Thực tế sự ấy nằm trong lãnh vực của Cái-trong-tự-nó (In-itself) như đã được tồn lưu (existed) bởi cái gọi là Cho-tự-nó (For-itself) thì đó là vấn đề tâm lý. Trên thực tế chúng ta phải có nhiều xác quyết cụ thể về cái Cho-tự-nó là chính thân tâm của mình. Vì Cho-tự-nó là ý thức của vật thể như đã thấy. Cho-tự-nó không có ý thức phán đoán mà chỉ hiện diện để xuyên qua cảm thức của Trong-tự-nó.

Chúng ta đã thấy điều quan trọng ấy trong ” La transcendence de l’Ego ” Sartre tin là Ego chỉ một phần tâm lý và từ đó được xem như vật thể của thế giới quan. Sartre bắt bẻ sự sai lệch đó về Hiện Hữu và Hư Không mà Sartre đã bày tỏ trước đây và ông rất vững tâm và lạc quan về điều đó. Sartre đã phân tích kỷ năng về thể xác của con người mà ông đã chia ra làm hai phần : -Thể-xác-cho-một-cõi-khác (Body-for-the-Other) và Thể-xác-thấy-bởi-một-cõi-khác (Body-seen-by-the-Other).  Đó là dây chuyền kết nối của tâm-thân. Mỗi khi Hiện Hữu với tâm-thân trong cùng một tiến trình của thành quả thì đó  là Thân-xác-thuộc-về-tôi (Body-for-me) thuộc về Hiện Hữu dù hiện diện trong cõi Hư-Không để ý thức về những điều ‘tự-nó’ như hiện thể với thế giới quan.  

Tóm lại, Hiện Hữu là điều kiện giản đơn như vạch trần hết thảy. Hiện-Hữu-vạch-trần (Being-for-revealing / Être-pour-dévoiler) thì cũng như lột-trần-hiện-hữu (revealed-being / être dévoilé) giữa hai dạng thức đó không có gì khác biệt giữa Hiện Hữu; nói cách khác  giữa CÓ và KHÔNG là RỖNG, tất cả đều nằm trong qui trình vũ trụ giới với con người. Sartre giải phóng toàn bộ tính không trong ý thức Hiện Hữu và Hư Không như một gạch nối cho lý thuyết hiện sinh mà Sartre đã bày tỏ  và hết lòng nâng cao giá trị nhân bản một cách trọng yếu trong triết thuyết của Sartre đề ra. Cụ thể hơn hết từ khi xuất bản tiểu luận  Hiện Hữu và Hư Không Sartre luôn luôn quan tâm hạnh phúc hay bất hạnh của con người, đó là vấn đề luân thường đạo lý (Ethical) mà mục đích và tính nết đã được biểu lộ một cách sâu đậm trong những tác phẩm của ông để lại; nhất là những tác phẩm triết học phong phú và hiệu năng, một luận án đầy đủ , là phạm trù triết học mang tính triết thuyết hơn là triết học.

(L’Être et le Néant / Being and Nothingness, Jean-Paul Sartre, Hiện hữu và Hư không, Võ Công Liêm)

Jaspers định nghĩa tạm,“Hiện hữu là cái không bao giờ trở thành một khách thể, cái bắt nguồn từ tư tưởng và hành động của tôi, cái mà tôi nói đến bằng những chữ không có nghĩa gì cả. Hiện hữu là cái nó tương quan với chính nó tức là siêu việt thể của nó.”

