PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Chơn Tâm Trực Thuyết

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter


CHƠN TÂM TRỰC THUYẾT

Thiền Sư Phổ Chiếu – Thích Đắc Pháp dịch
Tu Viện Chơn Không xuất bản 1973

MỤC LỤC

Lời Giới Thiệu
Tiểu sử Thiền Sư Phổ Chiếu
Tự
CHƠN TÂM TRỰC THUYẾT
1. Chánh tín Chơn Tâm
2. Tên khác của Chơn Tâm
3. Diệu thể của Chơn tâm
4. Diệu dụng của Chơn tâm
5. Thể đụng của Chơn tâm một hay khác?
6. Chơn tâm trong mê
7. Chơn tâm và sự dứt vọng
8. Chơn tâm với bốn oai nghi
9. Chỗ ở của chơn tâm.
10. Chơn tâm và việc sanh tử
11. Chơn tâm và chánh trợ
12. Công đức của chơn tâm
13. Kinh nghiệm chơn tâm
14. Chơn tâm vô tri
15. Chỗ trụ của chơn tâm
TU TÂM QUYẾT

LỜI
GIỚI THIỆU

Quyển CHƠN
TÂM
TRỰC THUYẾT
là một quyển Luận sắp vào chương trình
học tại Tu Viện CHƠN KHÔNG. Quyển Luận này về hình lượng
rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một
hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy
lối vào Đạo.

Thiền Sư
Phổ CHiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh.
Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông
mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai. Với
chủ trương ĐỊNH TỨC HUỆ, HUỆ TỨC ĐỊNH, Ngài làm sáng
tỏ
đường lối tu hành của Thiền Tông.

Thích Đắc
Pháp
, một Thiền sinh trong Tu Viện CHƠN KHÔNG, với thời gian
ba năm tu học tại đây, đã nỗ lực hạ thủ công phu, lại
tiếp tay với chúng tôi phiên dịch những tác phẩm cần thiết
cho Tu Viện. Tuy nhiên, một dịch phẩm đầu tiên được ra
mắt đọc giả, hẳn là không tránh khỏi một vài điểm sơ
sót. Nhưng đáng khích lệ, dịch giả đã cố gắng nhiều
trong công tác này.

Cần
có tài liệu cho Thiền sinh tại Tu Viện học tập, cũng thiết
yếu đối với hành giả không có duyên đến Tu Viện và những
học giả đang nghiên cứu Thiền Tông, nên Tu Viện chúngtôi
cho xuất bản quyển sách bé nhỏ này.

Quyển
sách này ra đời nhằm lúc phong trào học Thiền đang lên ở
Việt Nam. Chúng tôi tin rằng đọc giả có thiện chí tham cứu
Thiền Tông, chịu khó đọc kỹ quyển sách này, sẽ thấy
nó đóng góp một phần không nhỏ cho quí vị trong những vấn
đề
khó khăn nhất lâu nay chưa giải quyết được. Nhất
là, những vị hiểu thiền lý mà không biết làm sao thực
hiện
(thiền hạnh). Quí vị chịu khó nghiền ngẫm chính chắn
trong đây, tự nhiên thấy cửa thiền sẽ mở rộng, mặc tình
tiến bước.

Vì
thấy sự lợi ích lớn lao của quyển sách này, nên chúng
tôi
viết ít hàng giới thiệu cùng đọc giả.

THÍCH
THANH TỪ

TU VIỆN
CHƠN KHÔNG

đầu
Xuân 1973

TIỂU
SỬ
THIỀN SƯ PHỔ CHIẾU


(1158-1210)

Ngài
Phổ Chiếu là bực Tôn túc của Phật Giáo và cũng là thỉ
tổ Thiền Tông ở Triều Tiên vào triều Lý. Phật Giáo Triều
Tiên
khoảng trung diệp triều Lý có thể nói là thời đại
hoàng kim. Hàng thượng lưu thì xu hướng giáo quán của Ngài
Đại Giác. Dân gian thì xu hướng theo pháp “định huệ gồm
tu” do sự dẫn dắt của Thiền Sư Phổ Chiếu. Hai vị này
được xem là hai đại lương đống của Phật Giáo Cao Ly.

Hai quyển
“Chơn Tâm Trực Thuyết” và “Tu Tâm Quyết” này chẳng
qua chỉ là hai tác phẩm nhỏ do Ngài Phổ Chiếu trước tác.
Tuy nhỏ nhưng rất có giá trị và được kết tập vào Đại
Tạng Kinh
.

Về Thiền
Tông
, Ngài chủ trương: “Định tức huệ, huệ tức định”.
Nhưng đặc biệt chú mục nơi “Định huệ gồm tu”.

Ngài Phổ
Chiếu
húy là Trí Nột, họ Trinh, hiệu Mục Ngưu Tứ. Quê
Ngài ở ĐộngChâu, Kinh Tây (ngày nay là quận Thụy Hưng, Hoàng
Hải Đạo). Ngài sanh vào năm thứ 17 đời vua Nghị Tông Cao
Ly. Thuở nhỏ, Ngài rất nhiều bịnh hoạn. Cha là ông Quang
Ngộ thường đi chùa cầu hết bịnh cho Ngài. Tám tuổi Ngài
được Thiền Sư Huy thuộc Tào Khê Tông thế độ. Tuy là ở
với thầy thường, nhưng chí khí Ngài cao xa vượt chúng. Hai
mươi lăm tuổi Ngài được tuyển làm tăng. Rồi sau đó Ngài
đi về phương Nam đến Xương Bình ở lại chùa Thanh Nguyên.

Một hôm,
nơi phòng học Ngài đọc Lục Tổ Đàn Kinh ngộ được “Thể
dụng của chơn như tức là định huệ”. Do đấy nên Ngài
bỏ hết ý niệm danh lợi, ưa thích ở rừng núi u-nhã.

Đời vua
Minh Tông năm thứ mười lăm, Ngài đi xuống vùng núi Kha Sơn
ngụ tại chùa Phổ Môn để nghiên cứu Đại Tạng. Năm thứ
hai mươi bảy Ngài ẩn cư tại Vô Trụ am, ở Trí Dị sơn
(nay là Khánh Thượng, Nam Đạo). Nơi đây cảnh trí u tịch
thật là cảnh tu thiền. Một hôm, Ngài đọc Hoa Nghiêm luận
của Lý Thông Huyền, Ngài biết yếu chỉ viên đốn của giáo
lý
Hoa Nghiêm cùng yếu chỉ Thiền Tông quyết không trái nhau.
Lại đọc Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự của Ngài Khuê
Phong
, cùng ngữ lục của Ngài Đại Huệ, Ngài bỗng nhiên
“khế hội”. Xác chứng rằng định huệ không thể thiên
phế.

Niên hiệu
Thần Tông năm thứ ba, Ngài dời về chùa Kiết Tường ở
Tùng Quảng Sơn, tu thiền đàm đạo mười một năm và chuyên
an cư trong luật của Phật. Ngài thường khuyên người tụng
Kinh
Kim Cang. Ngài còn giảng Lục Tổ Đàn Kinh, Đại Huệ Ngữ
Lục
để phát huy tông yếu. Sau đó thiền học được hưng
khởi, người tham học càng ngày càng đông. Ngài lấy “Định
huệ gồm tu”, tổng hợp Hoa Nghiêm, Thiên Thai và Thiền Tông,
nhưng trong ấy Ngài đặc biệt làm sáng tỏ Thiền Tông.

Ngài còn
xây dựng Bạch Vân Tịnh xá và Tích Thúy Am ở núi Bảo Sơn,
Khuê Phong Lan Nhã và Tổ Nguyệt Am ở Thụy Thạch Sơn làm
chỗ vãng lai tu thiền. Nhà Vua rất kính trọng đức hạnh
của Ngài và đổi hiệu núi Ngài ở là Tào Khê sơn Tu Thiền
Xã. Lại còn tự đề bảng để ban cho. Ngài còn lập Định
Huệ
Xã và tuyển “Định Huệ Kiết Xã Văn”.

Vào tháng
hai đời vua Hi Tông năm thứ sáu, Ngài bỗng nói với Xã Chúng
rằng: “Ta còn trụ thế chẳng bao lâu nữa, các người phải
nỗ lực”. Ngày 20 tháng 3 hiện có chút bịnh, đến ngày
27, Ngài mặc y hậu và vào pháp đường, chúc hương thăng
tòa, vấn đáp xong, Ngài ngồi dan chơn ra bỗng nhiên thị tịch.

Nhà Vua nghe
tin
, ban thụy hiệu là Phật Nhật Phổ Chiếu Quốc Sư. Tháp
hiệu là Cam Lộ. Ngài hưởng thọ 53 tuổi, tuổi đạo được
36 hạ. Trước tác của Ngài ngoài hai tác phẩm này còn “Khuyến
tu định huệ kiết xã văn”, “Khán thoại quyết nghi luận”,
“Viên đốn thành Phật luận”. Ngoài ra còn “Chú thích
Đại Huệ Thiền Sư thơ”, “Phê bình Khuê Phong Thiền Sư”
v.v…

TỰ

Hỏi:
Diệu đạo của Tổ Sư có thể được biết không?

Đáp:
Người xưa há chẳng nói: “Đạo chẳng thuộc biết cùng
chẳng biết”. Biết là vọng tưởng, còn chẳng biết là
vô ký. Nếu đạt đến địa vị chẳng nghi, thì rỗng suốt
như thái hư, há có thể gán cho là phải quấy ư?

Hỏi:
Thế thì chư Tổ ra đời không ích lợi cho quần sanh sao?

Đáp:
Phật, Tổ ra đời không có một pháp cho người, chỉ cần
yếu
là chúng sanh phải tự thấy bản tánh của mình. Kinh
Hoa Nghiêm
nói: “Biết tất cả pháp tức là tự tánh của
tâm, sự thành tựu huệ thân chẳng do nơi khác mà ngộ”.
Cho nên Phật, Tổ không khiến người mắc lầy trong văn tự,
chỉ cần yếu phải thôi dứt để thấy bản tâm mình. Do
đó nhập môn Đức Sơn liền bị đánh, nhập môn Lâm Tế
liền nhận hét. Đã là một sự dò xét thái quá như thế,
sao lại lập ngữ ngôn ư?

Hỏi:
Xưa nghe Ngài Mã Minh tạo luận Khởi Tín, Lục Tổ nói Đàn
Kinh
, Hoàng Mai truyền Bát Nhã, đều là dùng tiệm thứ cho
người, đâu không dùng phương tiện chỉ pháp ư?

Đáp:
Trên đảnh núi Diệu Cao từ xưa tới nay chẳng cho thương
lượng
. Nhưng đầu non thứ hai, chư Tổ tóm lược dung hòa
cho nói cho hiểu.

Hỏi:
Xin hỏi đầu non thứ hai là lược bày phương tiện ư?

Đáp:
Đúng thay lời nói này. Đạo lớn mầu nhiệm mà rộng rãi,
chẳng phải có chẳng phải không. Chơn tâm u vi dứt nghĩ dứt
bàn. Cho nên người chẳng từ cửa đó mà vào, tuy tìm xét
năm ngàn tạng giáo cũng chẳng là người thấu suốt chơn
tâm
. Chỉ nói ra một lời để so sánh thì sớm trở thành
pháp dư thừa. Nay chẳng tiếc mi mao (lông mày) kính viết mấy
chương để phát minh chơn tâm, hầu làm căn bản lần hồi
vào Đạo.


CHƠN
TÂM
TRỰC THUYẾT

1.
Chánh tín Chơn Tâm

Kinh
Hoa Nghiêm
nói: “Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của các
công đức hay nuôi lớn tất cả căn lành”. Trong Duy Thức
cũng nói: “Tín như hạt châu thủy thanh, hay làm cho nước
dơ được sạch”. Cho nên, muôn điều thiện phát sanh là
chữ tín dẫn đầu. Vì thế kinh Phật trước hết lập “như
thị ngã văn” là cốt để sanh lòng tin vậy.

Hỏi:
Chữ tín của Giáo môn (Kinh) và chữ tín của Tổ môn (Thiền)
có gì sai khác?

Đáp:
Có nhiều loại sai khác nhau: Giáo môn khiến người, trời
tin ở nhơn quả. Như có người thích phước lạc, tin thập
thiện
là diệu nhơn, cõi người cõi trời là lạc quả. Có
người thích không tịch, tin nhơn duyên sanh diệt làm chánh
nhơn, khổ tập diệt đạo làm thánh quả. Có người thích
Phật quả, tin ba kiếp sáu độ làm đại nhơn, bồ đề niết
bàn
làm chánh quả.

Tổ
môn chánh tín chẳng đồng như trên. Tổ môn chẳng tin tất
cả pháp hữu vi nhơn quả. Chỉ tin ở tự mình xưa nay là
Phật, tự tánh thiên chơn người người đều đầy đủ.
Diệu thể của niết bàn mỗi mỗi đều viên thành, chẳng
nhờ cầu nơi người khác, từ xưa đến nay nó tự đầy
đủ. Tam Tổ nói: “Tròn bằng thái hư, không thiếu không
dư. Sở dĩ chẳng như, bởi do thủ xả”. Ngài Chí Công nói:
“Trong thân có tướng là thân không tướng, trên đường
vô minh là đường vô sanh”. Ngài Vĩnh Gia nói: “Thật tánh
của vô minh là Phật tánh, thân huyễn hóa không thật tức
pháp thân”. Cho nên, chúng sanh xưa nay là Phật.

Đã
sanh chánh tín cần phải thêm hiểu biết nữa mới được.
Ngài Vĩnh Minh nói: “Tin mà chẳng hiểu biết thì thêm lớn
vô minh. Hiểu biết mà chẳng tin thì thêm lớn tà kiến”.
Cho nên, tin hiểu gồm hai thì mau vào Đạo.

Hỏi:
Mới phát lòng tin chưa được vào Đạo, có lợi ích chăng?

