PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Giới hạn của ngôn ngữ

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

Nguyệt  Xứng
GIỚI HẠN CỦA NGÔN NGỮ
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. ( pp.177-179)

 

Hoa Vo UuMột kẻ có thể phản đối: Nếu chư Phật đã dạy rằng ngã chẳng hiện hữu, rằng ngã chẳng phi hiện hữu, vậy thì chư Phật đã dạy gì? Lời đáp là :

XVIII.7  Khi chẳng có đối tượng của tâm thì chẳng có cái gì cho ngôn ngữ quy chỉ tới. Pháp tính của các sự vật chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt, cũng như niết bàn chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt.

Điều này có nghĩa là nếu có một cái gì thật (vastu; sự) cho ngôn ngữ nói đến thì có thể có thuyên giải (hiểu rõ và giải thích rõ; desyeta). Tuy nhiên, khi cái gì mà ngôn ngữ quy chỉ tới không có nữa, khi đó không có đối tượng (visaya) để cho các phát biểu quy chỉ tới, thế nên cũng không được thuyên giải bởi chư Phật. Tại sao ngài Long Thọ nói chẳng có một cái gì để cho ngôn ngữ quy chỉ tới ? Bởi vì “Đối tượng của tâm thì không có nữa”. Đối tượng của tâm nghĩa là cái mà tâm (citta) có như là đối tượng của nó (gocara) . Đối tượng nghĩa là đối tượng bị chấp thủ trong tâm. Nếu có một đối tượng của tâm như thế, thì lúc đó, bằng cách tạm lập /giả lập một tướng trạng (nimitta) cho nó, hệ thống của ngôn ngữ (speech: system of language) có khả năng vận hành. Tuy nhiên, khi chẳng có đối tượng của tâm,  làm cách nào một tướng trạng được giả lập để hệ thống nào của ngôn ngữ sẽ vận hành?  Ngài Long Thọ giải thích rằng khi chẳng có đối tượng của tâm thì nó sẽ như thế nào khi ngài Long Thọ nói : “ Pháp tính cuả sự vật (dharmata; true nature of things) chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt, cũng như niết bàn chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt.

Vì pháp tính của các sự vật, được hiểu là tự tính của chúng, chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt, tương tợ như niết bàn, do thế tâm sinh diệt (discursive thought) không thể vận hành quan liên tới nó. Và nếu tâm / tâm niệm không vận hành, làm cách nào tướng trạng có thể bị giả lập vào các sự vật. Nếu sự giả lập tướng trạng này là cần có thì làm cách nào hệ thống của ngôn ngữ có thể vận hành? Chư Phật đã không thuyên giải một điều chi thế nên không thiết lập bất kì một cái gì bên ngoài các giới hạn của vấn đề cần giải đáp. Đó là tại sao ngài Long Thọ sẽ nói sau này (Trung Luận. Chương 25 Niết bàn kệ tụng 24): “Tất cả các thụ đắc [= các chấp thủ] cũng như sự trình diễn của các khái niệm [= trình bày biểu tượng] về phương diện căn bản ở trong bản chất của diệt tận và tịch tĩnh. Đức Phật chưa bao giờ giảng dạy bất kì yếu tố của kinh nghiệm với quan tâm tới bất kì ai tại bất kì nơi nào”.

Ông có thể nói, hãy xem như thế đi, nhưng phát biểu trước đây thì thế nào “ Các cấu trúc của tưởng trở thành một sự chấm dứt trong tính không / chân không diệu hữu (sunyata) ?  Làm cách nào có thể có một chấm dứt cho các cấu trúc của tưởng trong tính không (sunyata; absence of being) ? Câu trả lời là, ‘bởi vì cái mà ngôn ngữ quy chỉ tới thì đi đến một chấm dứt’; điều này nên được thông hiểu ở đây cũng như trước đây.

Vâng nhưng vậy phát biểu trước kia thì thế nào “ Nó là sự chấm dứt hoàn toàn ngã, và ngã sở  về phương diện cá nhân và hiện tượng qua sự chấm dứt không xem bất kì cái gì dù là phương diện cá nhân hoặc hiện tượng, là thật trong tính biệt thù của nó đó là chân lí của các sự vật đối với chúng ta ? Có thể nào nói một cách nhiều chính xác hơn chân lí của các sự vật (tattvam; truth) là gì ?