Trong bài Ý niệm về Hiện hữu, Thích Tâm Thiện viết, “Sự hữu (bhàva) hay hiện hữu (process of becoming) chỉ có thể được cảm nhận khi nào nó xuất hiện như là một đối tượng (object) trước một chủ thể (subject;) nghĩa là nó xuất hiện trong sự phân biệt và tương quan giữa chủ thể nhận thức (pudgala) và đối tượng được nhận thức (dharma.)  Nếu không như thế, sẽ không có bất kỳ một sự hữu nào hình thành và tồn tại bởi một tên gọi hay làm đối cho nhận thức.  Dẫu rằng, trong thế giới của sự vật hiện tượng, tâm (lý) không phải là vật (lý;) bởi lẽ, tâm vốn thoát ly mọi ảnh tượng của vật, nhưng đối với sự vật hiện tượng hay mỗi hiện hữu, nó không thể hiện hành mà không có tâm; vật và tâm thực chất là hai mặt của một sự hữu. Và đây là tiến trình hiện hữu mà các hệ thống triết học thường gọi là mối quan hệ giữa tổng thể phổ quát (universal) và đơn vị đặc thù (particular,) hay giữa thực thể và thuộc tính của nó (substance – attribute) v.v… Từ những chi tiết trên, cho thấy rằng sẽ không có một sự hữu nào, dù là ý niệm hay vật chất, có thể hiện hành một cách độc lập phân ly; mà trái lại, chân lý của nó (sự hữu) là bất khả phân ly; nếu không như thế, mọi cơ cấu triết học và tôn giáo của nhân loại sẽ như lâu đài xây trên bãi cát. Tất cả các danh từ như duy vật, duy tâm, duy linh, duy thực v.v… sẽ không có ý nghĩa nếu nó chỉ được hiểu như là chính nó – tức là duy vật thì không duy tâm và ngược lại.”

May mắn cho chúng ta là những triết gia vô dụng này đã chết và ta không còn thấy những triết gia như vậy hiện hữu chạy đầy đường trên thế giới hiện tại trừ trong bệnh viện tâm thần, không thì sẽ có nhiều người điên vì lây bệnh triết lý gàn của họ.

Tương tự, những câu hỏi như: “Thế giới có vĩnh hằng hay không, hoặc vừa vĩnh hằng và vừa không vĩnh hằng? … Đức Như Lai có tồn tại sau khi nhập diệt hay không, hoặc vừa tồn tại hoặc vừa không tồn tại ?” (Whether the world is eternal, or not, or both, or neither ?… Whether The Tathagàta exists after death, or does not, or both, or neither ?…) đều là vấn nạn của luận lý, thuộc hệ tư tưởng nhị nguyên (dualism,) và cố nhiên, sẽ không bao giờ kết thúc, đó những câu hỏi lơ lửng.

BlankTrong kinh Tương Ưng (Samyutta – Nikàya) ghi lại một giai thoại rằng: Một thời vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) yết kiến Tỳ Kheo Ni Khemà tại Teranavathu, giữa thành Sàvatthi và Sàketa, ông đã đặt bốn câu hỏi như sau :

1- Như Lai có tồn tại sau khi chết?
2- Như Lai không tồn tại sau khi chết?
3- Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
4- Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?

Tỳ Kheo Ni Khemà trả lời, “Thế Tôn không trả lời bốn câu hỏi trên.” Sau đó, đích thân vua Pasenadi yết kiến Đức Thế Tôn và đặt lại bốn câu hỏi trên, Thế Tôn im lặng.

Trong một dịp khác, Tôn Giả Mahàkotthika (Đại-kiều-thi-na) lại hỏi Trưởng lão Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Trưởng lão trả lời rằng, Thế Tôn không trả lời bốn câu hỏi trên là vì nếu trả lời là rơi vào chấp thủ sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Do đó, Thế Tôn đã im lặng.

Rồi lại một dịp khác, Trưởng Lão Sàriputta đặt lại bốn câu hỏi trên với tôn giả Mahakotthika, và Tôn Giả trả lời rằng, Thế Tôn không trả lời và việc đó được giải thích như sau:

– Những vấn nạn như thế chỉ có đối với người chưa đoạn trừ tham ái và chấp thủ đối với sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

 – Những vấn nạn như thế chỉ có đối với người chưa đoạn trừ ái lạc Hữu, ái lạc Thủ, ái lạc Ái.

Cùng với trường hợp trên, một dịp khác, Ngoại Đạo Sĩ Vacchagotta (Bà-sa-cù-đa) đã đặt mười vấn nạn siêu hình với Thế Tôn rằng: Thế giới là thường? Vô thường? Là hữu biên? Là vô biên? Sinh mạng thân thể là một hay là khác? Vừa là một vừa là khác? Như Lai có tồn tại sau khi chết? Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết? Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?

Thế Tôn đã không trả lời mười vấn nạn này và cắt nghĩa rằng, “Vì Như Lai quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có sắc, hay có sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong sắc.”  Tương tự như vậy đối với thọ, tưởng, hành và thức.