Đáp:
Trong luận Khởi Tín nói: “Nếu nghe pháp này mà chẳng sanh
khiếp nhược, thì nên biết, người này nhất định sẽ nối
hạt giống Phật, và được chư Phật thọ ký cho. Thí như
có người giáo hóa chúng sanh đầy khắp tam thiên đại thiên
thế giới
, khiến họ hành thập thiện, chẳng bằng có người
đối với pháp này khoảng một niệm chánh tư duy thì công
đức
cũng hơn người trước không thể thí dụ được”.
Trong Kinh Bát Nhã nói: “Cho đến người chỉ sanh một niệm
tịnh tín, Như Lai trọn thấy biết các chúng sanh này được
vô lượng phước đức như vậy”. Cho nên muốn đi ngàn dặm,
bước đầu cần phải chánh, bước đầu nếu sai ngàn dặm
đều sai. Vào nước vô vi, niềm tin ban đầu đã mất, muôn
thiện đều lui. Cho nên Tổ Sư nói: “Mảy may nếu sai, trời
đất ngăn cách”. Đấy là lý này vậy.

2.
Tên khác của Chơn Tâm

Hỏi:
Đã sanh chánh tín, nhưng chưa biết thế nào gọi là chơn tâm?

Đáp:
Lìa vọng gọi là chơn. Linh giám gọi là tâm. Trong Kinh Lăng
Nghiêm
đã nói rõ tâm này.

Hỏi:
Chỉ gọi chơn tâm thôi, hay có tên riêng khác nữa chăng?

Đáp:
Phật dạy, Tổ dạy lập danh không đồng nhau. Phật dạy trong
Bồ Tát Giới gọi là Tâm Địa, vì hay phát sanh muôn việc
thiện
. Kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề, vì lấy giác làm thể.
Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới, vì giao triệt và dung nhiếp.
Kinh Kim Cang gọi là Như Lai, vì không từ đâu đến. Kinh Bát
Nhã
gọi là Niết Bàn, vì là chỗ qui hướng của chư Thánh.
Kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như, vì chơn thường bất biến.
Kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân, vì là chỗ nương của báo
thân
và hóa thân. Luận Khởi Tín gọi là Chơn Như, vì chẳng
sanh chẳng diệt. Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là bản
thể
của ba thân. Kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì, vì mọi
công đức từ đó mà lưu xuất, Kinh Thắng Man gọi là Như
Lai Tạng
, vì ẩn phú và hàm nhiếp. Kinh Liễu Nghĩa gọi là
Viên Giác, vì hay chiếu phá mờ tối.

Do đây
nên Ngài Vĩnh Minh Thiền Sư trong Duy Tâm Quyết nói: “Một
pháp có ngàn tên, tùy theo duyên mà lập hiệu”. Tất cả
còn đầy đủ trong các Kinh, không thể kể ra hết được.

***

Hỏi:
Phật dạy đã biết, Tổ dạy như thế nào?

Đáp:
Cửa Tổ Sư dứt tuyệt danh ngôn, danh còn chẳng lập, sao lại
có nhiều tên? Chỉ vì ứng theo cơ duyên nên tên cũng lắm.
Có lúc gọi là Tự Kỷ, vì là bản tánh của chúng sanh. Có
lúc gọi là Chánh Nhãn, vì hay soi tướng của muôn loài. Có
lúc gọi là Diệu Tâm, vì hư linh và tịch chiếu. Có lúc gọi
là Chủ Nhơn Ông, vì xưa nay từng gánh vác. Có lúc gọi là
Đờn không dây, vì hiện nay ra điệu vận. Có lúc gọi là
Vô tận đăng, vì hay chiếu phá mê tình. Có khi gọi là Cây
không rễ, vì gốc rễ bền chắc. Có khi gọi là Suy mao kiếm,
vì hay chặt đứt căn trần. Có lúc gọi là Nước vô vi, vì
sóng êm bể lặng. Có lúc gọi là Mâu ni châu, vì hay giúp
đỡ người nghèo khó. Có lúc gọi là Vô nhu tỏa, vì cửa
sáu tình đóng. Cho đến nào là trâu đất, ngựa gỗ, tâm
nguyên
, tâm ấn, tâm cảnh, tâm nguyệt, tâm châu,v.v… nhiều
tên khác nhau không thể ghi ra cho hết. Nết đạt được chơn
tâm
thì các tên đều hiểu cả. Bằng mê muội chơn tâm thì
còn bị trệ nơi các tên. Cho nên đối với chơn tâm cần
yếu
nên xét kỹ.

3.
Diệu thể của Chơn tâm

Hỏi:
Chơn tâm đã biết, còn thể nó như thế nào?

Đáp:
Trong Kinh Phóng Quang Bát Nhã nói: “Bát Nhã không có tướng
có và tướng sanh diệt”. Luận Khởi tín nói: “Tự thể
của chơn như, tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát
và chư Phật đều không thêm bớt, cũng chẳng phải trước
sanh sau diệt mà rốt ráo thườngcòn. Từ xưa tới nay tánh
nó tự đầy đủ tất cả công đức”.

Căn
cứ theo các Kinh Luận thì bản thể chơn tâm siêu xuất nhơn
quả, thông suốt cổ kim, chẳng lập phàm thánh và không có
các đối đãi. Như hư không biến khắp tất cả. Diệu thể
ngưng tịch, dứt hết các hí luận, chẳng sanh chẳng diệt,
phi hữu phi vô, chẳng động chẳng lay, trạm nhiên thường
trụ
. Gọi là Chủ Nhơn Ông ngày xưa, là người ở mé kia
của Phật Oai Âm, là Tự Kỷ của trước Không Kiếp. Một
giống thường hằng không một mảy may tì vết, tất cả sơn
hà đại địa, cỏ cây rừng bụi, vạn tượng sum la, các
pháp nhiễm tịnh, đều từ trong ấy mà ra.

Cho
nên KinhViên Giác nói: “Này các Thiện nam, Vô Thượng Pháp
Vương
có một pháp môn đại đà la ni gọi là Viên Giác, từ
đó lưu xuất tất cả thanh tịnh Chơn Như, Bồ Đề, Niết
Bàn
và Ba La Mật, dạy dỗ cho các Bồ Tát”.

Ngài
Khuê Phong nói: “Tâm ấy rỗng rang mà thuần diệu, rực rỡ
mà mầu sáng, chẳng đến chẳng đi, thông suốt cả ba mé,
chẳng phải trong ngoài, suốt khắp mười phương. Chẳng sanh
chẳng diệt, bốn núi nào có thể hại. Lìa tánh lìa tướng,
nào bị năm sắc làm mờ”.

Ngài
Vĩnh Minh trong Duy Tâm Quyết nói: “Xét về tâm này là cái
diệu trong lẽ mầu mà hội khắp, là vua của muôn pháp. Ba
thừa
năm tánh đều thầm về, hay là mẹ của nghìn bậc Thánh.
Độc tôn độc quí không gì sánh bằng. Thật là nguồn của
đại đạo, là chơn pháp yếu vậy. Tin tâm này, nên ba đời
Bồ Tát đồng học là học tâm này. Ba đời Bồ Tát đồng
chứng là chứng tâm này. Một đại tạng giáo giải rõ là
hiển tâm này. Tất cả chúng sanh mê vọng là mê tâm này.
Tất cả hành nhơn phát ngộ là ngộ tâm này. Chư Tổ truyền
nhau là truyền tâm này. Chư tăng trong thiên hạ đều tham học
là tham học tâm này. Đạt tâm này thì mỗi mỗi đều phải,
vật vật đều toàn bày. Mê tâm này thì nơi nơi đều điên
đảo
, niệm niệm đều si cuồng”.

Thể
này là cái Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh, là
căn nguồn phát sanh của tất cả thế giới. Cho nên Đức
Thế Tôn
ở ngọn Thứu Phong lặng
thinh, Ngài
Thiện Hiện dưới ngọn núi quên lời, Ngài Đạt Ma nơi Thiếu
Thất
ngó vách, ông cư sĩ thành Tỳ Da ngậm miệng. Tất cả
đều phát minh cái diệu thể của tâm này. Cho nên, người
mới vào cửa Tổ, cần yếu trước tiên phải hiểu tâm thể
này vậy.

4.
Diệu dụng của Chơn tâm.

Hỏi: Diệu
thể
của chơn tâm đã biết. Diệu dụng của chơn tâm thế
nào?

Đáp: Người
xưa nói: “Gió động cây tâm lay, mây sanh tánh dấy bụi.
Nếu sáng, rõ việc hôm nay. Nếu mê, mất người xưa nay”.
Đấy là diệu thể khởi ra tác dụng vậy. Diệu thể của
chơn tâm xưa nay chẳng động, yên tịnh chơn thường. Trên
chơn thể diệu dụng hiện tiền, chẳng ngại mọi trường
hợp
đều được diệu. Cho nên trong bài tụng của Tổ Sư
nói: “ Tâm tùy muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật sâu xa,
theo dòng nhận được tánh, không mừng cũng không lo”.

Cho nên trong
tất cả thời, động dụng thi vi, đi đông đi tây, ăn cơm
mặc áo v.v. đều là diệu dụng hiện tiền. Trái lại kẻ
phàm phu mê lầm, khi mặc áo chỉ biết mặc áo, khi ăn cơm
chỉ biết ăn cơm, tất cả sự nghiệp chỉ tùy tướng mà
chuyển. Bởi dùng hằng ngày mà chẳng biết, ở trước mắt
mà chẳng hay. Nếu người đuợc tánh thì động dụng thi vi
chẳng từng mê. Cho nên Tổ Sư nói: “Trong thai gọi là
thân, ở đời gọi là người, ở mắt thì thấy, ở tai thì
nghe, ở mũi thì ngữi mùi, ở miệng thì đàm luận, ở tay
thì nắm bắt, ở chân thì chạy nhảy. Khi biến hiện thì
cùng khắp pháp giới, thu nhiếp lại thì chỉ trong hạt bụi.
Người biết cho đó là Phật tánh, người chẳng biết gọi
là tinh hồn”.

Thế nên
Đạo Ngô múa hốt, Thạch Củng dương cung, Bí Ma đập nạn,
Câu Chi dơ ngón tay, Hân Châu đánh đất, Vân Nham sư tử. Đấy
là phát minh ra những đại dụng lớn vậy. Nếu việc hằng
ngày
chẳng mê thì tự nhiên tung hoành tự tại.

5.
Thể đụng của Chơn tâm một hay khác?

Hỏi: Thể
đụng của chơn tâm chưa biết là một hay khác?

Đáp: Đúng
về mặt tướng thì chẳng phải một. Đứng về mặt tánh
thì chẳng phải khác. Cho nên thể dụng của tâm nầy chẳng
phải một chẳng phải khác. Tại sao thế? Thử vì ông bàn
đó:

Diệu thể
thì bất động, dứt mọi đối dãi và lìa tất cả tướng.
Người chưa đạt tánh khế chứng không thể lường được
lý nầy.

Diệu dụng
thì duyên ứng khắp muôn loài, vọng lập ra tướng hư, giống
như có hình trạng. Nhằm vào hữu tướng, vô tướng này nên
chẳng phải một.
Lại, dụng
từ thể phát ra, dụng không lìa thể. Thể hay phát dụng,
thể chẳng lìa dụng. Nhằm vào cái lý bất tương ly này,
nên chẳng phải khác. Như nước lấy tánh ướt làm thể,
thể thì không động. Sóng lấy động làm tướng, vì nhơn
gió mà dấy khởi. Tánh nước, tướng sóng, động với chẳng
động, nên chẳng phải một.
Nhưng ngoài
nước không có sóng, ngoài sóng không có nước. Tánh ướt
là một nên chẳng phải khác. Xét trên thể dụng một hay
khác có thể biết vậy.

6.
Chơn tâm trong mê.

Hỏi: Thể
dụng
của chơn tâm mọi người đều có đủ. Vì sao nơi thánh
phàm chẳng đồng?

Đáp: Nơi
thánh phàm chơn tâm vốn đồng, vì phàm phu vọng tâm nhận
vật, nên mất tự tánh thanh tịnh, do đây bị ngăn cách. Thế
nên chơn tâm không được hiện tiền. Ví như bóng cây trong
tối, dòng nước chảy ngầm dưới đất; có nhưng không biết.

Trong Kinh
nói: “Nầy thiện nam tử! Như viên thanh tịnh bảo châu chiếu
ra năm sắc, tùy chỗ mà hiện. Kẻ ngu si thấy ma ni châu kia
thật có năm sắc. Thiện nam tử! Tánh viên giác hiện ở thân
tâm
, tùy loại mà có ứng hiện. Kẻ ngu si kia nói tánh tịnh
viên giác thật có thân tâm như thế. Tự tánh cũng lại như
vậy”.

Trong Triệu
Luận
nói: “Bên trong của càn khôn, khoảng giữa của vũ
trụ
, trong ấy có một vật báu ngầm dấu trong hình sơn”.
Đấy là chơn tâm tại triền vậy.
Lại Từ
Ân
nói: “Pháp thân sẵn có của chư Phật đều đồng. Phàm
phu
bị vọng che, nên có mà chẳng biết. Phiền não cột ở
trong nên gọi Như Lai tàng”.
Bùi Hưu
nói: “Suốt ngày viên giác mà chưa từng viên giác, ấy là
phàm phu vậy”.

Cho nên,
chơn tâm tuy ở trần lao mà không bị trần lao làm nhiễm.
Như
bạch ngọc ném vào bùn, màu sắc nó không đổi.

7.
Chơn tâm và sự dứt vọng.

Hỏi: Chơn
tâm
nơi vọng là phàm phu. Vậy làm thế nào thoát vọng để
thành Thánh?
Đáp: Người
xưa nói: “Vọng tâm không chỗ nơi tức là bồ đề, niết
bàn
và sanh tử vốn bình đẳng”.
Kinh nói:
“Chúng sanh kia thân huyễn diệt, nên tâm huyễn cũng diệt.
Tâm huyễn diệt, nên huyễn trần cũng diệt. Huyễn trần diệt,
nên huyễn diệt cũng diệt. Huyễn diệt, diệt rồi, nên cái
phi huyễn chẳng hề diệt. Ví như lau gương, bụi nhơ hết
thì ánh sáng hiện”.

Ngài Vĩnh
Gia
nói: “Tâm là căn, pháp là trần. Cả hai như vết nhơ
trên gương, vết nhơ hết, ánh sáng mới hiện. Tâm pháp đều
quên, tánh ấy tức chơn”.
Đây là
ra khỏi vọng thì thành chơn.