Đối với giòng tụng “ Khi chẳng có đối tượng của tâm thì chẳng có gì cho ngôn ngữ quy chỉ tới”,  nên được thêm vào, “ và đó là chân lí của sự vật” (tattvatah).

Và nếu, thêm nữa, ông hỏi: Lí do tại sao, trong chân lí của sự vật, cái ngôn ngữ quy chỉ tới thì chẳng còn khi đối tượng của tâm chẳng còn ? Ngài Long Thọ nói “ bởi vì pháp tính các sự vật chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt, như niết bàn chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt. Sự giải thích trước đây phù hợp một cách chính xác ở đây.

Như  có nói trong  Như Lai Bí Mật Kinh (Tathagataguhyasutra) :

“ Này Tịch Huệ (Santamati), trong đêm khi Như Lai thành chính đẳng chính giác với vô thượng quang minh toàn hảo chiếu diệu, trong đêm khi ngài thành tựu tự do toàn hảo, trong suốt thời gian này Như Lai đã chẳng nói hoặc tuyên bố dù chỉ một âm. Đức Phật đã giảng dạy thông điệp trong nhiều cách khác nhau tới tất cả các hữu tình được hướng dẫn, tới chư thiên, các loài qủy, loài người, kinnaras (khẩn nala), các thánh giả, các Minh Trì (Vidhyadharas), và các loài rồng. Bằng diệu âm của tiếng hống trong sát na cất lên ngài xoá sạch bóng tối từ các tâm trí của loài người, ngài đánh thức đoá sen của giác ngộ trong nhiều sắc tướng của nó, ngài làm khô cạn hết đại hải của già và chết và ngài làm chưng hửng muôn vàn tia sáng [tàn tạ hiu hắt] của bảy mặt trời  đang chiếu vào thời kì chấm dứt của một thời kiếp vũ trụ ”.

Và từ Chính định vương kinh / Nguyệt đăng tam muội kinh (Samadhirajasutra):

“Khi Đức Phật, thánh giả, quốc vương của chân lí, vị khai hiển của tất cả các chân lí xuất hiện, điệp khúc thì được vang lên từ cây cỏ, cây con và cây lớn và cây nhỏ, từ sỏi đá và các núi non: tất cả các tập hợp của đời sống đều là tính không / tính chân không diệu hữu”

“Bất kì xa xôi cách nào chỉ thuần các đơn vị chữ viết, lời nói vươn tới cõi thế tục, tất cả đều là tính không/ tính chân không diệu hữu, chẳng có cái chi là thật [thật = chẳng biến dịch]; và  vang xa là tiếng gọi của đức Phật, vị hướng dẫn và vị thầy của tất cả loài người”.

————-

The limitation of  language

*

Someone may object: If the illustrious Buddhas taught neither that the self exists nor that the self does not exist, what then did they teach? The reply is:

XVIII.7  When the object of thought is no more there is nothing for  language to refer to. The true nature of things neither arises nor perishes, as nirvana does not.

This means that if there were something real (vastu) for language to refer to there could be didactic argument (desyeta). When, however, what language refers to is no more, when there is no object (visaya) for utterances to refer to, then there is no didactic argument by the Buddhas whatever. Why does Nagarjuna say there is nothing for language to refer to? Because “The object of thought  is no more”. Object of thought means  what thought (citta) has as its objects (gocara). Object means the object grasped in thought. If there were such an object of thought, then, by imputing a specific character (nimitta) to it, speech would be able to function. When, however, no object of thought exists, how can specific character be imputed by which speech would function? How it is that there is no object of thought Nagarjuna explains when he says: “The true nature of things (dharmata) neither arises nor perishes, as nirvana does not.”

As the true nature of things, understood as their inherent, self-existent nature, their ur-nature, does not arise nor perish, like nirvana, so discursive thought cannot function with respect to it. And if thought does not function how can specific character be imputed to things? And if this is wanting how can speech function? That the illustrious Buddha have didactically argued nothing whatever is therefore established beyond question. That is why Nagarjuna will say later, “ Beatitude is the coming to an end of taking things in their particularity, the coming to an end of the manifold of named things. No doctrine about anything at all has been taught by Buddha at any time” .