Từ đây, rõ ràng là khi con người đặt vấn nạn về các vấn đề siêu hình, thực chất không phải họ muốn vươn lên một tầm cao của thực tại, mà là do bị kẹt vào thân kiến hay ngã kiến của chính cái xác thân của họ đang đầy ắp dục vọng, [một lo lắng trong tâm khảm, THL] muốn tìm kiếm một sự thường hằng, một linh hồn bất tử.  Sự khát vọng thống thiết đó một mặt muốn tìm kiếm chân lý và hạnh phúc vĩnh hằng; mặt khác do bị thiêu đốt bởi dục vọng, [tâm bất an, THL] và bởi chính sự lang thang đi tìm cái chân lý hão huyền nên không thể đi vào thực tại – một thực tại đang vận hành bất tuyệt ngay trong đương niệm hiện tiền. Điều trớ trêu đó xuất hiện và vây bủa con người chỉ vì họ đang đuổi bắt cái bóng mờ ảo ảnh của một cái ngã – linh hồn không thật.  Nó chính là “hồn ma ái dục” lúc ẩn, lúc hiện trong bóng đêm của trần thế mông lung, ảo vọng.” (Trích Vấn đề cơ bản của triết học, Thích Tâm Thiện)

Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ,) Đức Phật dạy, “Tùy thuộc vào dầu và tim đèn mà ngọn lửa của đèn bùng cháy; nó không phải sinh ra từ trong cái này cũng không phải từ trong cái khác, và cũng không có một (nguyên động lực) nào trong chính nó; hiện tượng giới cũng vậy, nó không hề có cái gì (thường tại) trong chính nó. Tất cả hiện hữu là không thực có; chúng là giả danh; chỉ có Niết Bàn là chân lý tuyệt đối. (Depending on the oil and wick does the light of the lamp burn; it is neither in the one, nor in the other, nor anything in itself; phenomena are, likewise, nothing in themselves. All-things are unreal; they are deceptions; Nibhàna is the only truth).” (Majjh. N. III, P. 145 Dialogue, 140)

BlankDuyên khởi hiện hữu là tiền đề để đi vào Tánh Không. Dưới đôi mắt tuệ giác của Đức Phật, mọi hiện hữu không thể được xem là có hay không; mà hiện hữu là hiện hữu của Duyên khởi (pacticcasamuppàda hay original dependence.)  Đây cũng chính là ý nghĩa Duyên khởi được triển khai trong Trung Quán Luận bởi ngài Nàgàrjuna:

“Bất sanh diệc bất diệt
Bất nhất diệc bất dị
Bất thường diệc bất đoạn
Bất khứ diệc bất lai.”

Nghĩa :

“Không phải sinh cũng không phải diệt
Không phải một cũng không phải khác
Không phải thường cũng không phải đoạn
Không phải đi cũng không phải đến.”

Luận chứng về Duyên khởi hiện hữu của ngài Nàgàrjuna dựa vào bốn luận cứ – có, không, cũng có cũng không và chẳng phải có, cũng chẳng phải không. Luận cứ này được diễn đạt như sau:

Chúng nhân duyên sinh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc vi thị giả danh
Diệc thị Trung đạo nghĩa.

Nghĩa:

Các pháp do nhân duyên sinh khởi
Nên tôi nói là không thật có
Có, cũng chỉ là giả danh thôi
Đó cũng là ý nghĩa Trung đạo.

Đồng thời, bên cạnh bốn luận cứ này, ngài Nàgàrjuna, qua Trung Quán (Madhyamika) đã đặc biệt nhấn mạnh đến con đường truyền giáo pháp của Đức Phật, đó là con đường dung hòa giữa Tục Đế (Samuriti-satya) và Chân Đế (Paramartha-satya) hay còn gọi là Trung Đạo (Majjhimà-patipadà.)

Sắc quá khứ đã diệt hay sắc vị lai chưa sinh ra?  Nếu chấp nhận sự hiện hữu thì đã phủ nhận sự không hiện hữu. Chấp nhận sự hiện hữu là vô thường (impermanent) sẽ là không hiện hữu thì thực tại là không hiện hữu (non-being) thì sẽ không có quá khứ hiện hữu (past-being) hoặc tương lai hiện hữu (future-being.)