***

Hỏi: Trang
Sanh nói: “Tâm ấy nóng thì cháy lửa, lạnh thì đặc nước,
mau thì khoảng cúi ngước, lại hay vỗ về ngoài bốn bể,
chỗ ở của nó sâu mà tinh. Khi nó động thì huyền mà thiên.
Đấy là chỉ cho tâm của con người vậy”.
Trang Sanh
nói cái tâm của kẻ phàm phu không thể trị phục như thế.
Chưa biết nhà Thiền dùng phương pháp gì để điều phục
vọng tâm?

Đáp: Lấy
pháp vô tâm để trị vọng tâm.

Hỏi: Người
vô tâm chẳng khác cây cỏ. Xin lập bày phương tiện về thuyết
vô tâm.

Đáp: Nay
nói vô tâm ấy, chẳng phải thể của nó vô tâm mà gọi là
vô tâm. Chỉ trong tâm không vật nên gọi là vô tâm. Thí như
nói: bình không, là do trong bình không có vật gì, nên
gọi là bình không. Chớ chẳng phải thể của bình là không
nên gọi là bình không.

Cho nên Tổ
Sư
nói: “Người chỉ nơi tâm vô sự, ở nơi sự vô
tâm
, thì tự nhiên rỗng mà mầu, tịnh mà diệu”. Đấy là
yếu chỉ của tâm vậy.
Căn cứ
đây mà xét thì không vọng tâm, chớ không phải không có
chơn tâm diệu dụng. Từ xưa đến nay chư Tổ đã nói đến
thực hành công phu vô tâm, chủng loại không đồng nhau. Nay
đại khái tóm nêu ra mười loại:

1-Giác Sát: Nghĩa là khi hành công phu, bình thường phải dứt niệm và
đề phòng niệm khởi. Một niệm vừa sanh liền dùng giác
mà phá nó. Vọng niệm phá rồi, biết niệm sau chẳng sanh,
cái giác trí này cũng không dùng tới nữa. Lúc ấy, vọng
giác đều mất, nên gọi là vô tâm.

2-Hưu Kiệt:
Nghĩa là khi hành công phu chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác,
tâm vừa khởi liền thôi, gặp duyên liền dứt. Người xưa
nói: “Một mảnh lụa trắng đi! Lạnh như đất đi! Lò hương
trong miếu cổ đi! Thẳng đến chỗ dứt lìa không còn một
mảy may phân biệt, như ngây như dại, mới có chút phần tương
ưng”. Đây là công phu hưu kiệt vọng tâm vậy.

3-Dẫn tâm
tồn cảnh (tâm mất cảnh còn): Nghĩa là khi hành công phu,
nên dứt hết tất cả vọng niệm. Chẳng đoái đến ngoại
cảnh
chỉ tự dứt tâm mình thôi. Vọng tâm đã dứt lo gì
có cảnh. Đây là pháp môn mà người xưa gọi là “Đoạt
nhơn bất đoạt cảnh”. Cho nên ngạn ngữ có câu: “Nơi
đây đầy hoa thơm cỏ lạ mà người xưa không có”. Bàng
Công nói: “Chỉ tự mình vô tâm với muôn vật, lo gì muôn
vật thường khuấy phá”. Đây là công phu dứt vọng “hết
tâm còn cảnh”.

4-Dẫn cảnh
tồn tâm (cảnh hết còn tâm): Nghĩa là khi hành công phu, đem
tất cả cảnh trong, cảnh ngoài đều quán là không-tịch,
chỉ còn lại một tâm độc lập một mình. Cho nên người
xưa nói: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, cũng chẳng cùng
các trần đối đãi” (Bất dữ vạn pháp vi lữ, bất dữ
chư trần tác đối). Tâm nếu chấp cảnh tức là vọng, nay
đã không cảnh thì vọng nào có được? Đấy là chơn tâm
độc chiếu chẳng chướng ngại nơi đạo. Tức người xưa
gọi là pháp môn “Đoạt cảnh bất đoạt nhơn”. Cho nên
có câu: “Vườn trên hoa đã rụng, xe ngựa vẫn còn đây”.
Lại cũng có câu: “Ba ngàn kiếm khách nay đâu tá, chỉ kế
Trang Châu định thái bình”. Đây là công phu dứt vọng “hết
cảnh còn tâm”.

5-Dẫn tâm
dẫn cảnh (tâm hết cảnh hết): Nghĩa là khi hành công phu,
trước quán ngoại cảnh đều không-tịch, kế đó diệt nội
tâm
. Khi nội tâm ngoại cảnh đều lặng thì vọng từ đâu
mà có được. Cho nên Quán Khê nói: “Mười phương không
vách đổ, bốn phía cũng không cửa, sạch trọi trơn, bày
trơ trơ”. (Thập phương vô bích lạc, tứ diện diệc vô
môn, tịnh khỏa khỏa, xích sái sái). Tức pháp môn mà người
xưa gọi: “Nhơn cảnh lưỡng câu đoạt”. Cho nên có câu:
“Mây tan nước trôi chảy, lặng lẽ trời đất không”.
Lại có câu: “Người trâu đều chẳng thấy, chính là lúc
vầng trăng trong”. Đây là công phu dứt vọng “tâm dứt
cảnh dứt”.

6-Tồn tâm
tồn cảnh (còn tâm còn cảnh): Nghĩa là khi hành công phu, để
tâm
trụ trong vị trí của tâm, cảnh trụ vị trí của cảnh
(tâm trụ tâm vị, cảnh trụ cảnh vị). Có khi tâm và cảnh
đối nhau, thì tâm chẳng thủ cảnh, cảnh chẳng đến tâm,
mỗi mỗi chẳng đến nhau, tự nhiên vọng niệm chẳng sanh,
nơi đạo chẳng ngại. Cho nên Kinh nói: “Pháp ấy trụ nơi
bản vị của nó. Tướng của thế gian thường trụ”. (Thị
pháp trụ pháp vị, Thế gian tướng thường trụ). Tức là
pháp môn “Nhơn cảnh câu bất đoạt” của Tổ Sư. Cho nên
có câu: “Một mảnh trăng rộng chiếu, bao nhiêu người lên
lầu”. Lại cũng có câu: “Hoa núi ngàn muôn đóa, khách lãng
du chẳng biết về”. Đây là công phu diệt vọng “còn tâm
còn cảnh”.

7-Nội ngoại
toàn thể: Nghĩa là khi hành công phu, quán thấy sơn hà đại
địa
, trời trăng sao, nội thân ngoại thân, tất cả các pháp
đều đồng một thể chơn tâm trạm nhiên hư minh, không tý
sai khác. Đại thiên sa giới gồm thành một mảnh, lại ở
chỗ nào khởi vọng tâm? Cho nên Triệu Pháp Sư nói: “Trời
đất cùng ta đồng nguồn, muôn vật cùng ta đồng thể”. Đây là công phu diệt vọng “nội ngoại toàn thể”.

8-Nội ngoại
toàn dụng: Nghĩa là khi hành công phu, đem tất cả thân tâm
trong ngoài, các pháp trong thế giới, và tất cả động dụng
thi vi, trọn thấy là diệu dụng của chơn tâm. Tất cả tâm
niệm
vừa sanh là diệu dụng hiện tiền, vọng tâm chỗ nào
mà an trí. Cho nên vĩnh Gia nói : “Thật tánh của vô minh là
Phật tánh, thân không huyễn hóa tức pháp thân” (vô minh
thật tánh tức phật tánh, huyễn hóa không thân tức pháp
thân
). Trong Chí Công Thập Nhị Thời Ca nói: “Thường buổi
sớm, máy cuồng ẩn chứa Đạo Nhơn thân, ngồi nằm chẳng
biết nguyên là đạo, chỉ thế luống mà chịu đắng cay”.
Đây là công phu dứt vọng “nội ngoại toàn dụng”.

9-Tức thể
tức dụng: Nghĩa là khi hành công phu, tuy thầm hợp với chơn
thể, chỉ một vị không-tịch, nhưng mà nơi trong ẩn một
cái linh minh, nên thể tức dụng. Trong cái linh minh ẩn cái
không-tịch, nên dụng tức thể. Cho nên Vĩnh Gia nói: “Tỉnh
tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh vọng tưởng quấy. Lặng
lặng tỉnh tỉnh phải, vô ký lặng lặng sai”. (Tỉnh tỉnh
tịch tịch thị, tỉnh tỉnh vọng tưởng phi. Tịch tịch tỉnh
tỉnh thị, tịch tịch vô ký phi). Đã trong cái lặng lẽ không
dung vô ký, trong cái tỉnh táo không dung loạn tưởng, thì
vọng tâm làm sao sanh được? Đây là công phu diệt vọng “tức
thể tức dụng”.

10-Thấu xuất
thể
dụng: Nghĩa là khi hành công phu, chẳng phân trong ngoài,
chẳng phân biệt đông tây, nam bắc. Đem bốn phương tám mặt,
chỉ làm một môn “đại giải thoát viên đà đà địa”.
Thể dụng chẳng phân, không một mảy may rỉ lậu. Suốt thân
gồm thành một mảnh, vọng kia chỗ nào khởi được? Người
xưa nói: “Suốt thân không đường nứt, trên dưới đều
tròn trịa”. Đây là công phu diệt vọng “thấu xuất thể
dụng”.

Các phương
pháp
công phu trên chẳng nên dùng cả, mà chỉ dùng một môn
cho được thành tựu, thì cái vọng tâm kia tự nhiên tiêu
diệt
, chơn tâm hiện tiền. Tùy căn cơ đã huân tập từ trước,
xem thích hợp với pháp nào, nên tập pháp đó.
Công phu
ở đây là không công mà công, chẳng để tâm dụng sức.
Cái pháp môn thôi dứt vọng tâm nầy rất tối trọng yếu.
Pháp môn diệt vọng còn nhiều, sợ văn rườm nên chỉ lược
thôi.

8.
Chơn tâm với bốn oai nghi.

Hỏi: Trên
đã nói cách dứt vọng, nhưng chưa biết chỉ ngồi tập hay
thông cả bốn oai nghi?

Đáp: Các
kinh luận phần nhiều nói ngồi tập, vì ngồi dễ thành công
hơn, nhưng cũng thông cả bốn oai nghi, tập lần lần rồi
từ từ được thuần thục. Luận Khởi Tín nói: “Người
tu CHỈ, nên ở chỗ tịnh ngồi ngay thẳng giữ ý chơn chánh.
Chẳng nương tựa vào hơi thở, chẳng nương vào hình sắc,
chẳng nương vào không, chẳng nương vào đất nước gió lửa.
Cho đến chẳng nương vào thấy nghe hay biết. Tất cả các
tưởng tùy niệm đều trừ, cũng nên dẹp luôn cái tưởng
trừ, vì tất cả pháp xưa nay vốn vô tưởng, niệm niệm
chẳng sanh, niệm niệm chẳng diệt. Cũng chẳng đuợc tùy
tâm
niệm cảnh giới bên ngoài. Sau rốt lấy tâm trừ tâm,
tâm nếu chạy rong liền kéo về trụ nơi chánh niệm. Chánh
niệm
là chỉ có tâm chớ không có cảnh giới bên ngoài. Lại
tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thật có.
Nếu từ ngồi, đứng, đi lại, tới lui, tất cả động tác
thi vi, trong tất cả thời thường nhớ phương tiện tùy thuộc
mà quán sát, tập lâu ngày được thuần thục thì tâm ấy
được an trụ. Do tâm an trụ nên lần lần bén nhạy. Thuận
theo
đó mà được nhập vào “chơn như tam muội”. Dẹp sạch
phiền nảo, lòng tin tăng trưởng, mau thành quả bất thối.
Chỉ trừ hạng người nghi hoặc chẳng tin, bài báng, tội
nặng, nghiệp chướng, ngã mạn, giải đãi. Những hạng người
nầy chẳng đặng vào”.
Theo đây
mà xét thì thông cả bốn oai nghi.
Kinh Viên
Giác
nói: “Trước nương theo hạnh Xa-ma-tha (Chỉ) của Như
Lai
, kiên trì cấm giới, yên ở trong đồ chúng, yên ngồi
trong tịnh thất”. Đấy là mới tập.
Vĩnh Gia
nói: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền. Nói nín động tịnh
thể an nhiên”. Đây là thông cả bốn oai nghi.

Tóm lại,
dùng sức ngồi còn chẳng thể dứt được tâm, huống là
đi đứng v.v… há hay vào đạo ư? Nếu là người dụng tâm
thuần thục, thì ngàn thánh đi đến còn chẳng đứng dậy,
muôn loài ma kéo lại còn chẳng thèm nhìn. Huống là trong đi
đứng… chẳng hay hành công phu sao? Như người oán thù kẻ
khác, nhẫn đến đi đứng, ngồi nằm, ăn uống… trong tất
cả thời còn không thể quên được. Sự thương, mến kẻ
khác cũng lại như thế. Vả lại, việc yêu ghét là việc
hữu tâm, còn ở trong hữu tâm hiện tiền được. Nay hành
việc công phu là việc vô tâm, lại nghi gì ở trong bốn oai
nghi
chẳng thường hiện tiền ư? Chỉ sợ chẳng tin chẳng
làm, nếu làm nếu tin, thì trong các oai nghi đạo ắt hiện
tiền
.

9.
Chỗ ở của chơn tâm.

Hỏi: Dứt
vọng tâm thì chơn tâm hiện. Nói thế thì thể dụng của
chơn tâm nay ở chỗ nào?

Đáp: Diệu
thể
của chơn tâm khắp cả chỗ. Vĩnh Gia nói: “Chẳng rời
hiện tại thường lặng lẽ. Còn tìm tức biết anh chưa thấy”.
Kinh nói: “Tánh như hư không thường chẳng động, trong
Như Lai Tạng chẳng khởi, chẳng diệt”. Đại Pháp Nhãn nói:
“Nơi nơi đường bồ đề, chốn chốn rừng công đức”.
Đấy là chỗ ở của thể.

Diệu dụng
của chơn tâm tùy cảm tùy hiện, như vang theo tiếng. Pháp
Đăng
nói: “Xưa nay theo chẳng rời, rõ ràng nơi trước mặt.
Cụm mây sanh hang tối. Cô hạt đáp trời xa”.

Trong Hoa Nghiêm
Sớ của Ngụy Phủ Nguyên nói: “Phật pháp ở chỗ việc
hằng ngày
, chỗ đi đứng ngồi nằm, chỗ ăn cơm uống trà,
chỗ nói năng hỏi đáp. Các hành động ấy mà khởi tâm động
niệrn thì không phải”.