Let it be so, you may say, but what of the earlier statement “ The manifold of named things comes to an end in the absence of being” How can there be an end to named things in the absence of being (sunyata) ? The reply is, “ because what language refers to has come to an end”; this should be understood here  as it was earlier.

Well but what about the earlier statement “ It is the utter cessation of  I-ing and mine-ing in both personal and non-personal regard through ceasing to take anything whatsoever , whether personal or non-personal, as real in its particularity that is for us the way things are really” ? It is possible to say more precisely what the way things really (tattvam) is?

To the line “ When the object of thought is no more there is nothing for language to refer to’’ should be added ‘and that is the way things really are’ (tattvatah).

And if, further, you ask: What is the reason why, in that real way of things, what language refers to is no more when the object of thought is no more? Nagarjuna says ‘because the true nature of things neither arises nor perishes, as nirvana does not’. The exposition gives earlier fits here precisely.

As is said in the Tathagataguhya Sutra: ‘O Santamati, in the night when the Tathagata (Buddha) became perfectly enlightened with the unsurpassable perfection of illumination, during the night when he attained perfect freedom, during this time the Tathagata neither uttered nor enunciated even one syllable. The illustrious one taught the message in different ways to all being who are to be guided, to gods, demons, men, Kinnaras, the saints, Vidhyadhara and serpents. By the utterance of one moment cry he banishes the darkness from men’s minds, he awakens the lotus of enlightenment in its many forms, he dries up the ocean of old age and death and he confounds the multitudinous rays of the seven suns which shine at the end of a cosmic age.’

And from the Samadhirajasutra: ‘When Buddha, the sage, the king of truth, the revealer of all truths appears, the refrain is sounded from grass and bush and tree and plants, from the rocks and the mountains: all element of existence are without being’.

“Howsoever far mere words reach in the world realm, all are without being, none is real; and so far resounds the call of the realized one, the guide and teacher of all men.’

 

———-

wanting: pred.adj. : lacking; not having; needing

Chú thích 1

Trong bản Anh, kệ  tụng XXV.24 được dịch khác nhau ở trang 178 ( mà  bản Việt đang dịch) và  ở  trang 262

Chương XXV. Niết Bàn (p. 262)

24. Ultimate beatitude is the coming to rest of all ways of taking things * , the repose of named things; no Truth has been taught by a Buddha for anyone, anywhere.

Note from English translation

Note  *sarvopalambhopasama. It is not merely that ways of thinking  about things change in nirvana, but that the everyday  way of perceiving, or taking, things ceases to function  (p.262)

Trang 178

24. “Beatitude is the coming to an end of taking things in particularity, the coming to an end of manifold of named things. No doctrine about anything at all has been taught by Buddha at any time. 

sarvopalambhopasama: the cessation of all objectification: sự chấm dứt của tất cả sự đối tượng hoá

prapancopasama: cessation of conceptual diversity: sự chấm dứt của tất cả các sự phân biệt hữu niệm.

Trong bản Việt, kệ tụng này được dịch theo bản dịch Trung Luận Sanskrit- English của Kenneth K. Inada

All acquisitions (i.e., grasping) as well as play of concepts (i.e., symbolic representation) are basically in the nature of cessation and quiescence. Any factor of experience with regards to anyone at any place was never taught by the Buddha.

Tất cả các thụ đắc /các chấp thủ cũng như sự trình diễn của các khái niệm (trình bày biểu tượng) về phương diện căn bản ở trong bản chất của diệt tận và tịch tĩnh. Đức Phật chưa bao giờ giảng dạy bất kì yếu tố của kinh nghiệm với quan tâm tới bất kì ai tại bất kì nơi nào.

——-

Chú thích 2. Cấu trúc của tưởng.

Lược trích từ : Đức Đạt Lai Lạt Ma. Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí. Bài 3.

Cấu trúc của tưởng cũng có thể quy chiếu đơn giản về hiện hữu.