Không gian hiện hữu tương quan mật thiết với thời gian thực tại, không thể tách lập riêng biệt. Khi hiểu được thực tính của thực tại thì quán triệt được thực tính của hiện hữu. Tư duy con người đã gắn kết thực tại với sự sống hiện hữu. Thực tại được nhìn nhận qua sự tồn tại và hoại diệt của hiện hữu. Thực tại là sự hiện hữu từ đó cái Ngã và vạn vật được tạo ra.  Thực tại là dòng chảy cuốn tôi đi, nhưng tôi là dòng chảy đó; thực tại là ngọn lửa tam muội thiêu đốt tôi, nhưng tôi chính là tạng quang minh ấy.”  Vấn đề mấu chốt là khái niệm triết học bất khả phân giữa thực tại của thời gian và bản chất tồn tại của không gian.  Thương Tình Ca của Phạm Duy: “Đưa nhau vào cõi vô biên.  Đừng cho không gian đụng thời gian.” đã diễn tả gần đúng với ý thực tại đừng ‘để thời gian cuộn (đụng) thời gian’ này.

Hiển nhiên, theo Phật Giáo bản chất của hiện hữu là lý duyên khởi (dependent originations.)  Hiện hữu vốn là giáo lý đặc thù của Phật Giáo và đã xuyên thông qua cả hai hệ thống Nam Tông và Bắc Tạng; được xem như là tiền đề để tìm hiểu mối tương quan thực tại giữa Tứ Diệu Đế và 12 Nhân Duyên.  Hiện hữu không khác thực tại; Thực tại không khác hiện hữu.  Hiện hữu trong không gian, vô thường trong thời gian.  Đó là vô ngã tướng và là một mặt khác của vô thường.

Thích Tâm Thiện viết: “Thông qua các vấn nạn trên và lời dạy của Đức Thế Tôn, rõ ràng sự im lặng của Ngài đã biểu thị một thế giới tâm xả ly và vô niệm, tức là không còn chấp thủ về sự hiện hữu của các pháp (năm uẩn) hay hiện tượng giới là hữu hay phi hữu, là thường hay đoạn, là sinh hay diệt, là một hay khác.  Những vấn nạn về hữu, vô, sinh, diệt, thường, đoạn, khứ, lai – thực chất chúng là hiện thân của tư duy hữu ngã; và như thế, lấy cái hữu hay vô để hỏi về cái đã siêu việt hữu, vô – tức thế giới nhị nguyên (the world of dualism) thì không thể được.  Điều đó như cá dưới nước lại đặt vấn nạn hồ nghi về sự sống trên đất liền.”

Tất cả những công án ở trên thật ra Đức Thế Tôn đã giảng giải rất ràng rọt cho những thiện trí thức và các môn đệ có trình độ trí tuệ của Ngài trong 45 năm rồi chỉ có những kẻ ngoại đạo, chưa học Phật, mới u mê chất vấn Ngài với những câu hỏi vô minh về hiện hữu.  Đức Thế Tôn im lặng (noble silence) không trã lời họ cũng vì lẽ đó.  Ngài đã chứng minh cái Không của Vô Ngã qua thái độ im lặng.  Im lặng cũng là một cách trả lời.

Tin bài có liên quan

Triết Học Kỳ Na Giáo – Nguyễn Ước

Triết Học Bà La Môn (Brahmanism) – Giảng Viên Thích Lệ Thọ

Triết Học Ấn Độ – Nguyễn Ước

Tôn Giáo Baha’I – Bùi Đức Hợp

Tôn Giáo Baha’i – Bùi Đức Hợp

Thư Của Ht. Thích Tịnh Hạnh Về Cô Thanh Hải

Nhân Chứng Giê-hô-va – Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia

Merry Christmas And Happy New Year

Merry Christmas And Happy New Year

Mật Tông Đại Cương

Mật Tông Đại Cương

Có Phải Chúa Giê-su Đến Ấn Độ Để Học Phật Pháp, Vệ Đà? – By Madhusree Chatterjee, Ians, December 25th, 2009

Chúa Jesus Từng Là Tu Sĩ Phật Giáo (Jesus Was a Buddhist Monk) Phim Tài Liệu Do Bbc Sản Xuất

Load More

Discussion about this post

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-La Ở Gandhara

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Ý NGHĨA TRỌNG ĐẠI CỦA THỦ BẢN KINH PHẬT VIẾT TRÊN VỎ CÂY BÔ-LA Ở GANDHARA Vũ Thế Ngọc Từ...

Vào Cửa Tịnh Tông

VÀO CỬA TỊNH TÔNG   Pháp sư Tịnh Không giảngCư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại Việt dịch: Viên ThắngHiệu đính:...