Cho nên, thể
thì biến khắp mọi nơi, trọn hay khởi dụng. Chỉ vì nhân
duyên
có, không chẳng nhứt định, cho nên diệu dụng cũng
chẳng định, chớ chẳng phải không diệu dụng. Người tu
tâm
muốn vào biển vô vi độ các sanh tử, chớ mê lầm chỗ
ở của thể dụng chơn tâm.

10.
Chơn tâm và việc sanh tử.

Hỏi: Thường
nghe người kiến tánh ra khỏi sanh tử, nhưng tù xưa chư Tổ
là người kiến tánh sao đều có sanh tử? Nay hiện thấy người
tu trong đời đều có chết sống. Thế sao nói rằng ra khỏi
sanh tử?

Đáp: Sanh
tử
vốn không, do vọng nên thấy có. Như người đau mắt
thấy trong hư không có hoa đốm.Người không đau nói trong
hư không chẳng có hoa. Người đau mắt không tin. Nếu mắt
hết đau thì cái thấy hoa trong hư không cũng tự hết. Lúc
ấy
mới tin rằng hoa vốn không. Lúc hoa chưa diệt, hoa kia
cũng không. Chỉ người bịnh vọng chấp là hoa, chớ chẳng
phải thể nó thật có.

Như người
vọng nhận sanh tử là có thật. Nếu người không sanh tứ
bảo
rằng “vốn không sanh tử”. Một mai người ấy vọng
dứt, sanh tử tự trừ, mới biết việc sanh tử xưa nay vốn
là không. Ngay lúc sanh tử chưa dứt cũng chẳng phải thật
có. Do vọng nên nhận có sanh tử thôi.

Kinh nói :
“Thiện nam tử, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay
điên đảo nhiều lớp. Như người mê bốn hướng, đổi chỗ.
Vọng nhận tứ đại làm tướng của tự thân, sáu trần duyên
bóng làm tướng của tự tâm. Ví như người đau mắt thấy
hoa giữa hư không. Cho đến các hoa đốm ấy diệt trong hư
không
. Không thể nói quyết rằng có chỗ diệt. Vì sao? Vì
không chỗ sanh vậy. Tất cả chúng sanh nơi vô sanh vọng thấy
có sanh diệt. Cho nên gọi là luân chuyển sanh tử”.

Cứ theo Kinh
này tin biết rằng đạt ngộ chơn tâm vốn không sanh tử.
Nay biết không sanh tử mà không thể thoát sanh tử, vì công
phu
không đến vậy. Cho nên trong Kinh nói: “Am bà nữ hỏi
Văn Thù rằng: Rõ biết sanh là pháp chẳng sanh, vì sao lại
bị sanh tử trôi đi? – Văn Thù đáp: Vì sức kia chưa đầy
đủ”.

Sau này Tiến
Sơn chủ hỏi Tu Sơn chủ rằng: “Rõ biết sanh là pháp chẳng
sanh, vì sao lại bị sanh tủ trôi đi? Tu đáp: Măng trọn thành
tre. Như nay khiến làm phên được”. Thế nên “Biết” không
sanh tử, chẳng như “Thể” không sanh tử. Thể không sanh
tử
chẳng như “Khế” không sanh tử. Khế không sanh tử
chẳng như “Dụng” không sanh tử. Người nay còn chẳng biết
không sanh tử, huống là thể không sanh tử, khế không sanh
tử
, dụng không sanh tử? Người nhận sanh tử, không tin pháp
không
sanh tử cũng vậy.

11.
Chơn tâm và chánh trợ.

Hỏi: Như
truớc đã nói dứt vọng thì chơn tâm hiện tiền. Khi vọng
chưa dứt, thì chỉ hành công phu vô tâm để hết vọng. Lại
còn có pháp nào khác có thể đối trị các vọng không?

Đáp: Có
chánh tu và trợ tu sai khác nhau. Lấy vô tâm dứt vọng làm
chánh, lấy các hành động lành làm trợ. Thí như gương sáng
bị bụi che lấp, lấy sức tay lau chùi, nhưng cũng cần thêm
thuốc để chùi thì ánh sáng mới dễ hiện. Bụi nhỏ là
phiền não. Sức tay là vô tâm. Thuốc là các việc lành. Ánh
sáng của gương là chơn tâm.
Trong Luận
Khởi Tín nói: “Lại nữa, có người do lòng tin thành tựu
mà phát tâm, lại phát tâm gì? Luợc có ba loại: một, trực
tâm
là pháp chánh niệm chơn như; hai, thâm tâm là gồm các
lành; ba, đại bi tâm là muốn nhổ tất cả khổ não cho chúng
sanh”.

Hỏi: Trên
đã nói pháp giới một tướng, Phật thể không hai, cớ sao
chỉ một niệm chơn như, mà lại nhờ cầu học các việc
lành
nữa?

Đáp: Ví
như
có hạt ma ni báu lớn, sáng trong mà có lẫn quặng nhơ.
Như người tuy biết nó có tánh quí mà chẳng dùng phương
tiện
để mài giũa, trọn không thể trong sáng được Vì nhơ
vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu tất cả hạnh lành.
Cũng như vậy, pháp chơn như thể tánh nó không-lặng mà có
vô lượng phiền não nhiễm nhơ. Nếu người tuy niệm chơn
như
mà chẳng dùng các phương tiện để huân tập, cũng không
được tịnh. Vì nhơ vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu
tất cả thiện hạnh để đối trị. Nếu người tu, hành
tất cả pháp lành, thì tự nhiên qui thuận pháp chơn như”.

Theo đây
mà xét, lấy thôi hết vọng tâm làm chánh, tu các pháp lành
làm trợ. Nếu khi tu thiện nên cùng với vô tâm khế hợp
nhau, chẳng chấp trước nhơn quả. Nếu chấp trước nhơn
quả bèn rơi vào phàm phu, trong phước báo nhơn thiên, khó
chứng chơn như, chẳng thoát sanh tử. Nếu cùng vô tâm tương
ưng
ấy là chứng chơn như. Đây là thuật khéo làm phương
tiện
thoát sanh tử, lại gồm phước đức xộng rãi.

Trong Kinh
Kim Cang
Bát Nhã nói: “Tu Bồ Đề, Bồ Tát không trụ
tướng
bố thí, thì phước đức vị ấy không thể nghĩ lường
được”.

Nay thấy
người đời có tham thiền học đạo. Vừa biết được cái
bổn lai Phật tánh, bèn tự thị nơi thiên chơn chẳng tập
làm các việc lành. Như vậy, đâu chỉ chẳng đạt chơn tâm,
mà trở lại thành giải đãi, đường ác còn chẳng khỏi,
huống là thoát sanh tử? Cái chấp này rất lầm to.

12.
Công đức của chơn tâm.

Hỏi: Hữu
tâm
tu nhơn công đức chẳng còn nghi. Vô tâm tu nhơn công đức
từ đâu đến?

Đáp: Hữu
tâm
tu nhơn được quả hữu vi. Vô tâm tu nhơn được công
đức
hiển tánh. Các công đức này xưa nay tự đầy đủ,
do vọng che cho nên không hiện, nay vọng đã trừ công đức
hiện tiền. Cho nên Vĩnh Gia nói: “ Ba thân bốn trí tròn trong
thể. Tám giải sáu thông ấn đất tâm”. Thế là trong thể
tự nó đầy đủ tánh công đức. Trong cổ tụng có câu: “Nếu
tịnh tọa một tý thôi, hơn tạo hằng sa tháp bảy báu. Tháp
báu trọn lại hóa vi trần, một niệm tịnh tâm thành chánh
giác”. Cho nên vô tâm công đúc lớn hơn hữu tâm.

Hòa Thượng
Thủy Lạo ở Hồng Châu đến thăm Mã Tổ. Hỏi: Ý chỉ Tổ
Sư
từ Ấn sang như thế nào? Bị Mã Tổ tống cho một đạp
té nhào. Bỗng nhiên phát ngộ. Đứng dậy vỗ tay cười lớn
nói rằng: lạ thay! Trăm ngàn tam muội, vô lượng diệu nghĩa
chỉ trên đầu một mảy lông. Liền một lúc hiểu được
căn nguyên, bèn làm lễ rồi lui. Cứ theo đây thì công đức
không từ ngoài đến, mà nó vốn tự đầy đủ.
Tứ Tổ
bảo Lại Dung(1) Thiền Sư rằng: “Phàm trăm ngàn pháp môn
chỉ đồng về trong gang tấc, công đức như hà sa gồm lại
nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới định huệ thần thông biến
hóa
, trọn tự đủ chẳng lìa tâm ông”. Cứ theo lời Tổ
Sư
, vô tâm công đức rất nhiều. Chỉ có người thích công
đức
nơi sự tướng, nên công đức vô tâm họ không tự
tin.

Chú thích:

(1) Lại
Dung: Ngài hiệu là Pháp Dung, nhưng do say mê tọa thiền, có
ai đến cũng không buồn chào hỏi, nên người đời gọi là
Lại Dung; chữ Lại là lười biếng.

13.
Kinh nghiệm chơn tâm.

Hỏi: Chơn
tâm
hiện tiền, thế nào biết chơn tâm được thành thục
vô ngại?

Đáp: Người
học Đạo khi đã được chơn tâm hiện tiền, nhưng tập khí
chưa trừ, nếu gặp cảnh quen thuộc có lúc thất niệm. Như
chăn trâu, tuy điều phục nó, dẫn dắt nó đến chỗ như
ý
rồi, mà còn chẳng dám buông giàm và roi. Đợi đến tâm
nó điều phục, bước đi ổn thỏa, dù chạy vào lúa mạ
cũng không hại đến lúa mạ, lúc ấy mới dám buông tay. Đến
lúc nầy chú mục đồng không còn dùng giàm và roi nữa. Tự
nhiên
con trâu không hại đến lúa mạ.

Như đạo
nhân sau khi nhận được chơn tâm, trước lại phải dụng
công
bảo dưỡng, đến khi có lực dụng lớn, mới có thể
lợi sanh. Nếu muốn kinh nghiệm chơn tâm nầy, thì trước
đem những cảnh mà bình thường mình yêu thích, luôn tưởng
ở trước mặt. Nếu nương theo cảnh đó khởi tâm yêu ghét,
thì tâm đạo chưa thuần thục. Nếu chẳng khởi tâm yêu ghét
thì tâm đạo đã thuần thục. Tuy nhiên được thuần thục
như vậy, mà còn chưa phải tự nhiên chẳng khởi yêu ghét.
Lại phải kinh nghiệm một lần nữa. Như khi gặp cảnh yêu
ghét, lúc ấy khởi tâm yêu ghét và khiến thủ cảnh yêu ghét
ấy. Nếu tâm chẳng khởi là tâm vô ngại. Như trâu trắng
nằm sờ sờ chẳng tổn hại lúa mạ.

Xưa có vị
mắng Phật mạ Tổ, ấy là cùng tâm nầy tương ưng. Nay thấy
có người mới vào Tông môn nầy, chưa biết đạo gần hay
xa, liền học mắng Phật mạ Tổ. Thật tính ra quá sớm vậy.

14.
Chơn tâm vô tri.

Hỏi: Chơn
tâm
cùng vọng tâm khi đối cảnh làm sao phân biệt chơn vọng?

Đáp: Vọng
tâm
đối cảnh có biết, nhưng mà biết nơi cảnh thuận nghịch
rồi khởi tâm tham sân. Lại ở trong đó chứa cảnh rồi khởi
tâm
si. Nơi cảnh khởi ba độc tham sân si, đủ rõ là vọng
tâm
. Tổ Sư nói: “ Nghịch thuận tranh nhau là tâm bệnh”.
Cho nên, đối với cảnh, phải hay chẳng phải đều là vọng
tâm
cả.

Còn chơn
tâm
, không biết mà biết thường hằng, tròn chiếu nên khác
với cây cỏ. Chẳng sanh yêu ghét nên khác với vọng tâm.
Tức đối cảnh rỗng sáng, chẳng yêu chẳng ghét, chẳng biết
mà biết ấy là chơn tâm.

Trong Triệu
Luận
nói: “ Thánh tâm ấy vi diệu vô tướng, nên chẳng
có. Dụng nó thì đầy sự cần dùng nên chẳng thể là không.
Cho đến, chẳng có, nên biết mà không biết; chẳng không,
nên không biết mà biết. Vì thế nên không biết tức biết.
Không nói khác với tâm của thánh nhơn vậy”.

Lại vọng
tâm
nơi hữu trước hữu, nơi vô trước vô, thường ở hai
bên chẳng biết trung đạo. Vĩnh Gia nói: “Bỏ vọng tâm giữ
chơn lý. Tâm lấy bỏ thành xảo ngụy. Người học chẳng
rõ dụng tu hành. Lâu thành nhận giặc lấy làm con”. Nếu
là chơn tâm thì dù ở trong hữu vô, mà không rơi vào hữu
vô
, thường ở trung đạo.
Tổ Sư nói:
“Chẳng đuổi hữu duyên, chớ trụ không nhẫn, một giống
thường hằng bỗng nhiên tự hết”.

Triệu Luận
nói: “ Thánh nhân làm việc có mà chẳng có. Ở trong không
mà chẳng không. Tuy không thủ hữu vô mà chẳng xả hữu vô.
Hòa mình trong trần lao, dạo khắp ngũ thú, lặng lẽ mà đi
rõ ràng mà đến, nhạt nhẽo không làm mà không gì chẳng
làm (Điềm đạm vô vi nhi vô bất vi)”.

Đây là nói
bậc thánh nhơn duỗi tay vì người, đi khắp ngũ thú để
tiếp dẫn giáo hóa chúng sanh. Tuy tới lui mà không ở trong
tướng tới lui. Vọng tâm chẳng phải thế. Cho nên chơn tâm
vọng tâm không đồng. Lại chơn tâm là tâm bình thường,
vọng tâm là tâm bất bình thường.

***

Hỏi: Sao
gọi là tâm bình thường?

Đáp: Mọi
người
đều có đủ một điểm linh minh, trạm nhiên như hư
không
, biến khắp mọi nơi. Đối với việc thế tục tạm
gọi là lý tánh. Đối với vọng thức quyền gọi là chơn
tâm
. Không một mảy may phân biệt, gặp duyên chẳng lầm.
Không một niệm lấy, bỏ, chạm vật đều khắp, chẳng theo
cảnh dời đổi. “Giả sử theo dòng được diệu. Chẳng
lìa hiện tại lặng yên. Còn tìm tức biết anh chưa thấy”.
Đấy tức là chơn tâm vậy.