(Elaboration can also refer simply to existence)

Sau cùng nói đến, chúng ta tìm thấy thuật ngữ cấu trúc của tưởng trong ngữ cảnh gọi là cấu trúc của tưởng về tám cực đoan: sinh và diệt, đoạn và thường, đi và đến, và một và khác. Thế nên thuật ngữ cấu trúc của tưởng có thể nói về nhiều sự-sự vật-vật.

Trong ngữ cảnh ở đây, cấu trúc của tưởng hữu niệm quy chiếu về tâm chấp thủ vào hiện hữu có tự tính của các hiện tượng. Khi ngài Long Thọ viết ở đây rằng cấu trúc của tưởng hữu niệm này “chấm dứt xuyên qua tính không”, ngài ý nói rằng trí tuệ thực chứng tính không—và không phải chính tính không – chống lại một cách trực tiếp cách thế thông hiểu về chấp thủ.

(In the context here, conceptual elaboration refers to the mind that grasps at the inherent existence of phenomena. When Nagarjuna writes here that this conceptual elaboration “ceases through emptiness” , he means that the wisdom that realizes emptiness – and not emptiness itself – counters directly the mode of apprehension of grasping).

Ignorance grasps at the inherent existence of all phenomena, whereas the wisdom realizing emptinessnegates the inherent existence of phenomena)

[*Chú thích của dịch giả bản Anh ngữ, Thupten Jinpa –Trong cách chia thành hai về đối tượng của phủ định — đối tượng của phủ định của con đường tu tập và đối tượng của phủ định của tiến trình suy lí — cấu trúc của tưởng trong hình thức của chấp thủ vào hiện hữu xác thực thì đa số là đối tượng của phủ định của con đường tu tập. Sự cấu trúc của tưởng như thế là một trạng thái tinh thần, đó là lí do được nói nơi đây rằng, chính là sự thực chứng tính không, và không phải chính tính không, dẫn tới sự diệt tận]

Vô minh chấp thủ vào hiện hữu có tự tính của tất cả các hiện tượng, trong khi đó trí tuệ thực chứng tính không phủ định hiện hữu có tự tính của các hiện tượng.

(Ignorance grasps at the inherent existence of all phenomena, whereas the wisdom realizing emptinessnegates the inherent existence of phenomena)

Cả hai đặt tiêu điểm trên cùng một đối tượng, nhưng chúng tương quan với đối tượng theo cách thức đối nghịch nhau rõ rệt. Như vậy, chính là do thực chứng tính không mà sự chấp thủ bị xoá bỏ.

————

Phụ Bản

Trung Luận  XXIV. Quán Bốn chân lí cao quý

XXIV.18. We declare that whatever is relational origination is sunyata. It is provision name (i.e., thought construction) for the mutuality (of being) and indeed, it is the middle path .

XXIV.18. Chúng tôi tuyên bố bất kì cái gì do duyên khởi đều là tính không (sunyata). Nó là một tên tạm đặt (nghĩa là kiến lập do tâm niệm) cho tính hỗ tương của các hiện thể và thật vậy, nó là trung đạo

 (Bản Sanskrit- English: Kenneth K. Inada)  

Tin bài có liên quan

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

Ý Tưởng Của Phật Giáo Cho Tiến Trình Xây Dựng Hòa Bình Thế Giới Hiện Nay

Ý tưởng của Phật giáo cho tiến trình xây dựng hòa bình thế giới hiện nay

Ý Thức – Vô Thức

Ý Thức – Vô Thức

Ý Niệm Tung Hoành Trong Mê Lộ Của Tâm

Ý Niệm Niết Bàn Trong Đạo Phật

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-La Ở Gandhara

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-Hàm

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-hàm

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Load More

Discussion about this post

Sống với câu hỏi

SỐNG VỚI CÂU HỎI Nguyễn Xuân Chiến   NHỮNG NĂM THÁNG THAO THỨC   Ai lớn lên mà không có...

Kinh A Di Đà, Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thành

KINH PHẬT THUYẾT A DI ĐÀHán dịch: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La ThậpViệt dịch: Ban Phiên...

Đi Đứng Nói Cười Trong An Vui Tự Thân

Đi đứng nói cười trong an vui tự thân

Hàng ngày, ta nói nhiều lắm, từ lúc thức dậy cho đến lúc đi ngủ, ta nói với người trong...