Trọng Thể Khai Mạc Đại Lễ Phật Đản – Vesak Lhq Pl.2563 Tại Việt Nam

Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản – Vesak LHQ PL.2563 tại Việt Nam

Vesak LHQ lần thứ 16, do GHPGVN đăng cai tổ chức. Quang lâm chứng minh, tham dự có chư tôn...

Chuyện Tu Tập Của 2 Phật Tử Nhí Mịnh Anh Và Thùy Dương

Chuyện Tu Tập Của 2 Phật Tử Nhí Mịnh Anh Và Thùy Dương

CHUYỆN TU TẬP CỦA 2 PHẬT TỬ NHÍ MINH ANH VÀ THÙY DƯƠNG Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng 2 Phật...

Làm Sao Để Tự Tại Trước Được Mất, Có Không

Làm sao để tự tại trước được mất, có không

Hành giả cần suy tư chiêm nghiệm về giáo lý vô thường mà Thế Tôn đã dạy để vẫn có...

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 172)

Chính là bởi vì chúng ta không nhận thức công đức bất khả tư nghì của danh hiệu, cho nên...

Người Phật Tử Tu Điều Gì?

Để giải quyết câu hỏi này, chúng ta cần trả lời câu hỏi tại sao chúng ta trở thành Phật...

Thử Thách Của Những Tôn Giáo Khác Tác Giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Chuyển Ngữ: Tuệ Uyển

Thử Thách Của Những Tôn Giáo Khác Tác Giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Chuyển Ngữ: Tuệ Uyển

THỬ THÁCH CỦA NHỮNG TÔN GIÁO KHÁCTác giả: Đức Đạt Lai Lạt MaChuyển ngữ: Tuệ Uyển – 21/03/2011 Chúng ta điều...

Tình Yêu Trong Sáng Tâm Tình Với Bạn Trẻ Chân Pháp Đăng

TÌNH YÊU TRONG SÁNG Tâm tình với bạn trẻ Chân Pháp Đăng Thao thức  Bạn trẻ thân mến! Suốt một...

Gặp Họa Do Nói Không Đúng Lúc

Gặp họa do nói không đúng lúc

Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì xứ Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm con trai một vị...

Quốc Chúa – Bồ Tát Nguyễn Phúc Chu

QUỐC CHÚA - BỒ TÁT NGUYỄN PHÚC CHU: Người vận dụng tư tưởng Phật giáo vào việc trị quốc và...

Chánh Pháp Số 44 (Tháng 7, Năm 2015)

    NỘI DUNG SỐ NÀY:     ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm...

Pháp Sư, Người “Phiên Dịch”

Pháp sư, người “phiên dịch”

PHÁP SƯ, NGƯỜI “PHIÊN DỊCH”Đỗ Hồng Ngọc “Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói,...

Cách Thực Hành Pháp

Cách thực hành Pháp

CÁCH THỰC HÀNH PHÁPThiền sư AJAHN CHASư Tâm Pháp dịch   Giới thiệu về thiền sư Ajahn Cha Thiền sư...

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 95)

 Chư vị đồng học, xin chào mọi người.Xin mời xem Cảm Ứng Thiên đoạn thứ 81, đoạn văn này vẫn...

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Vào Cửa Tịnh Tông

Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản – Vesak LHQ PL.2563 tại Việt Nam

Chuyện Tu Tập Của 2 Phật Tử Nhí Mịnh Anh Và Thùy Dương

Làm sao để tự tại trước được mất, có không

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 172)

Người Phật Tử Tu Điều Gì?

Thử Thách Của Những Tôn Giáo Khác Tác Giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Chuyển Ngữ: Tuệ Uyển

Tình Yêu Trong Sáng Tâm Tình Với Bạn Trẻ Chân Pháp Đăng

Gặp họa do nói không đúng lúc

Quốc Chúa – Bồ Tát Nguyễn Phúc Chu

Chánh Pháp Số 44 (Tháng 7, Năm 2015)

Pháp sư, người “phiên dịch”

Cách thực hành Pháp

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 95)

Tin mới nhận

Học Phật tâm Phật

Phật dạy: Có hai hạng người lo toan ở đời

Bồ-tát Thích Quảng Đức: Ngọn lửa & Trái tim

Tưởng niệm 56 năm Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu

 Ý nghĩa bốn chân lý của Tứ Diệu Đế

Bồ Tát Quảng Đức: Trái Tim Từ Bi Và Sự Thật Thích Giác Tâm

Phật tại tâm là gì?