***

Hỏi: Sao
gọi là tâm bất bình thường?

Đáp: Cảnh
có Thánh phàm, nhiễm tịnh, đoạn thường, lý sự, sanh diệt,
khứ lai, hảo xú, thiện ác, nhơn quả… Nếu nhỏ nhặt mà
kể ắt có ngàn sai muôn khác. Nay nêu ra mười đôi đều gọi
là cảnh bất bình thường. Tâm theo cảnh bất bình thường
này mà sinh, theo cảnh bất bình thường nầy mà diệt. Tâm
cảnh
bất bình thường đối với bình thường chơn tâm ở
trước, nên gọi là bất bình thường vọng tâm. Chơn tâm
vốn đủ, chẳng theo cảnh bất bình thường mà khởi các
sự sai biệt. Cho nên gọi là bình thường chơn tâm.

***

Hỏi: Chơn
tâm
bình thường không có các nhơn khác, thế sao Phật nói
nhơn quả thiện ác báo ứng?

Đáp: Vọng
tâm
chạy theo các cảnh, nhưng chẳng rõ các cảnh, nên khởi
các tâm. Phật nói các pháp nhơn quả để trị các vọng tâm,
nên cần lập nhơn quả. Nếu chơn tâm này chẳng đuổi theo
các cảnh, do đó chẳng khởi các tâm, Phật tức cũng chẳng
nói các pháp, thì đâu có nhơn quả?

***

Hỏi: Chơn
tâm
bình thường chẳng sanh ư?

Đáp: Chơn
tâm
có lúc khởi dụng, nhưng chẳng phải theo cảnh mà sanh,
chỉ là diệu dụng du hí, chẳng lầm nhơn quả.

15.
Chỗ trụ của chơn tâm.

Hỏi: Người
chưa đạt chơn tâm, do mê chơn tâm nên làm nhơn thiện ác.
Do làm thiện nhơn nên sanh trong thiện đạo. Do làm ác nhơn
nên vào trong ác đạo, theo nghiệp thọ sanh, lý này chẳng
nghi. Nếu người đạt chơn tâm, vọng tình cạn hết, khế
chứng chơn tâm không nhơn thiện ác. Vậy điểm linh của thân
sau gá nương vào chỗ nào?
Đáp: Chớ
bảo có chỗ gá nương là hơn không chỗ gá nương. Lại cũng
chớ cho không chỗ gá nương, đồng với phiêu linh lãng tử
ở thế gian, giống như loài quỉ, vô chủ cô hồn. Đặc biệt
nêu câu hỏi này là mong có sự gá nương chớ gì?
– Đúng
thế.
– Người
đạt tánh thì chẳng đúng, tất cả chúng sanh do mê giác tánh
nên vọng tình ái nhiễm kết nghiệp làm nhơn, sanh trong lục
thú
thọ quả báo thiện ác. Giả như thiện nghiệp là nhơn
chỉ được có thiện quả. Trừ chỗ phù hợp với nghiệp
mà sanh, ngoài ra chẳng được thọ dụng. Các cõi đều như
thế. Đã từ nghiệp kia nên chỗ phù hợp sanh cho là vui, chỗ
chẳng phù hợp sanh cho là khổ. Bởi chỗ phù hợp sanh là
chỗ tự mình gá nương, chỗ chẳng phù hợp là chỗ người
khác gá nương. Cho nên có vọng tình thì có vọng nhơn, có
vọng nhơn thì có vọng quả có vọng quả thì có gá nương.
Có gá nương thì phân ra kia đây. Phân ra kia đây thì có thích
hay không thích.

Nay đạt
chơn tâm khế hợp với giác tánh không sanh diệt, khởi ra
diệu dụng không sanh diệt. Diệu thể chơn thường vốn không
sanh diệt, diệu dụng tùy duyên như có sanh diệt. Nhưng từ
thể sanh ra dụng nên dụng ấy tức là thể. Có gì là sanh
diệt? Người đạt đạo tức là chứng chơn thể, nên sự
sanh diệt kia có can hệ gì? Như nước lấy tánh ướt làm
thể, sóng mòi làm dụng. Tánh ướt nguyên không sanh diệt,
nên sóng mòi trong tánh ướt nào sanh diệt ư? Nhưng sóng lìa
tánh ướt cũng không riêng có, nên sóng cũng không sanh diệt.
Người xưa nói: “Khắp cõi nước là mắt của Sa môn, khắp
cả nước là già lam”. Khắp mọi nơi là chỗ an thân lập
mệnh của người ngộ lý. Người đạt chơn tâm thì tử sanh
lục đạo một chốc liền tiêu tan. Sơn hà đại địa đều
là chơn tâm. Chẳng thể lìa chơn tâm nầy riêng có chỗ gá
nương. Đã không ba cõi làm vọng nhơn, ắt không có sáu thú
làm vọng quả. Vọng quả đã không nói gì gá nương? Không
gá nương ắt không bỉ thử, đã không bỉ thử thì có gì
là thích hay không thích?

Mười phương
thế giới chỉ một chơn tâm, toàn thân thọ dụng không riêng
gá nương. Lại đối với môn thị hiện thì tùy ý qua lại
mà không chướng ngại. Trong Truyền Đăng có chép rằng: “Thượng
Thơ Ôn Tháo hỏi Ngài Khuê Phong: Người ngộ lý một phen tuổi
thọ hết, gá nương chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng
sanh
đều có đầy đủ cái linh minh giác tánh, cùng với chư
Phật không khác. Nếu hay ngộ tánh nầy tức là pháp thân,
vốn tự vô sanh có gì nương gá? Cái linh minh chẳng muội,
rõ ràng thường biết, không chỗ đến cũng không chỗ đi.
Chỉ lấy không-tịch làm tự thể, chớ nhận sắc thân. Lấy
linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu
dấy lên đều không theo nó, đến lúc mạng chung, khi ấy,
nghiệp tự nhiên không thể cột. Tuy có thân trung ấm mà chỗ
đến tự do. Cõi người cõi trời tùy ý gởi nương. Đây
tức là chơn tâm truớc và chỗ đến của thân sau ấy vậy”.

 

TU
TÂM
QUYẾT

Ba cõi nhiệt
não
như trong nhà lửa, chúng sanh an nhẫn đắm mình trong đó
để chịu khổ dài. Muốn khỏi luân hồi không đâu bằng
cầu Phật. Nếu muồn cầu Phật thì Phật tức là tâm. Tâm
nào tìm chi cho xa, đâu có lìa thân này. Sắc thân là giả,
có sanh có diệt. Chơn tâm như hư không, chẳng đoạn chẳng
biến. Cho nên nói: “Hài cốt vỡ tan trở về lửa gió, một
vật trường linh che trùm trời đất”.

Than ôi! Người
hôm nay mê lâu thế? Chẳng biết tự tâm mình là chơn Phật,
chẳng biết tự tánh mình là chơn pháp. Muồn cầu pháp mà
cầu các thánh ở tha phương. Muồn cầu Phật mà chẳng quán
tự tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật, ngoài tánh có pháp, chấp
cứng tình nầy, muồn cầu Phật đạo, dù trải qua số kiếp
như vi trần, đốt thân chặt tay đập xương ra tủy, chích
máu viết kinh, ngồi mãi chẳng nằm, ngày ăn một bửa, cho
đến
đọc hết một đại tạng kinh, tu muôn ngàn khổ hạnh,
chẳng khác nào nấu cát làm cơm, chỉ luống tự nhọc.

Ông chỉ
hiểu tự tâm mình, thì hằng sa pháp môn, vô lượng diệu
nghĩa chẳng cầu mà được. Đức Thế Tôn nói: “ Ta xem khắp
tất cả chúng sanh đều có đủ đức tướng trí huệ của
Như Lai”. Lại nói: “ Tất cả chúng sanh mỗi mỗi đều
huyễn hóa mà hay sanh ra cái diệu tâm viên giác của Như Lai”.
Thế nên lìa tâm này không Phật có thể thành. Quá khứ chư
Phật chỉ là người sáng tâm mà thôi. Hiện tại các bậc
Thánh hiền cũng là người tu tâm mà thôi. Vị lai người tu
học
nên y pháp như thế mà tu. Mong mỗi người tu cần yếu
chớ tìm cầu bên ngoài. “Tâm tánh không nhiễm vốn tự viên
thành
, chỉ lìa vọng duyên tức như như Phật”.

***

Hỏi: Nếu
nói Phật tánh hiện ở thân này, đã ở trong thân không lìa
phàm phu. Cớ sao nay tôi chẳng thấy Phật tánh? Xin giải rõ
khiến được khai ngộ.

Đáp: Ở
tại thân ông mà tự ông chẳng thấy. Suốt mười hai giờ
ông biết đói biết khát, biết lạnh, biết nóng, hoặc vui,
hoặc giận,v.v… Trọn là vật gì? Lại sắc thân là địa
thủy hỏa phong bốn duyên hội hợp, cái chất của nó là
vô tình, đâu hay thấy nghe hiểu biết? Cái thấy nghe
hiểu biết nhất định là Phật tánh của ông. Tổ Lâm Tế
nói rằng: “Bốn đại chẳng biết nói pháp, chẳng nghe pháp.
Hư không chẳng biết nói pháp, chẳng nghe pháp. Chỉ cái rõ
ràng
riêng sáng ở trước mẳt của ông, cũng chớ phân tích
nó, cái ấy mới biết nói pháp và nghe pháp”.

Ba chữ “Chớ
phân tích” là pháp ấn của chư Phật và cũng là tâm bổn
lai của ông. Thế thì Phật tánh ở tại thân ông, đâu có
nhờ cầu bên ngoài? Ông nếu chẳng tin, tôi sẽ nêu lên nhơn
duyên
nhập đạo của các bậc thánh xưa, để cho ông trừ
hết nghi hoặc. Ông sẽ tin là chơn thật.

Xưa vua Dị
Kiến
hỏi tôn giả Ba La Đề rằng: Thế nào là Phật? Tôn
giả
đáp: Kiến tánh là Phật. Vua hỏi: Thầy kiến tánh chăng?
Tôn giả đáp: Tôi kiến Phật tánh. Vua hỏi: Tánh tại chỗ
nào? Tôn giả đáp: Tánh tại tác dụng. Vua hỏi: Ấy là tác
dụng
gì? sao trẫm chẳng thấy? Tôn giả đáp: Tôi đã thấy
tác dụng rõ ràng, tự nhà vua không thấy đó thôi. Vua hỏi:
Nơi trẫm có không? Tôn giả đáp: Bệ hạ nếu tác dụng thì
đâu chẳng có. Còn bệ hạ nếu chẳng tác dụng thì thể
kia khó thấy. Vua hỏi: Nếu khi đang tác dụng mấy chỗ xuất
hiện? Tôn giả đáp: Nếu khi xuất hiện thì có tám chỗ.
Vua nói : Xin vì trẫm chỉ tám chỗ xuất hiện kia. Tôn giả
đáp: Nơi thai gọi là thân, ở đời gọi là người, nơi mắt
gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt các
mùi nơi lưỡi đàm luận, nơi tay nắm bắt, nơi chơn chạy
nhảy. Biến hiện thì khắp sa giới, thu lại thì chỉ trong
hạt bụi. Người hiểu biết cho đó là Phật tánh, người
chẳng hiểu gọi đó là tinh hồn. Nhà vua nghe xong liền khai
ngộ
.

Có một vị
Tăng hỏi Hòa Thượng Qui Tông rằng: “Thế nào là Phật?
Đáp: Ta nói ra sợ ông chẳng tin. Tăng thưa: Hòa Thượng nói
thật
con đâu dám chẳng tin. Đáp: Tức là ông đấy. Tăng
hỏi: Bảo nhiệm như thế nào? Đáp: Vết mây nơi mắt làm
cho không hoa rơi loạn. Vị Tăng kia ngay lời ấy tỉnh ngộ”.

Trên đã
nêu lên nhơn duyên nhập đạo của các bậc thánh xưa, rõ
ràng
giản dị chẳng ngại đến tỉnh lực. Nhơn công án nầy,
nếu có chỗ tin hiểu, tức cùng với thánh xưa nắm tay mà
đi.

***

Hỏi: Ngài
nói kiến tánh, nếu thật kiến tánh tức là thánh nhơn, ứng
hiện
thần thông biến hóa khác hẳn mọi người. Cớ sao bọn
người tu tâm hiện nay, không có một người hiện thần thông
biến hóa?

Đáp: Ngươi
chớ nên khinh khi mà phát ra lời nói điên như thế. Chẳng
phân tà chánh là người mê đảo. Người học đạo thời
nầy miệng thời bàn chơn lý, tâm thì sanh thối khuất, trở
lại
rơi vào chỗ vô phần, nên khiến ông sanh nghi. Người
học đạo chẳng biết trước sau, nói lý chẳng phân gốc
ngọn, đấy là tà kiến chớ chẳng gọi là tu học, chẳng
những chỉ tự lầm mà còn lầm người. Hạng người nầy
há chẳng thận trọng ư?

Phàm nhập
đạo
có nhiều cửa, nhưng nói chỗ cốt yếu chẳng ngoài
hai cửa “Đốn ngộ và tiệm tu”. Tuy nói đốn ngộ đốn
tu là hàng căn cơ tối thượng mới được vào. Nếu suy về
quá khứ thì đã nhiều đời y nơi ngộ mà tu lần lần huân
tập
cho đến đời nầy, nghe liền phát ngộ, một chốc liền
xong. Xét lẽ thật thì cũng là căn cơ trước ngộ sau tu.