Phật Tánh trong “Phật sẽ thành”

PHẬT TÁNH TRONG “PHẬT SẼ THÀNH”TN Huệ Trân             Dù là Phật tử hay ngoại đạo, có lẽ ít...

Vai Trò Của Tứ Nhiếp Pháp Trong Vấn Đề Hoằng Pháp Hiện Nay

Vai trò của tứ nhiếp pháp trong vấn đề hoằng pháp hiện nay

VAI TRÒ CỦA TỨ NHIẾP PHÁP TRONG VẤN ĐỀ HOẰNG PHÁP HIỆN NAYThích Trung Định           ...

Đại lễ Phật Đản và tính đảng

ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN VÀ TÍNH ĐẢNGNhóm phóng viên (RFA) tường trình từ Việt Nam 2015-05-31(Bài viết lưu trữ chưa...

Mong Sao Có Thêm Nhiều Phật Tử Tuyệt Vời Như Michael

Mong sao có thêm nhiều Phật tử tuyệt vời như Michael

MONG SAO CÓ THÊM NHIỀU PHẬT TỬ TUYỆT VỜI NHƯ MICHAEL Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng Như bạn biết đấy,...

Chùm Ảnh: Rực Rỡ Cờ Hoa Diễu Hành Đạp Xe Của Ttn Phật Tử Thủ Đô

Chùm Ảnh: Rực Rỡ Cờ Hoa Diễu Hành Đạp Xe Của Ttn Phật Tử Thủ Đô

Trở về mục lục● Đại Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2014 Chùm ảnh: Rực rỡ cờ hoa diễu hành...

Thập Thiện Nghiệp

THẬP THIỆN NGHIỆPHT. Thích Thiện Hoa(Trích từ Phật Học Phổ Thông) A. MỞ ĐỀ Thập Thiện Nghiệp là cội gốc...

Nhận Thức Về Thiền Học

Nhận thức về thiền học

Thích Thắng HoanNHẬN THỨC VỀ THIỀN HỌCPhật lịch 2564 – Dương lịch 2020   MỤC LỤC VÀO ĐỀI.- Ý NGHĨA...

Khói Lam Cuộc Tình

Khói lam cuộc tình

KHÓI LAM CUỘC TÌNH Toại Khanh Mùa Vu Lan, đọc báo trong nước thấy thiên hạ bây giờ bỗng khoái...

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 112)

Chư vị đồng học, xin chào mọi người!Trên bàn có một số câu hỏi của các đồng học, chúng tôi...

Chuyện Thay Tên Lý Thú Của 2 Ngôi Chùa Ở Nha Trang

Chuyện thay tên lý thú của 2 ngôi chùa ở Nha Trang

CHUYỆN THAY TÊN LÝ THÚ CỦA 2 NGÔI CHÙA Ở NHA TRANG                    Dựa theo những Hán tự khắc...

Năng Lượng Tâm Thành Văn

 NĂNG LƯỢNG TÂM Thành Văn    Nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng với những yêu cầu của khoa...

Ai Vào Địa Ngục

Ai Vào Địa Ngục

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Sống với câu hỏi

Kinh A Di Đà, Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thành

Đi đứng nói cười trong an vui tự thân

Phật Tánh trong “Phật sẽ thành”

Vai trò của tứ nhiếp pháp trong vấn đề hoằng pháp hiện nay

Đại lễ Phật Đản và tính đảng

Mong sao có thêm nhiều Phật tử tuyệt vời như Michael

Chùm Ảnh: Rực Rỡ Cờ Hoa Diễu Hành Đạp Xe Của Ttn Phật Tử Thủ Đô

Thập Thiện Nghiệp

Nhận thức về thiền học

Khói lam cuộc tình

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 112)

Chuyện thay tên lý thú của 2 ngôi chùa ở Nha Trang

Năng Lượng Tâm Thành Văn

Ai Vào Địa Ngục

Tin mới nhận

Tu theo Phật trước hết phải hiểu Phật (II)

Phật dạy: Bí quyết cho giấc ngủ ngon

Đức Phật dạy thế nào là người vợ lý tưởng?