Phật dạy lo việc tang lễ đúng theo chánh Pháp

Dự án xây dựng sân biện kinh (tranh biện) cho tu viện Sera May

Nghe kinh thấy Phật đản sinh ở lòng

Năm phận sự của Đức Phật

Chiếc hộp bí ẩn đựng hài cốt hỏa táng của Đức Phật

Suy ngẫm từ nắm lá trong bàn tay Phật

Lời dạy sau cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập niết bàn

Báo cáo tâm đắc về việc học tập Nữ Đức (Tập 2)

Đức Phật ‘im lặng’ để trả lời có tự ngã không?

Bài học nào cho chúng ta hôm nay?

Phú Khánh Tự – Điểm Hẹn Của Những Tấm Lòng

Tâm Thư Vận Động Xây Chùa Việt Nam Tại Hàn Quốc

Sự kỳ diệu đích thực của Đức Phật và Giáo pháp

Tin mới nhận

Thói Quen Ân Cần

Từ Quang Tập 19 – Tháng 1 Năm 2017

Chia Sẻ Về Sự Hình Thành Các Pháp Môn – Hòa Thượng Giới Đức | 20-5-2020

Trung Luận

Chia Sẻ Về Thiền Tứ Niệm Xứ | Hòa Thượng Giới Đức 16-5-2020

Tứ cú lục bát “THÁNG BẢY, CHỒI ĐÂM LỘC NẨY”

Nhiệm Vụ Hoằng Pháp Của Vị Sứ Giả Như Lai

Hãy thử tìm một giải pháp – chỉnh đốn lại chính ta và cơ cấu tổ chức trước sự phân hoá chia rẽ!

Buông Bỏ Dính Mắc Cuộc Đời

Phát triển nền kinh tế thị trường từ góc nhìn đạo Phật

Xứ Phật Tình Quê – Thích Hạnh Nguyện; Thích Hạnh Tuấn

Một chút lan man

Làm sao để biết kinh nào do chính Đức Phật thuyết giảng?

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 9)

Phải chăng Trung Quốc cũng muốn bình thường hóa mối bang giao với Phật Giáo Tây Tạng?

Niệm Phật Kiếm (Sự Tích Ngài Cưu Ma La Thập)

Kệ Tiểu Sử Phật

Đồng Tính Luyến Ái Trong Truyền Thống Phật Giáo Nhật Bản Dharmachari Jñanavira – Talawas Lược Dịch

Bởi đọc kinh mà không hiểu kinh

Phật Giáo Như Là Một Triết Học Hay Một Tôn Giáo

Tin mới nhận

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 340)

Luận Thích Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 136)

Tôi học Kinh Đại bát Niết bàn (5)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 170)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 52)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 360)

Nghi Thức Tụng Niệm Trong Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 04)

Bẩy Loại Vợ, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Bài Kinh Về Lòng Từ Tâm

Chú Giải Kinh Nhân Quả Ba Đời

Dẫn Luận Kinh Tạp A-hàm

Kinh Chánh Kiến – Sammādiṭṭhisuttaṃ (song ngữ Vietamese-English)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 204)

Cho tôi bát nước

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 69)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 07)

Hạnh Phúc Và Đau Khổ, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Bộ Chú Giải Kinh Pháp Cú: Trọn Bộ 4 Quyển

Tin mới nhận

Con Đường Tây Phương

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 34)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 128)

Chương 1 bài 2 mục 5 Khuyến khích người tu hành nỗ lực (08/05/2022)

Niệm Và Niệm Phật

Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp

Chân tướng cũa người niệm Phật không được vãng sanh

Lễ Tang Đại Lão Ht Thích Trí Tịnh – Ngày 2 – 3 – 4 – 5 (Sen Việt Tv Tường Trình)

Những Điều Cần Biết Hộ Niệm Vãng Sanh Tây Phương

Làm Thế Nào Để Làm người Tốt Như Pháp (Tập 6)

Tây Phương Xác Chỉ

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 25)

Đọc sách ngàn lần – Tập 1

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 80)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 165)

Ý niệm sai lầm

Lá Thư Tinh Độ

Ban Tổ Chức Lễ Tang Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Niệm Phật Tam Muội

Những Suy Ngẫm Để Biết Tôn Kính Pháp Môn Tịnh Độ

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.