Lại, hai
môn đồn tiệm nầy là lối mòn của ngàn thánh, các bậc
thánh từ trước đâu chẳng trước ngộ sau tu; nhơn tu mới
chứng. Cái gọi là thần thông biến hóa ấy, phải ngộ mà
tu, rồi lần lần huân tập mới hiện, chớ chẳng phải khi
ngộ rồi liền phát hiện. Như trong Kinh nói: “Lý liền đốn
ngộ
, nhân ngộ nên sự đều tiêu, chớ chẳng phải một chốc
liền trừ được các nhơn, phải lần lượt mới hết”.
Ngài Khuê Phong rất thấu đáo về nghĩa trước ngộ sau tu.
Ngài nói: “Biết băng nơi hồ là toàn nước, nhờ ánh mặt
trời
mới tan ra. Ngộ phàm phu tức là Phật, nhờ pháp lực
để huân tu. Băng tan thì nước chảy và mới có công dụng
giặt rửa. Vọng hết thì tâm rỗng suồt, mới ứng hiện
diệu dụng thần thông sáng suốt”. Thế thì, việc thần
thông
biến hóa chẳng phải một ngày có thể thành tựu được,
phải tiệm huân lâu mới có thể phát hiện. Huống lại, việc
thần thông đối với người liễu đạt, còn cho là việc
yêu quái, và cũng là việc bờ mé ngọn ngành đối với bậc
thánh, tuy cũng có hiện nhưng chẳng phải cần thiết.

Ngày nay
bọn ngu mê vọng bảo rằng: một niệm khi ngộ liền hiện
vô lượng thần thông biến hóa. Nếu hiểu như thế, bảo
họ là kẻ không biết trước sau, cũng không phân được gốc
ngọn. Đã không biết trước sau gốc ngọn mà muồn cầu Phật
đạo
, giống như người đem gỗ vuông cho vào lỗ tròn, há
chẳng lầm to ư? Đã chẳng biết nên khởi ý tưởng phiêu
lưu, tự sanh lui sụt, đoạn chủng tánh Phật, người như
thế chẳng phải ít. Đã tự mình chưa sáng cũng không tin
người khác có chỗ giải ngộ. Thấy người giải ngộ không
thần thông liền sanh ngã mạn, khinh hiền dối thánh, thật
đáng thương thay!

***

Hỏi: Ngài
nói hai môn đốn ngộ tiệm tu là lối mòn của ngàn thánh.
Đã đốn ngộ tại sao lại nhờ tiệm tu? Nếu tiệm tu cớ
sao nói đốn ngộ? Lại xin tuyên nói hai nghĩa đốn tiệm,
khiến dứt hết nghi thừa.

Đáp: Đốn
ngộ
ấy là phàm phu khi mê cho tứ đại làm thân, vọng tưởng
làm tâm. Chẳng biết tự tánh là pháp thân chơn thật. Chẳng
biết tự kỷ hư tri là Chơn Phật. Ngoài tâm tìm phật, trôi
nổi
trong gian khổ. Chợt được thiện tri thức chỉ cho đường
vào, một niệm hồi quang thấy được bản tánh mình. Tánh
địa
nầy nguyên không phiền não. Trí tánh vô lậu vốn tự
đầy đủ, tức cùng với trí tánh của chư Phật chẳng khác
nhau chút nào.

Tổ Sư nói:
“Đốn ngộ, tiệm tu là đốn ngộ cái bản tánh cùng chư
phật không khác. Tập khí từ vô thủy khó trừ hết liền,
nên phải y ngộ mà tu, lần lần huân tập mới thành công.
Cũng như nuôi dưỡng thánh thai lâu ngày mới thành thánh, nên
nói tiệm tu. Giống như trẻ sơ sanh các căn đều đầy đủ
cùng với người không khác. Nhưng khí lực nó chưa đầy đủ,
phải trải qua nhiều năm tháng mới thành người lớn.

***

Hỏi: Phải
dùng phương tiện gì khiến một niệm hồi cơ, bèn ngộ tự
tánh?

Đáp: Chỉ
tự tâm ông, lại dùng phương tiện gì? Nếu dùng phương tiện
để cầu giải hội: tỷ như có người chẳng thấy mắt của
mình, cho rằng không mắt, lại muốn cầu thấy. Đã là mắt
của mình thế nào lại thấy? Nếu biết chẳng mất tức là
thấy mắt. Lại không có cái tâm cầu thấy thì đâu có cái
tưởng chẳng thấy. Cái tự kỷ hư tri cũng lại như vậy.
Đã là tự tâm sao lại cầu hiểu? Nếu muốn cầu hiểu bèn
hiểu chẳng được. Chỉ biết chẳng hiểu ấy là kiến tánh.

***

Hỏi: Người
thượng thượng căn nghe rồi liền dễ lãnh hội. Còn người
trung hạ căn, đâu chẳng nghi hoặc? Xin nói phương tiện khiến
người mê được vào.

Đáp: Đạo
chẳng thuộc biết cùng chẳng biết. Ông nên từ bỏ cái tâm
“đem mê đợi ngộ” mà nghe lời nói của ta: các pháp đều
như mộng, như huyễn hóa. Cho nên vọng niệm vốn tịch, trần
cảnh
vốn không. Chỗ các pháp đều không ấy, là cái biết
rỗng suốt chẳng mê (hư tri bất muội), tức là cái tâm không-lặng
rỗng suốt nầy vậy. Đấy là bản lai diện mục của ông,
cũng là cái pháp ấn ba đời chư Phật, lịch đại Tổ Sư
và các bậc thiện tri thức trong thiên hạ, thầm thầm truyền
nhau. Nếu ngộ tâm nầy đúng như có chỗ nói: “Chẳng cần
giẵm qua thứ lớp thẳng đến Phật địa, mỗi bước vượt
qua
ba cõi. Về nhà thoắt tuyệt các nghi, bèn vì người trời
làm thầy. Bi trí nương nhau, đầy đủ hai lợi, kham nhận
người trời cúng dường, ngày tiêu muôn lượng huỳnh kim”.
Nếu ông được như thế, thật là đại trượng phu, việc
hay làm một đời đã làm xong.

***

Hỏi: Căn
cứ theo phần trên, thế nào là tâm không-lặng rỗng suốt?

Đáp: Cái
hiện nay ông hỏi ta, ấy là tâm không-lặng rỗng suốt của
ông. Sao không phản chiếu lại mà còn tìm bên ngoài. Nay ta
căn cứ vào phần trên của ông chỉ thẳng bản tâm, khiến
ông được ngộ, ông nên tịnh tâm nghe ta nói:

Trong mười
hai giờ từ sớm đến chiều, hoặc thấy, nghe, cười, nói,
giận, vui phải, quấy, v.v… Muôn ngàn cái vận chuyển thi
vi. Hãy nói thảy đều là cái gì? Sao hay vận chuyển thi vi?
Nếu nói sắc thân vận chuyển, cớ sao có người một phút
mạng chung, thi thể chưa thối nát mà mắt không tự thấy,
tai không nghe, mũi không phân biệt mùi, lưỡi chẳng đàm luận,
thân chẳng lay động, tay chẳng nắm bắt, chơn chẳng chạy
nhảy? Thế nên biết, cái hay thấy nghe động tác nhất định
là bản tâm ông chớ chẳng phải sắc thân. Huống nữa, sắc
thân
bốn đại nầy tánh nó là không, như ảnh trong gương,
như trăng đáy nước. Đâu thể rõ ràng thường biết, sáng
suốt
chẳng mê hoặc, có cảm liền thông, đủ hằng sa diệu
dụng? Cho nên nói: “Bửa củi gánh nước đều là thần thông
diệu dụng”.

Hơn nữa,
nhập đạo có nhiều đường, ta chỉ ông một môn khiến ông
trở lại nguồn:

Hỏi: Ông
nghe tiếng cu kêu chim hót không?

Đáp: Nghe.

Hỏi: Ông
nghe lại tánh nghe của ông xem có nhiều tiếng không?

Đáp: Đến
chỗ này tất cả âm thanh, tất cả phân biệt đều không
thể được.

Nói: Lạ
thay! Đây là cửa Quan âm nhập lý vậy. Ta hỏi ông : Khi đến
chỗ đó tất cả tiếng, tất cả phân biệt đều không thể
được. Vậy đang lúc đó chẳng phải là hư không sao?

Đáp: Nguyên
lai
chẳng không, sáng suốt chẳng mê.

Hỏi: Cái
thể chẳng không ấy thế nào?

Đáp: Cũng
không tướng mạo, nói không thể đến.

Nói: Đấy
là thọ mạng của chư Phật, chư Tổ ông chớ hồ nghi. Đã
không tướng mạo nào có lớn nhỏ. Không lớn nhỏ nào có
bờ mé nên không trong ngoài, không trong ngoài nên không gần
xa, không gần xa nên không bỉ thử, không bỉ thử nên không
vãng lai, không vãng lai nên không sanh tử, không sanh tử nên
không cổ kim, không cổ kim nên không mê ngộ, không mê ngộ
nên không phàm thánh, không phàm thánh nên không nhiễm tịnh,
không nhiễm tịnh nên không phải quấy, không phải quấy nên
tất cả danh ngôn đều không thật có. Cả thảy đều không
như vậy, thì tất cả căn cảnh, tất cả vọng niệm, cho
đến
muôn ngàn tướng mạo, muôn ngàn danh ngôn đều không
thật
có. Đấy há không phải là cái không-tịch xưa nay, cái
không vật xưa nay sao?

Tuy nhiên,
cái chỗ đều không của các pháp, biết suốt chẳng mê, chẳng
đồng với tánh vô tình. Tự hiểu một cách mầu nhiệm rằng,
đấy là cái tâm thể không-tịch, hư tri, thanh tịnh của ông.
Tâm không-tịch này là cái “thẳng tịnh minh tâm” của ba
đời
chư Phật, cũng là cái “giác tánh bản nguyên” của
chúng sinh. Ngộ nó và giữ nó thì ngồi trên tòa giải thoát
nhất như chẳng động. Mê nó và trái nó thì trường kiếp
luân hồi trong sáu thú. Cho nên nói: “Mê nhứt tâm đến sáu
thú, ấy là đi, là động. Ngộ pháp giới trở về nhứt tâm,
ấy là đến, là tịnh”. Tuy mê ngộ có sai khác, nhưng bản
nguyên
thì chỉ có một. Cho nên nói: “Pháp ấy là tâm của
chúng sinh, cái tâm không-tịch này nơi thánh không tăng nơi
phàm không giảm”. Lại nói: “Nơi thánh trí chẳng sáng,
ẩn phàm tâm chẳng mê”. Chẳng tăng nơi thánh chẳng giảm
nơi phàm, Phật Tổ sao lại khác nơi người? Sở dĩ khác hơn
người, ấy là hay tự giữ tâm niệm vậy.

Ông nếu
tin được thì nghi tình liền dứt, phát chí trượng phu, khởi
kiến giải chơn chánh. Thân nếm cái mùi vị kia, tự đến
tự chấp nhận cái địa vị kia. Đấy là chỗ người tu tâm
giải ngộ. Lại không có thứ đệ và cấp bực. Cho nên gọi
là đốn. Như nói: “Trong cái tín nhơn đã khế hợp với
quả đức của chư Phật không sai một mảy, mới thành tín
vậy”.

***

Hỏi: Đã
ngộ lý nầy lại không giai cấp. Cớ sao lại nhờ vào sự
huân tu lần lần mới thành?

Đáp: Cái
nghĩa ngộ rồi lần lần tu trước đã nói đầy đủ mà cái
tình nghi chưa gỡ. Nay chẳng ngại nói lại. Ông nên lặng
tâm nghe rõ: Kẻ phàm phu từ vô thủy khoáng kiếp cho đến
ngày hôm nay, trôi lăn trong năm đường sanh tử qua lại. Chấp
cứng tướng ngã cùng vọng tưởng điên đảo. Hạt giống
vô minh tập lâu thành tánh. Tuy đến nay đốn ngộ tự tánh
xưa nay không-lặng cùng Phật không khác, nhưng cái cựu tập
này rất khó dứt trừ. Cho nên gặp cảnh thuận nghịch có
giận có vui. Chuyện thị phi lừng lẫy khởi diệt. Khách trần
phiền não
cùng trước không khác. Nếu chẳng dùng sức mạnh
của trí bát nhã, thì làm sao đối trị được vô minh đến
được chỗ thôi hết dứt hết? Như nói: “Đốn ngộ tuy
đồng với Phật, nhưng nhiều đời tập khí sâu. Gió dừng
nhưng sóng còn dậy, lý hiện nhưng niệm còn xâm”.

Cảo Thiền
Sư
nói: “Những kẻ lợi căn thường thường chẳng tốn
nhiều sức để phát minh việc này, bèn sanh tâm dễ dui, lại
chẳng chịu tu trị, lâu ngày chầy tháng vẫn y như trước
trôi nổi, chưa thoát khỏi luân hồi”. Lại há có thể một
phen ngộ bèn bác chỗ hậu tu ư? Nên sau khi ngộ phải lâu
ngày chiếu xét. Vọng niệm chợt khởi đều chẳng theo nó,
lại trừ cho đến không còn trừ mới đến cứu cánh. Bậc
thiện tri thức trong thiên hạ, sau khi ngộ rồi còn phải hành
hạnh chăn trâu là thế.

Tuy có hậu
tu nhưng trước đã đốn ngộ “vọng niệm vốn không, tâm
tánh
vốn tịnh”, nơi việc ác đoạn mà không đoạn, nơi
việc thiện tu mà không tu. Đấy mới là chơn tu chơn đoạn.
Cho nên nói rằng “ Tuy tu đủ muôn hạnh nhưng chỉ lấy vô
niệm
làm tông”.

Ngài Khuê
Phong
nhận xét nghĩa “tiên ngộ hậu tu” như sau: “Đốn
ngộ tánh nầy nguyên không phiền não, vô lậu trí tánh vốn
tự đầy đủ cùng Phật không khác. Y đây tu tập gọi là
tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Như Lai thanh tịnh Thiền,
nếu hay mỗi niệm tu tập, tự nhiên lần lần được muôn
ngàn tam muội. Môn hạ Ngài Đạt Ma lần lượt truyền nhau
là thiền này”.

Lại, nghĩa
đốn ngộ tiệm tu như xe có hai bánh, thiếu một không thể
được. Hoặc có người chẳng biết thiện ác tánh không,
vững ngồi chẳng động, đè nén thân tâm, như đá đè cỏ
cho là tu tâm, đấy là lầm to. Nên nói “Thanh Văn tâm tâm
đoạn hoặc, tâm năng đoạn là giặc”. Chỉ quán sát một
cách đúng đắn rằng sát, đạo, dâm, vọng từ tánh mà khởi,
khởi tức chẳng khởi. Ngay nơi đó liền lặng, cần gì lại
đoạn? Cho nên nói: “Chẳng sợ niệm khởi chỉ sợ giác
chậm”. Lại nói: “Niệm khởi liền giác, giác nó liền
không”. Nên người ngộ tuy có khách trần phiền não nhưng
đều thành đề hồ.