Da Du Đà La người vợ nhiều kiếp của Đức Phật là ai?

Đức Phật – Ngài là một vầng dương bừng chiếu, muôn đời tỏa sáng nhân gian

Báo cáo tâm đắc về việc học tập Nữ Đức (Tập 2)

Biết sự hơn kém của người

Quét sân chùa

BÁC SĨ TRƯƠNG TÚ MẪN SÁM HỐI VỀ VIỆC NHẬN TIỀN PHONG BÌ

Hàng ngày ngồi thiền, đọc kinh có thể thành Phật được không?

Lời Phật dạy về lòng tham của con người

Cây cổ thụ Phật giáo

Phật dạy: Chơn tâm phi tất cả tướng

Những câu chuyện của các bậc thiền sư đáng suy ngẫm

Ca sĩ Nguyễn Trần Trung Quân xúc phạm Đức Phật hay không?

Tình yêu lứa đôi dưới góc nhìn Phật giáo

Đức Phật và câu chuyện “cày ruộng và gieo hạt”

Đức Phật có phủ nhận việc cầu nguyện?

Phật dạy: Có hai hạng người lo toan ở đời

Có niềm tin ở Đức Phật là đã gieo được quả ngọt

Tin mới nhận

Những người qua đời, đi về đâu? (song ngữ)

Thế Giới Vang Ca

Duyên-sinh (1) (Tức: Phật Thuyết Đại-thừa Đạo-can Kinh)

Giáo Lý Trích Lục 1

Khéo dạy con

Bảo vệ trái đất bài 6: bảo vệ trái đất bắt đầu từ mỗi người chúng ta

Đi nhiều khó tu

Nghiệp Và Điện-thoại Thông-minh: Quan Điểm Phật Giáo Về Việc Xử Dụng Kỹ-thuật, Như Thế Nào? (song ngữ)

Phá giới, phá chấp và phá kiến

Con Người Do Mê Lầm Nên Sống Trong Đau Khổ

Công đức – chuyện một dòng tiền không kiểm toán

Cali đang mưa

Nếu Như Thật Thà – Lưu Đình Long

Tri Túc Và Làm Giàu Có Mâu Thuẫn Không? Huyền Ngu – Quảng Tánh

Vài Suy Nghĩ Về Tinh Thần Nhật Bản – Nguyễn Văn Nhật

Suy Niệm Về Vô Thường

Tận dụng khi được thân người & bí quyết tu hành

Nguyệt san Chánh Pháp số 35

Trung Đạo – Đức Đạt Lai Lạt Ma Bài 4

“Cầu Pháp”

Tin mới nhận

Kinh Bách Dụ: Hai người con chia của

Giới Thiệu Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta)

Kinh TissaMetteyya (Kinh xa lìa ái dục)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 8)

Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực Chỉ Đề Cương

Kinh Phật dạy các Tỳ kheo trẻ

Lời Đức Phật

Kinh Kalama Anh – Việt

Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 (Tập 7)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 274)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 16)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 266)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 232)

Kinh Bách Dụ: Ngậm cớm bị rạch miệng

Về việc dịch Tam Tạng Pali sang tiếng Việt

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 87)

Pháp Hoa Huyền Nghĩa

Tư tưởng Phật giáo trong kinh tạng Pali về chủ nghĩa nhân văn và giáo dục pháp hành Phật giáo

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 227)

Tin mới nhận

Tiểu luận về Phật A Di Đà

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 298)

Báo cáo tâm đắc về việc học tập Nữ Đức (Tập 2)

Tuệ Quán Nẻo Về Chân Như

Học Phật chớ nên hồ đồ, ngộ nhận…

Đức Phật A Di Đà Là Ai

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 223)

Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục

Cáo Phó

Văn Phát Nguyện Sám Hối

Điện Thư Chia Buồn Đlht. Thích Trí Tịnh Viên Tịch Của Các Tổ Chức Phật Giáo Quốc Tế

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 126)

Ý Nghĩa Niệm Phật

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 4)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 34)

Phật thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (tập 53)

Chia Sẻ Tâm Đắc Học Tập Đệ Tử Quy (Tập 10)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 274)

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 13)

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 28)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.