Chỉ nên
soi thay các hoặc nguyên không có gốc. Ba cõi không hoa nầy
như gió cuốn khói. Sáu trần huyễn hóa nầy như nước nóng
tan băng. Nếu hay mỗi niệm tu tập như thế, chẳng quên chiếu
cố “định huệ đồng tu”, thì thương ghét tự nhiên lạnh
nhạt, bi trí tự nhiên thêm tỏ, tội nghiệp tự nhiên đoạn
trừ, công hạnh tự nhiên tăng tiến. Khi phiền não tận thì
sanh tử liền dứt. Nếu dòng phiền não nhỏ nhiệm vĩnh viễn
đoạn trừ, thì Viên Giác đại trí sáng suốt một mình, liền
hiện ngàn trăm ức hóa thân trong mười phương cõi nước.
Tùy cơ cảm ứng giống như trăng hiện trong không, ảnh phân
muôn nước. Ứng hiện không cùng, độ chúng sinh có duyên
khoái lạc vô ưu gọi là Đại Giác Thế Tôn.

***

Hỏi: Trong
pháp môn hậu tu có nghĩa “định huệ đồng tu”, tôi thật
chưa rõ. Lại xin tuyên giải khiến mở mê để dẫn vào cửa
giải thoát
.

Đáp: Nếu
lập pháp nghĩa để vào lý, thì ngàn pháp môn không pháp môn
nào chẳng định huệ. Nắm được cương yếu của nó thì
trên tự tánh thể dụng có hai nghĩa. Trước đã nói “không-tịch
hư tri” ấy vậy. Định là thể, huệ là dụng. Ngay nơi thể
là dụng, nên huệ chẳng lìa định. Ngay nơi dụng là thể,
nên định chẳng lìa huệ. Định tức huệ nên tịch mà thường
tri. Huệ tức định nên tri mà thường tịch. Như Tào Khê
nói: “Đất tâm không loạn là tự tánh định, đất tâm
không
si là tự tánh huệ”. Nếu ngộ được như thế thì
mặc tình tịch mà tri, chiếu soi hay che đậy không hai . Đấy
là cửa “Đốn”, và là Định Huệ song tu vậy.

Nếu nói
trước
dùng lặng lẽ để trị duyên lự, sau lấy tỉnh táo
để trị hôn trầm, trước sau đối trị điều phục hôn
loạn để nhập vào chỗ tĩnh. Đấy là cửa tiệm, là chỗ
sở hành của người căn cơ kém. Tuy nói tỉnh táo và lặng
lẽ
gồm giữ nhưng chưa khỏi giữ tịnh làm pháp hạnh. Đâu
như người liễu sự chẳng lìa bổn tịch bổn tri nhậm vận
song tu. Cho nên Tào Khê nói: “Tự ngộ mà tu hành chớ chẳng
phải ở nơi chỗ tịnh. Nếu mắc nơi tịnh trước sau là
người mê”.

Người liễu
đạt
đối với nghĩa định huệ đồng tu, không rơi vào dụng
công
, nguyên tự nó vô vi, lại không một đặc biệt thời
tiết
nào. Khi thấy sắc nghe tiếng chỉ có vậy. Khi mặc áo
ăn cơm chỉ có vậy. Khi đi ỉa đi đái chỉ có vậy. Khi bàn
chuyện với người chỉ có vậy. Cho đến đi đứng nằm ngồi,
hoặc nói nín, hoặc vui, hoặc giận. Tất cả thời mỗi mỗi
đều như thế. Giống như chiếc xuồng rỗng nương theo sóng
mặc tình lên xuống. Như dòng nước chảy trong núi, gặp lúc
cong, gặp lúc thẳng mà tâm tâm vô tri. Ngày nay bay nhảy mặc
tình, ngày mai mặc tình bay nhảy. Tùy thuận các duyên không
chướng ngại. Nơi thiện ác chẳng đoạn chẳng tu. Chất trực
không dối, thấy nghe tầm thường. Lại không một mảy bụi
để đối đãi, nhọc gì ra sức chùi rửa? Không một niệm
để sanh tình, chẳng nhờ mượn sức quên duyên.

Tuy nhiên
người nghiệp chướng sâu tập khí nặng, huệ quán kém, tâm
trôi nổi nhiều, sức vô minh lớn, sức bát nhã nhỏ. Nơi
cảnh giới thiện ác chưa khỏi bị động tịnh thay đổi.
Tâm không lạnh nhạt. Chẳng thể không quên duyên khiến công
phu
lau chùi. Như nói: “Sáu căn nhiếp cảnh, tâm chẳng theo
duyên gọi đó là định. Tâm cảnh đều không, soi xét không
lầm gọi đó là huệ”. Đây là môn tùy tướng định huệ,
là pháp môn tiệm, là chỗ sở hành của người căn cơ kém.

Nhưng trong
pháp môn đối trị không thể không. Nếu trạo cử lẫy lừng
thì trước dùng định môn, xứng hợp với lý mà nhiếp tâm
tán loạn, chẳng theo duyên khế hợp với bổn tịch. Nếu
hôn trầm quá nhiều thì dùng huệ môn trạch pháp quán không,
soi xét không lầm để khế hợp với bổn tri. Lấy định
trị loạn tưởng, lấy huệ trị vô ký. Động tịnh đều
hết công phu đối trị cũng xong. Thế thì đối cảnh mà mỗi
niệm về nguồn, gặp duyên mà tâm tâm khế hợp với đạo.
Nhậm vận song tu mới là người vô sự. Nếu như thế mới
có thể gọi thật là “định huệ đồng tu”, thấy rõ Phật
tánh
ấy vậy.

***

Hỏi: Căn
cứ chỗ phân tích của Ngài, pháp môn trước ngộ sau tu, trong
nghĩa định huệ đồng tu có hai loại: Một là tự tánh định
huệ
, hai là tùy tướng định huệ. Tự tánh định huệ thì
nói rằng mặc tình lặng biết, nguyên tự nó là vô vi, không
một mảy trần để so sánh đối đãi. Nhọc gì ra sức chùi
rửa. Không một niệm để sanh tình, không nhờ ra sức quên
duyên. Ngài phân đó là môn đốn, chẳng lìa tự tánh định
huệ
đồng tu.

Tùy tướng
định huệ thì nói rằng xứng hợp với lý, nhiếp tán loạn
chọn pháp quán không. Quân bình điều phục hôn trầm và tán
loạn
để nhập vào vô vi. Ngài phân đó là tiệm môn, là
chỗ hành của hàng căn cơ kém. Do đó nên đối với hai môn
định huệ nầy có chỗ nghi.

Nếu nói
chỗ hành của một người là trước y nơi môn tự tánh định
huệ
đồng tu, rồi sau đó là dùng môn tùy tướng công phu
đối trị chăng? Hay là trước lại y nơi môn tùy tướng,
quân bình điều phục hôn loạn, rồi sau mới nhập vào môn
tự tánh? Nếu trước y nơi tự tánh định huệ thì mặc tình
lặng biết, lại không cần công phu đối trị, sao lại phải
giữ môn tùy tướng định huệ?

Nếu trước
dùng môn tùy tướng định huệ đối trị thành công, rồi
sau mới hướng về tự tánh môn thì giống y như trong tiệm
môn, hạng căn cơ kém, trước ngộ sau lần lượt huân, sao
gọi rằng Đốn? Cái ngộ trước tu sau là dùng công phu vô
công phu. Nếu một lúc không trước sau thì hai môn định huệ
đốn tiệm có sự khác nhau, làm sao một lúc đồng hành? Lại
môn đốn ấy y nơi tự tánh môn mặc tình quên công phu. Còn
môn tiệm của hàng căn cơ kém, theo môn tùy tướng công phu
đối trị nhọc nhằn. Như thế căn cơ đốn tiệm của hai
môn chẳng đồng, hơn kém rõ ràng. Thế sao môn ngộ trước
tu sau bên trong đều có chia hai loại? Xin nói rõ để dứt
hết lòng nghi ngờ.

Đáp: Chỗ
tôi giải thích đã rõ ràng, ông tự sanh nghi, theo ngôn ngữ
sanh hiểu biết rồi chuyển thành nghi hoặc. Nếu được ý
quên lời, nhọc gì cật vấn? Nếu đem hai môn mỗi mỗi phán
xét về chỗ hành, thì người tu tự tánh định huệ là môn
Đốn, dùng công phu vô công phu, gồm vận dụng hai cái tịch
tự tu, tự tánh để thành Phật đạo ấy vậy. Người tu
môn tùy tướng định huệ là trước chưa ngộ, dùng môn tiệm
của hàng căn cơ kém để dụng công đối trị, tâm tâm đoạn
hoặc
, giữ gìn cái tịnh làm pháp hạnh. Hai môn này chỗ đốn
tiệm
khác nhau chẳng thể lầm lộn. Môn ngộ rồi tu sau ở
trong ấy đã gồm nói môn tùy tướng đối trị rồi, chẳng
phải toàn để cho hàng căn cơ kém hành, ấy là nắm cái phương
tiện
giả nói kia rồi giữ mãi mà thôi. Bởi cớ nơi đốn
môn này cũng có hạng căn cơ thắng và căn cơ liệt, không
thể lúc nào cũng xét đoán về hành lý kia.

Nếu người
phiền não nhạt mỏng, thân tâm nhẹ nhàng an ổn, nơi thiện
lìa thiện, nơi ác lìa ác, tám gió chẳng động, ba thọ lặng
yên, y tự tánh định huệ nhậm vận song tu. Tánh thiên chơn
không tạo tác động tinh thường Thiền, thành tựu được
lý tự nhiên. Cần gì mượn môn tùy tướng đối trị? Không
bịnh chẳng cần thuốc.

Người tuy
trước đã đốn ngộ, nhưng phiền não còn đầy, tập khí
còn nặng, đối cảnh niệm niệm sanh tình, gặp duyên tâm
tâm đối đãi, bị hôn loạn kia giết chết, mê muội nên
mất “cái biết lặng lẽ thường nhiên”. Ngay đó nhờ môn
tùy tướng định huệ, chẳng quên đối trị, quân bình điều
phục
hôn loạn để nhập vào vô vi, tức phải cần vậy.

Tuy mượn
công phu đối trị, tạm điều phục tập khí, nhưng do trước
đốn ngộ tâm tánh vốn tịnh, phiền não vốn không, nên liền
không lạc về môn tiệm của hàng căn cơ kém và ô nhiễm
tu tập.

Người chưa
ngộ mà tu, tuy dụng công chẳng quên, niệm niệm huân tu mà
thường sanh nghi chưa được vô ngại. Như có một vật ngăn
trong ngực. Cái tướng chẳng an thường hiện ở trước, lâu
ngày chầy tháng ra công đối trị thuần thực, thì thân tâm
khách trần in tuồng được khinh an. Nhưng gốc nghi chưa được
dứt, giống như đá đè cỏ. Còn ở nơi ranh giới của sanh
tử
, chẳng được tự tại. Cho nên nói: “Chưa ngộ mà tu
chẳng phải chơn tu”.

Người ngộ
tuy có dùng phương tiện đối trị, nhưng niệm niệm không
nghi chẳng rơi vào ô nhiễm, lâu ngày chầy tháng tự nhiên
khế hội. Diệu tánh thiên chơn mặc tình lặng biết, niệm
niệm
phan duyên tất cả cảnh, nhưng tâm vĩnh viễn đoạn
các phiền não, chẳng lìa tự tánh định huệ đồng tu. Thành
tựu
vô thượng bồ đề. Sánh với cơ trước có phần hơn,
nhưng lại không sai khác. Vậy thì môn tùy tướng định huệ,
tuy là chỗ hành của hàng tiệm cơ nhưng đối với người
đốn ngộ có thể bảo là “chỉ sắt thành vàng”. Nều
biết như thế thì đâu do hai môn định huệ, mà có cái nghi
thứ lớp trước sau ư ?

Mong các vị
tu hành nên nghiên cứu ý vị của lời nói nầy, chớ hồ
nghi
mà tự sanh lui sụt. Nếu người đủ chí trượng phu,
cầu vô thượng bồ đề, bỏ đây thì làm sao? Cần yếu là
chớ chấp vào văn tự, phải hiểu thẳng và mỗì mỗi qui
về tự kỷ, khế hợp với Thiền Tông, thì vô sư trí, tự
nhiên trí
hiện tiền. Lý thiên chơn rõ ràng chẳng mê, thành
tựu
được huệ thân chẳng do nơi khác mà ngộ.

Lại cái
diệu chỉ nầy tuy là việc chung cho mọi người, nhưng nếu
không
phải là người có căn khí Đại Thừa và đã gieo trồng
giống bát nhã từ trước, thì không thể nào một niệm sanh
chánh tín được. Đâu những chẳng tin lại đi phỉ báng để
chiêu quả vô gián, là thường thấy vậy. Tuy chẳng tin nhận,
nhưng một lần nghe qua tai, cũng tạm thời kết duyên, và cái
công đức của người ấy cũng không thể lường được.
Như trong Duy Tâm Quyết nói: “Nghe mà không tin còn kết được
nhân Phật chủng. Học mà chẳng thành còn hơn phước báo
cõi người, cõi trời, chẳng mất chánh nhơn thành Phật. Huống
lại nghe liền tin, học liền thành công, giữ gìn chẳng mất,
thì công đức kia đâu hay đo lường được?”

Truy niệm
về nghiệp quá khứ luân hồi chẳng biết bao nhiêu kiếp,
theo dòng hắc ám vào địa ngục vô gián, chịu muôn ngàn thống
khổ
chẳmg biết bao nhiêu phen. Muốn cầu Phật đạo chẳng
gặp thiện hữu nên trường kiếp trầm luân, mờ mịt chẳng
biết, tạo tác nghiệp ác. Cũng có lúc hoặc một phen nghĩ,
bất chợt thở dài, lại cam thông thả để rồi trở lại
thọ nhũng tai ương như trước sao?

Chẳng biết
ai khiến ta nay được làm người, trong vạn vật hư dối nầy,
chẳng mê mờ đuờng tu chơn. Thật có thể gọi là rùa mù
gặp bộng cây, hạt cải ném vào lỗ kim. Đấy là một điều
vinh hạnh có gì hơn? Nay ta nếu tự sanh lui sụt, hoặc sanh
lười biếng mà thường trônng lại phía sau, bỗng chốc mất
thân mạng, thoái đọa vào đường ác chịu các khổ não.
Khi ấy tuy mong nghe được một câu Phật pháp để tin hiểu
thọ trì, mong khỏi cảnh chua cay ấy còn trông gì được?
Đến lúc lâm nguy hối hận không ích gì.

Mong các vị
tu hành chớ sanh phóng dật, chớ mắc tham dâm. Như cứu lửa
cháy đầu chẳng quên soi xét. Vô thường chóng vánh, thân
như giọt sương mai, mạng như bóng trời chiều. Ngày nay còn
đây, ngày mai khó bảo toàn. Cần phải lưu ý!

Vả lại
bằng vào cái thiện hữu vi ở thế gian cũng có thể khỏi
ba đường khổ luân hồi, nơi cõi trời, cõi người được
quả báo thù thắng, thọ các khoái lạc. Huống lại, đây
là pháp môn tối thượng thừa rất thâm sâu. Chỉ tạm thời
có niềm tin cũng thành tựu được công đức không thể lấy
tỷ dụ mà nói được một phần nhỏ. Trong Kinh nói: “Nếu
có người lấy bảy báu bằng ba ngàn đại thiên thế giới,
bố thí cúng dường cho bao nhiêu chúng sanh trong thế giới
ấy đều được đầy đủ. Lại giáo hóa cho họ được tứ
quả
. Công đức kia vô lượng vô biên, cũng không bằng cái
công đức chỉ khoảng một bửa ăn chánh tư duy pháp nầy”.
Thế nên pháp môn nầy của ta tối tôn tối quí đối với
các công đức so sánh không đến được. Cho nên Kinh nói:
“Một niệm tịnh tâm là đạo tràng, còn thù thắng hơn tạo
tháp bảy báu như hằng sa. Tháp báu rồi sẽ nát thành bụi,
một niệm tịnh tâm thành tựu được quả Phật”.

Mong mỏi
các vị tu hành nghiên cứu ý vị của lời nầy, cần phải
lưu ý! Thân nầy chẳng nhằm đời nầy độ, lại đợi đời
nào
độ thân này? Nay nếu chẳng tu, ngàn kiếp sai lầm. Nay
nếu gắng tu cái hạnh khó tu, lần lần được công hạnh
chẳng khó, rồi sẽ tự tiến. Than ôi! Người thời nay đói
gặp cơm vua mà chẳng biết ăn. Bịnh gặp y vương cho thuốc
mà chẳng biết uống. Không biết phải nói như thế nào! Tôi
cũng đành cam chịu vậy!

Vả lại
việc hữu vi ở thế gian hình dáng nó còn có thể thấy, công
dụng
nó còn có thể xét nghiệm. Khi thành công một việc
người ta còn tán thán cho là ít có. Còn Tâm tông của ta đây
không hình có thể nhìn, không trạng có thể thấy, đường
ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành tuyệt. Cho nên thiên ma ngoại
đạo
hằng hủy báng cửa “Không”. Thích Phạm chư thiên
không ngớt ngợi khen. Huống nữa, kẻ phàm phu dùng kiến thức
cạn cợt, đối với Tâm tông còn mờ mịt, làm sao biết được?

Thương thay!
Con trạnh trong giếng sao biết được bao la của bể cả. Con
dã can làm sao rống được tiếng Sư tử? Cho nên, trong đời
mạt pháp mà có người nghe pháp môn nầy cho rằng rất hy
hữu
và tin hiểu thọ trì, người ấy đã ở trong vô lượng
kiếp
thừa sự chư Thánh và gieo trồng các căn lành, kết
sâu được cái chánh nhơn bát nhã, có căn tánh tối thưọng.
Kinh Kim Cang nói: “Người đối với chương cú nầy hay sanh
tín tâm, nên biết người ấy đã ở chỗ vô lượng đức
Phật
trồng các căn lành”. Lại nói: “ Vì những hàng phát
tâm
Đại Thừa mà nói, vì những hàng phát tâm Tối Thượng
Thừa
mà nói”.

Mong các vị
cầu Đạo chớ sanh tâm hèn yếu, cần phải phát tâm dõng
mãnh. Cái nhơn lành đời trước nay đâu biết được? Nếu
chẳng tin mình có khả năng thù thắng thì cam làm hạ liệt
rồi sanh ý tưởng cho là khó khăn. Nay chẳng chịu tu, dù có
thiện căn đời trước, hiện nay đoạn tuyệt. Càng ở trong
cái khó kia lần lượt thành xa vậy.

Nay đã đến
núi châu báu chẳng lẽ trở về tay không. Một phen mất thân
người muôn kiếp khó tìm lại. Mong phải cẩn thận đó!

Há lại có
người biết núi châu báu kia mà chẳng cần nó, rồi lại
hằng oán trách mình nghèo khó ư?

Nếu muốn
được châu báu thì đừng tiếc thân này./.

Source: http://old.thuvienhoasen.org/chontamtructhuyet-00.htm

WP: Mỹ Hồ

Tin bài có liên quan

Thiền Thất Khai Thị Lục

Kho Báu Nhà Thiền

Những Đóa Hoa Thiền

Những Đóa Hoa Thiền

Tiến Thẳng Vào Thiền Tông

Tiến Thẳng Vào Thiền Tông

Quan Điểm Của Daisetz Suzuki Về Công Án

Đôi Nét Về Thiền Công Án

Công Án Thiền Và Vấn Đề Nhận Thức

Lâm Tế Nghĩa Huyền – Tiếng Hét Vang Động Trong Vô Cùng

Góp Nhặt Lá Rừng

Gõ Cửa Thiền

Load More

Discussion about this post

Những Sức Mạnh Ở Đời

Những sức mạnh ở đời

 NHỮNG SỨC MẠNH Ở ĐỜI Quảng Tánh Chúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có...

Hãy Dừng Lại, Và Thể Hiện Sức Mạnh Của Đạo Phật

Hãy Dừng Lại, Và Thể Hiện Sức Mạnh Của Đạo Phật

Hãy dừng lại, và thể hiện sức mạnh của Đạo PhậtThục QuyênĐức Thế Tôn vẫn thản nhiên tiếp tục bước...

Những Đặc Điểm Đức Phật Dạy Về Thế Giới Ngày Nay

Những đặc điểm Đức Phật dạy về thế giới ngày nay

Một số người tin rằng Phật giáo là một hệ thống giáo lý quá cao siêu và vi diệu mà...

TÂM THƯ XÂY DỰNG QUAN ÂM PHẬT ĐÀI

TÂM THƯ XÂY DỰNG QUAN ÂM PHẬT ĐÀI Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Nạn Quan Thế Âm...

Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Của Tổ Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam (1258 – 1308)

Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Của Tổ Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam (1258 – 1308)

BÀI THƠ CƯ TRẦN LẠC ĐẠO của Tổ Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam (1258 – 1308) Tâm Thường Định...

Điều Trị Bệnh Tận Gốc

Điều Trị Bệnh Tận Gốc

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Chữ Hiếu Trong Đạo Phật – Ht.thích Trí Quảng

Chữ Hiếu Trong Đạo Phật – Ht.thích Trí Quảng

Mùa Vu lan lại trở về, gợi nhắc chúng ta nhớ đến tình thương vô bờ bến của cha mẹ...

Ngũ ngôn về cái nhìn

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Tứ Diệu Đế

Tứ Diệu Đế

TỨ DIỆU ĐẾ (BỐN CHÂN LÝ CAO CẢ) Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Thứ 14 thuyết pháp tại Đại Học Washington Tất...

Chánh Ngữ Trong Đời Sống Quan Trọng Như Thế Nào?

Chánh ngữ trong đời sống quan trọng như thế nào?

Ngày 27-3 vừa qua, lễ trao giải Oscar lần thứ 94 được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và...

Đường Phật Đi 2

2.001 Đời thứ 34. Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744)2.002 Đời thứ 35. Thiền sư Giang Tây Đạo Nhất...

Tín Tâm Dao Động Không Thể Vãng Sanh (Phần Cuối)

TÍN TÂM DAO ĐỘNG KHÔNG THỂ VÃNG SANH (PHẦN CUỐI) (Trích lục từ Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng...

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 333)

  Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác KinhTập 333 Xin mời mở quyển kinh...

Cúng Dường Hoa Quả, Đèn, Nước Có Ý Nghĩa Gì?

Cúng dường hoa quả, đèn, nước có ý nghĩa gì?

  CÚNG DƯỜNG HOA QUẢ, ĐÈN, NƯỚC CÓ Ý NGHĨA GÌ?Pháp sư Tịnh Không Phải hiểu được những đồ dùng...

Những Ngọn Gió Đời

Những Ngọn Gió Đời

NHỮNG NGỌN GIÓ ĐỜIThích Chân Tính Có những ngày tháng khó có thể quên, những kỷ niệm êm đềm một...

Những sức mạnh ở đời

Hãy Dừng Lại, Và Thể Hiện Sức Mạnh Của Đạo Phật

Những đặc điểm Đức Phật dạy về thế giới ngày nay

TÂM THƯ XÂY DỰNG QUAN ÂM PHẬT ĐÀI

Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo Của Tổ Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam (1258 – 1308)

Điều Trị Bệnh Tận Gốc

Chữ Hiếu Trong Đạo Phật – Ht.thích Trí Quảng

Ngũ ngôn về cái nhìn

Tứ Diệu Đế

Chánh ngữ trong đời sống quan trọng như thế nào?

Đường Phật Đi 2

Tín Tâm Dao Động Không Thể Vãng Sanh (Phần Cuối)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 333)

Cúng dường hoa quả, đèn, nước có ý nghĩa gì?

Những Ngọn Gió Đời

Tin mới nhận

Phật dạy: Hãy tự mình nương tựa chính mình

Câu chuyện Valentine: Lời Phật dạy về yêu thương trong tình yêu

Đức Phật đản sinh – Suối nguồn từ bi và bình đẳng

Hòa bình và hữu nghị với các tôn giáo trên thế giới

HT. Thích Bảo Nghiêm: Nương tựa vào danh hiệu Phật để nhớ hạnh Phật, lời Phật dạy

Lời Phật dạy quý giá dành cho người phụ nữ

Lễ Khánh Thành Công Trình Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức Tại Tp. Hồ Chí Minh

Đừng buồn lo gì cả

Clip Hòa Thượng Thích Quảng Đức Tự Thiêu Diễn Lại: Từ Điểm Nhìn Chuyên Môn – Minh Thạnh

Vì đâu ‘khẩu Phật tâm xà’?

Chùa Long Phước, 34 Ấp Long An,thị Trấn Cái Tắc, Huyện Châu Thành A,tỉnh Hậu Giang

Văn Tưởng Niệm Thánh Tử Đạo

Chùa Núi Minh Đức – Khối Phố Thạnh Đức, Huyện Phú Ninh, Tỉnh Quảng Nam, Việt Nam

Thiên ma dâng ngọc nữ

Câu chuyện một con đường

Bất biến và tùy duyên

Giá trị bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo: Tứ Diệu Đế

Không giận không oán sẽ không đau khổ

Phú Khánh Tự – Điểm Hẹn Của Những Tấm Lòng

Ý nghĩa thâm sâu từ tư thế ngủ của Đức Phật

Tin mới nhận

Lời Khuyên Cho Các Đệ Tử

Lạy ông Phật nào?

Bài tham luận đọc tại Đại Hội Tăng Già Thế Giới (WBSC) họp tại Penang Malaysia từ ngày 10 đến ngày 15.11.2018 của Hoà Thượng Thích Như Điển.

Không ăn thịt một ngày, chúng ta được lợi ích gì?

Tùy Bút: Suy Tưởng Dài Hơi

CHÍNH MÌNH PHẢI LÀM GƯƠNG

Trái Tim Mặt Trời

Học theo gương hạnh Đức Phật

Ánh sáng của tất cả các pháp

Chư Kinh Tập Yếu

Cải Xào Thập Cẩm

Hãy Để Những Đóa Hoa Vô Ưu Luôn Nở Trong Ta

Kinh Ba Cửa Giải Thoát

Làm sao cho đá nổi, bơ chìm?

Thượng Tọa Pomnyun Trở Thành Một Nhà Sư, Như Thế Nào? (song ngữ)

Biện Chứng Bát Nhã Và Long Thọ

Để Xứng Đáng Làm Người Nữ Tu

Tâm Tình Trong Đêm Thắp Nến Nguyện Cầu Phật Đản – Thích Minh Tuệ

Đắc Nhân Tâm Theo Phong Cách Phật Giáo

Đóa hoa vô thường

Tin mới nhận

Sáu pháp thành tựu trong Kinh Kim Cang

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 154)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 43)

Kinh Hạnh Con Chó – Trung Bộ Kinh Majjhima Nikaya 57 (Kukkuravatika Sutta)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 89)

Đức Phật dạy có bốn loại vợ chồng sống chung với nhau

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 49)

A Hàm – Mưa Pháp Chuyển Hóa Phiền Não

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 201)

Bài Kinh Dài Về Tánh Không

Toát Yếu Nội Dung Các Kinh Trường A Hàm

Milinda Vấn Đạo Người Dịch: Tỳ Khưu Indacanda

Kinh Kỳ-lợi-ma-nan (Girimànandasutta)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 327)

Hướng Dẫn Đọc Kinh Trung Bộ

VÀI CẢM NGHĨ VỀ BÁT NHÃ TÂM KINHLê Tấn Tài

Tìm Hiểu Trung Bộ Kinh Tập 1.2.3

Chú Giải Kinh Phạm Võng

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 4)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 198)

Tin mới nhận

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 25)

Làm Thế Nào Để Làm người Tốt Như Pháp (Tập 21)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 281)

Làm Thế Nào Để Trẻ Thơ Tiếp Nhận Giáo Dục Phẩm Đức (Tập 1)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 70)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 142)

“Tưởng Niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 98)

Vì Sao Niệm Phật Không Vãng Sanh

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 6)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 89)

Khai Thị Của Đại Sư Hám Sơn

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 319)

Học Phật chớ nên hồ đồ, ngộ nhận…

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 154)

Khuyên Người Niệm Phật Tập 3

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

Bước chuyển từ triết lý Niệm Phật đến tín ngưỡng Niệm Phật

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 101)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 274)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

Chinese (Simplified)EnglishFrenchGermanJapaneseKoreanRussianSpanishVietnamese